Wednesday, January 3, 2024

VIỆN SĨ VÀ “HÀN SĨ”.

Một quê hương, hai nẻo đường.

PHẦN I

Quê hương chỉ là cái tên trong quá khứ. Tôi không rõ, có phải làng, xã hay huyện, tỉnh, nơi mình chôn nhau cắt rốn mới có tên gọi quê hương. Đối với tôi, quê hương chỉ là cái tên Thường Đức, một địa danh không còn danh.

Người ta có thói quen gọi địa danh theo sở thích tiện lợi. Thường Đức (Quảng Nam) thành Thượng Đức – một địa danh có một lúc hai tượng đài chiến thắng cũng chỉ về một trận đánh lịch sử năm 1974. “Lịch sử” vì nó là một đơn vị hành chánh cấp quận được “giải phóng” đầu tiên ở miền Nam, mở màn cho trận đánh cấp tỉnh, rồi toàn nước ngày 30 tháng 4 năm 1975. Lịch sử vì nó là trận đánh “quân ta” hy sinh gần 1000 (chính xác là 921 người) binh sĩ tinh nhuệ cấp sư đoàn, dưới sự chỉ huy của một tướng lĩnh dày dạn trận mạc. Và “quân địch” không rõ là bao nhiêu ở đơn vị cấp quận. Xác chết một số người sau mấy ngày chiến thắng trôi lềnh bềnh trên mặt 2 con sông chảy qua quận lỵ; để khỏi thối, dân chúng phải dùng sào để đẩy thi thể sắc phục “lính” trôi theo dòng nước vô tình. “Lịch sử” còn một điều nữa: cứ mỗi năm vào tháng 3, dân chúng các làng đều chung một ngày giỗ cho thân nhân của mình, những người mất tích trong ngày “chiến thắng”.

Quê hương tôi bắt đầu bằng chữ Thượng – Lộc Thượng, cái chữ khiến người ta liên tưởng đến người Thượng, sống rất nhiều trong dãy Trường Sơn bao bọc các làng mạc, xóm thôn. Thượng để phân biệt với kinh (người ở đồng bằng). Sau này, dân tộc Việt lại vô tình có thêm dân tộc Kinh! Thời ông Ngô Đình Diệm, quê tôi thường tổ chức hội chợ (hồi ấy còn gọi là chợ phiên – không đúng lắm) triển lãm nông nghiệp trưng bày sản phẩm của người kinh lẫn người thượng; lúc nhỏ tôi thấy câu khẩu hiệu rất lớn ở giữa: KINH THƯỢNG MỘT NHÀ. Ý nói dân tộc miền thượng và dân tộc vùng xuôi đều là anh em.

Lộc Thượng gồm 3 xã ở thượng nguồn sông Vu Gia: Lộc Bình, Lộc Vĩnh, Lộc Ninh thuộc sự quản lý của quận Đại Lộc. Thời Pháp thuộc ba xã này gọi là tổng Đức Thượng thuộc huyện Đại Lộc. Thời Việt Minh, Đại Lộc đổi thành huyện Đỗ Ngọc Mai, tên của vị trí thức liệt sĩ tham gia chống Pháp đầu tiên bị thực dân sát hại. Thời ông Ngô Đình Diệm, ba xã trên cùng với một phần của quận Hiên (Tây Giang và Đông Giang ngày nay) và quận Giằng (Nam Giang) trở thành quận Thường Đức vào cuối năm 1957. Tại đây có đồn An Điềm (quân Mỹ đóng một thời gian để huấn luyện quân “biệt kích”), bây giờ có trại giam nổi tiếng cùng tên.

Vị trí chiến lược quận lỵ Thường Đức được chú ý từ thời Tây. Thực dân Pháp chú trọng vùng này vì từ đây, dân quân Việt Minh có thể đi qua Lào, vô Nam (ngả Kon Tum), ra Bắc (ngả Nam Đông của Khu Tư – Bình Trị Thiên). Họ lập ra đồn Hiên (gần khu du lịch Cổng Trời) để vừa kiểm soát người dân tộc vừa kiểm soát người Kinh lôi kéo người Thượng theo Việt Minh. Người Mỹ sau này cũng chú ý tới Thường Đức (với đồn An Điềm). Sau đó, nhận thấy sự quan trọng của đường mòn Hồ Chí Minh, với phương tiện dồi dào về vận chuyển, họ bỏ căn cứ này và lập căn cứ mới ở Khâm Đức, cách đó non 100 cây số (nay thuộc Phước Sơn). Khi mất Thường Đức năm 1974, quân đội Sài Gòn có kế hoạch chiếm lại nhưng bỏ dở vì “thời thế” không còn. Mỹ thật sự bỏ rơi miền Nam. Tái chiếm một quận lỵ để lấy lại tinh thần là điều vô ích. Đồi 1062 (ở Thường Đức) là trận thư hùng ác liệt nhất giữa hai quân đội chính quy tại Quảng Nam tính tới thời điểm ấy.

Ở một quê hương mà sự ác liệt của chiến tranh đem lại không biết bao nhiêu mất mát cho người dân quê mình - cả hai bên, mỗi lần về thăm mồ mả cha ông, lòng tôi luôn luôn trĩu nặng. “Giải phóng” hay “chiến thắng”, quê tôi vẫn là nơi thiệt thòi nhất, mất mát nhất, và đau thương nhất. Thời VM, tất cả kiến trúc văn hóa như đình làng (đình nhóm), đình trung, chùa chiền, miếu mạo, đền đài…bị phá nát vì “tiêu thổ kháng chiến”. Pháp ném bom thường xuyên vùng “tự do” của Việt Minh (tức quê tôi). Trước mặt nhà viện sĩ (nhân vật tôi sẽ nói tới) Đặng Huy Huỳnh là ngôi chợ Trúc Hà. Bom và súng “liên thanh” của máy bay Pháp sát hại hơn 20 người đi chợ. Thịt người trộn lẫn thịt heo, thịt trâu. Mẹ của viện sĩ nằm trong số người may mắn sống sót. Chị ruột tôi sắp đẻ cùng chết với mẹ và hai đứa em chồng trong trận bom cùng năm.

Thời “đánh Mỹ”, không một mái nhà nào còn khi xóm làng chìm ngập trong bom napalm và đạn pháo; dân được đưa vào các trại tạm cư thiết lập quanh trụ sở quận lỵ. Số khá giả khác thì tản cư ra Hội An hay Đà Nẵng. Đồng không, nhà mất, không tiêu thổ kháng chiến mà như tiêu thổ kháng chiến. Ngôi nhà ngói năm gian chắt chiu từ mồ hôi nước mắt của cha tôi nằm trong chảo lửa chiến tranh. Dù anh tôi là quan chức của VNCH, ngôi nhà người cha của anh  không khác ngôi nhà của những người theo cộng sản (rất ít): tan hoang.

Thời Pháp thuộc, người dân chỉ biết có ruộng đồng, núi rừng.  Đường đi từ “trung tâm” (nơi chợ Hà Tân bây giờ) đến tòa sứ (Pháp) ở Hội An thật thiên nan vạn nan: đi bộ hơn một ngày đường. Khi có chuyện bất công, chẳng ai muốn thưa kiện. Đi lại để hầu tòa vừa tốn kém vừa gian nan. Dân làng sống trong nỗi uất ức nếu có ông địa chủ hay cường hào nào đó ra tay bóc lột. Việc học hành còn gian nan hơn; nếu muốn lên…trung học thì phải ra Huế. Làng tôi có một (trong 2 người của tổng Đức Thượng) đỗ tú tài 2 trước 1940, sau này làm đến phó tỉnh trưởng. Quan huyện cho người đưa về tận làng bằng võng lọng. Dân làng mang trống chiêng ra đón tiếp. Chủ nhà mổ hai con trâu để thết cả làng.

Năm 1940, Pháp mới cho mở trường sơ, tiểu học Ecole de Đức Thượng; ngôi trường mượn chỗ dạy là đình trung (nơi hội họp và cúng tế) của làng tôi. Thầy phụ trách đầu tiên là ông giáo Xuân (ông ngoại của nghệ sĩ hài Hoài Linh). Nếu muốn thi tiểu học (gọi là primaire), thí sinh phải đi bộ chừng 15 cây số để dự học ở trụ sở huyện đường Đại Lộc (tức Phú Hương – còn gọi là huyện cũ). Vì nghèo, vì không có chỗ học hành thuận tiện, ở quê tôi trước 1945, nhà nào có con đỗ primaire nhà ấy là niềm hãnh diện đối với mọi người. Người đầu tiên đậu trung học (tức diplome) làm bí thư huyện thời Việt Minh là ông Quách Xân (có em ruột hiện nay là viện sĩ hóa học Mỹ, Quách Đăng Triều). Bí thư huyện hồi VM ở vùng tôi thường là thầy giáo có bằng diplome. Sự học rất cam khổ (vì không có trường lớp) nên thất học là chuyện “đương nhiên”.

Nhưng có hai người thuộc nhà nghèo nhưng không chịu “đương nhiên thất học”. Họ không đầu hàng nghịch cảnh: Ăn chưa no làm sao lo tới học. Đó là: viện sĩ khoa học Đặng Huy Huỳnh và “hàn sĩ” Lê Chi Tịch, đôi bạn (người 92, người 90 tuổi) ngày xưa học chung một lớp, cùng một ngôi trường, nhưng lại hai nẻo đi.

                                      (Hết phần I).

“Viện sĩ” và “hàn sĩ”.

PHẦN HAI

Chú ‘bộ đội’ Huỳnh: từng bước gian nan.

Sinh năm 1930 (giấy tờ là 1933), đỗ “primaire” năm mười bốn tuổi, Đặng Huy Huỳnh là học sinh xuất sắc trong số 4 đến 5 người đậu cùng khóa thi năm 1946 ở vùng quê Lộc Thượng, sau này là Thường Đức. Xuất thân trong một gia đình nghèo, có 5 anh em, mẹ thỉnh thoảng buôn gánh bán bưng, cha làm thợ may vá, thường gọi “Thập” Thanh; vì mỗi chúa nhật, ông giữ việc “xướng kinh” và cầm cây thánh giá trong các ngày lễ ở nhà thờ Trúc Hà (xây dựng năm 1926).

Anh trai Đặng Huy Thanh (1927) làm “quốc sự” (tham gia tổ chức chống Tây thời tiền cách mạng) trước khi VM “cướp chính quyền” tháng 8 năm 1945. Thỉnh thoảng thấy anh mình “viết” truyền đơn cho tổ chức, cậu Huỳnh chỉ nghe anh căn dặn “chớ nói với ai, kể cả với ba mẹ”. Đó là lần đầu tiên cậu bé hiểu “yêu nước” nguy hiểm thế nào. Cậu Huỳnh được phân công làm “đội trưởng” đội thiếu niên cứu quốc (làng Trúc Hà). Ông kể, việc làm của “đội trưởng” lúc ấy là, mỗi ngày, “chỉ huy” các bạn đi khắp làng, gom các hũ gạo tiết kiệm (gọi là “hũ gạo nuôi quân”) về giao cho thủ quỹ (gạo). Ông thích thú nhất là vinh dự được giữ chiếc nón lá đựng nhẫn, bông tai, vòng vàng…của dân làng cởi ra hiến tặng cho Kháng Chiến trong “Tuần Lễ Vàng”.

Học giỏi, ông còn hát hay và đóng kịch rất tự nhiên. Ở một vở kịch thiếu nhi diễn trong đình làng, lấy giấy bản màu vàng nhạt (dùng để gói thuốc bắc), cậu Huỳnh dán thành chiếc mũ ca-lô để đội, và thay vì cái xắc là khẩu súng làm bằng bẹ chuối đeo qua vai; hình ảnh đẹp đẽ như trong thơ Tố Hữu:

Ca lô đội lệch

Mồm huýt sáo vang

Như con chim chích

Nhảy trên đường vàng...

Là một vùng quê nghèo, VM bất ngờ xuất hiện, đem đến những đổi thay trước đây không có. Thay vì ra làng họp theo lệnh lý trưởng, dân chúng hồ hởi trong những buổi họp mỗi khi thấy có cán bộ Việt Minh. Xóa mù chữ là công lao của họ. Phong kiến và thực dân muốn cho người dân “mù chữ” để dễ bề cai trị. Cậu bé Huỳnh phấn khích đón nhận Việt Minh.

Tuổi 17, nhưng nhỏ thó, trông như 14, ông đăng ký vào “thiếu sinh quân”. Khám sức khỏe xong, bảy ngày sau có kết quả: Đặng Huy Huỳnh được “đăng lính”. Tôi hỏi, “thầy có ‘động cơ‘ gì không?". Ông cười, hàm răng giả rung rinh. Có động cơ gì đâu. Ông thấy lính VM thật dễ thương. Ở nhà nào, họ cũng lễ phép như con cái trong gia đình. Mẹ ông cũng được họ gọi 'mẹ'. Cha ông cũng như cha họ, những chàng trai vệ quốc đáng yêu. Họ dắt ông ra sông tắm. Lần đầu tiên ông thấy họ có cục…xà phòng (xà bong). Khi về, trên vai họ là đôi gánh với hai thùng nước. Ở quê, nước sông là nước sống. Có nước sông, có đời sống. Không ai đào giếng vì không đúc được bi giếng. Xi măng là từ ngữ không hề có trong tự vựng vùng quê thời ấy. Bộ đội gánh nước về cho nhà cậu. Theo họ là lựa chọn đúng.

Tôi hỏi thêm, ngoài lý do trên, còn lý do nào nữa? Ông nói, bà ngoại hay nhắc đến tên Nguyễn Ái Quốc, một người yêu nước, đứng lên lãnh đạo Việt Minh, đánh đổ Pháp, giải phóng nước nhà. Khi có tên đăng bộ đội, cha mẹ ông rất sững sờ. Vào lính làm sao thằng Huỳnh chịu nổi, “hắn ốm tong, ốm teo” mà. Anh trai ông là người “của tổ chức” thuyết phục gia đình “để nó đi”. Điều ông mong muốn đi bộ đội, rất thật thà, ông nói do bài hát của Đinh Nhu, truyền miệng rất phổ thông ở vùng quê thời mở đầu Việt Minh:

“Cùng nhau đi Hồng binh

Đồng tâm ta đều bước

Đừng cho quân thù thoát

Ta quyết chí hy sinh

Nào anh em nghèo đâu

Liều thân cho đời sống

Mong thế giới đại đồng

Tiến lên quân Hồng

Đời ta không cần lo

Nhà ta không cần tiếc

Làm sao cho toàn thắng

Ta mới sống yên vui”.

Kể đến đây, ông buột miệng hát, rất rõ ràng, rất mạnh mẽ, cùng người bạn đồng niên ngồi cạnh. Hai người tưởng tôi không biết bài hát này. Cha tôi là cán bộ VM từng hát cho tôi nghe với vẻ hồ hởi khi kể những câu chuyện trong những ngày đầu kháng chiến ở vùng quê, gọi là vùng ‘tự do’, phân biệt với vùng ‘bị chiếm’ (có Tây và quân đội ‘quốc gia’).

Những người cộng sản am hiểu tác động của âm nhạc từ rất sớm. Trong “kháng chiến chống Mỹ”, tôi được biết, nhiều người miền Bắc hăng hái ôm súng ra chiến trường “giết giặc” không màng mạng sống, chỉ vì những bài hát oai hùng, lẫm liệt, “giàu sức chiến đấu”. Họ nghe tuyên truyền không nhiều bằng những bản nhạc hùng tráng, thôi thúc thanh niên ra chiến trường “không tiếc máu xương”.

Ông Huỳnh nhớ lại với nụ cười thật thà, “hồi ấy, có biết yêu nước là gì đâu”. Nghe trúng tuyển ‘đi bộ đội’, dù là thiếu sinh quân, ông mừng và mất ngủ mấy đêm. Nhưng cha, mẹ rất lo lắng. Chỉ có ‘anh Thanh’ là ủng hộ. Anh Hai Việt Minh! Tưởng là đóng quân tại quê nhà, cậu bé Huỳnh không ngờ, sau ba tháng tập đi ‘một hai, một hai’, đơn vị ông theo đường Trường Sơn vào tận khu du kích Ba Tơ, Quảng Ngãi. Bộ đội phát cho ông hai bộ ‘quân phục’ (màu đen, vải xi-ta, dệt rất thô). Ông mừng tở mở khi xúng xính trong bộ đồ mới  còn thơm mùi vải.

Người cha đãi con trai một bữa mì Quảng (hồi ấy, rất ‘thịnh soạn’) duy nhất tại làng Đại Mỹ (sát trại giam An Điềm ngày nay). Chú bộ đội ‘con’ không ngờ đó là bữa ăn cuối cùng với người cha thân yêu. Và cũng là lần cuối cùng, ‘chú’ không còn gặp ai nữa trong gia đình: mẹ mất năm 1966; ngoài em trai út, cha, anh hai, và hai em của cậu đều mất trong thời gia xảy ra trận đói kinh hoàng năm 1947, chỉ sau một tháng Huỳnh rời khỏi quê nhà.

Mùa lúa mất sạch, liên tiếp hai vụ. Vì là vùng đất đai trù phú, không ai trồng màu để ăn thay gạo. Lúa bị ‘bù lạch’ (một loại nấm) “ăn” sạch. Hầu hết nông dân không dự trữ nhiều lúa thóc. Người ta vào rừng đào củ ‘nần’ để nấu ăn cứu đói (loại củ rừng to như bắp chân).

Nhiều người ở nơi xa, tản cư, kéo đến vùng trồng lúa để kiếm ăn. Không ngờ, người trồng lúa có kẻ cũng chết đói như họ. Ngày nay, vẫn còn nhiều nấm mồ vô chủ chôn dọc đường đi, gọi là mả ‘thí’, không ai nhang khói. Củ nần luộc bỏ nước đôi ba lần mới ăn. Nhiều người không biết, luộc ăn ngay, có người mất mạng vì ngộ độc. Nhiều gia đình phải đào cả củ chuối chát (chuối hột) trong vườn để luộc ăn thay cơm. Thỉnh thoảng đôi ba hôm, trâu trên đồng bị đạn từ máy bay bắn chết (Pháp muốn tiệt đường sản xuất), người ta xẻ thịt ăn thay cơm. Đói cũng chết nhưng no cũng chết. Có người mất mạng do đói ăn năm bảy ngày, sau lại ăn thịt thay cơm, quá nhiều.

Theo bộ đội, tuy tập luyện vất vả, cậu Huỳnh không phải chịu cảnh đói ăn như gia đình tại quê nhà. Một thời gian ở Ba Tơ, cậu và một số ‘học sinh’ có bằng primaire được chọn qua Lào…hoạt động Vê Tê Troa (VT trois: V và 3 chữ T: Võ Trang Tuyên Truyền. Cụ gọi theo tiếng Pháp). Trước khi đi, ông Phạm Văn Đồng, lúc ấy phụ trách vùng Trung bộ, dặn dò: Tuyệt đối coi người Lào như ruột thịt; coi cây cỏ, ngọn rau của họ như cây cỏ ngọn rau của VN. Cụ nói, chính vì thế, những năm sống trong rừng núi Lào để lôi kéo người dân bản địa tham gia chống Pháp, ông và đồng đội không bao giờ động đến ‘cây kim sợi chỉ’ của họ. Dù có khi đói, đơn vị ông không bao giờ dùng vũ khí để giết thú rừng ‘cải thiện’ bữa ăn như sau này ở Trường Sơn trong chiến tranh đánh Mỹ.

Ông kể, trước đình chiến, rời Lào qua Miên, nhiều lần tìm nước uống vào mùa khô, đơn vị của ông đối mặt với cả voi lẫn bò rừng (gọi là min) cũng đang tìm nước khô đọng dưới suối khe. Nhiều lần như thế, thú rừng và con người gặp nhau, thân thiện, yêu thương; lòng yêu thiên nhiên và thú rừng ở ông manh nha từ đó. Và sau này, ông trở thành nhà khoa học môi trường, người Việt Nam đầu tiên được vinh danh Anh hùng Đa dạng sinh học ASEAN.

Là người lính làm công tác lôi kéo giới ‘có học’ theo Việt Minh chống Pháp, ông tự học tiếng Lào. Thời gian ở xứ sở ‘ngàn voi’, ông cho biết công tác vận động chống Pháp rất thuận lợi. Người Lào hiền lành và chất phác. Tuy nhiên, trước ký kết hiệp định Geneve vài năm, đơn vị ông được lệnh đổi tới địa bàn hoạt động khác: lãnh thổ Miên.

Khí hậu vùng người Khmer sinh sống, mùa khô rất khốc liệt. Cây cỏ khô khốc. Thức ăn đơn vị hoàn toàn tự túc. Không còn rau, củ là nỗi hãi hùng khi lương thực chưa được tiếp tế. Núi rừng là chỗ trọ, không phải xóm làng như ở Lào. Mày mò quan sát các loài thú ăn lá cây, bới củ, đơn vị ông bắt chước chúng khi lương thực chưa tới (lúc này giảm xuống cấp tiểu đội để dễ bề hoạt động). Hầu hết không có loại lá cây ‘ăn được’ như ông biết trước đây.

Thói quen đi vào rừng của người Miên là sau 8 giờ sáng và về trước 4 giờ chiều. Bộ đội (thật ra là hơn mươi người) tranh thủ thời gian ấy để xuống suối bắt cá, mò cua. Thời gian vàng nhóm lửa mà không sợ bị phát hiện. Bẹ khô cây măng le, theo ông, cho lửa rất tốt mà rất ít khói. Mùa mưa ở đây mới là thảm cảnh. Vắt, ve, muỗi, mòng không nói. Quần áo ướt đẫm là nỗi lo triền miên. Mỗi tiểu đội chỉ có 2 tấm ni lông (của Pháp) để che vũ khí và ‘ruột tượng’ gạo (vải may như ruột voi, gạo cho vào, bộ đội quấn qua vai thay ba lô). Rất nhiều lần, không phải đôi lần, ông kể, anh em cởi sạch áo quần (vải xi-ta) ra để ‘hong’ khô chờ ngớt mưa mới mặc vào.

Những lúc đói khổ, giá rét trong rừng sâu xứ lạ, ông thường một mình tha thẩn ra bờ suối. Ngắt những lá non ăn được đưa vào miệng, cho đỡ đói, rồi thả vài chiếc trôi theo dòng nước chảy, đôi lúc Huỳnh cảm thấy cuộc đời như chiếc lá trôi theo dòng nước, và lúc ấy, hình ảnh người mẹ hiện ra. Niềm hy vọng gặp lại mẹ khiến Huỳnh vui lên một ít. Ông trầm ngâm một chút và tiếp: “Lúc xa quê, người tôi nhớ nhất chính là mẹ tôi”. Vâng, người Việt Nam ai mà không nhớ mẹ. Chính mẹ gieo vào suy nghĩ của chú bộ đội niềm tin một ngày mai tươi sáng: gia đình đoàn tụ, chứ chưa hẳn là ‘kháng chiến thành công’.

Người Miên không thân thiện như người Lào. Trong lịch sử, thời vua chúa, thành Nam Vang có lúc tổng trấn là người Việt (Lê Văn Duyệt). Dân tộc ‘bị trị’ nào mà không căm thù người ‘cai trị’. Lợi dụng tình cảm đó, thực dân Pháp xứ chùa Tháp treo giải, ai ‘cắt đầu’ một Việt Minh thì sẽ nhận thưởng một tạ muối và năm tạ gạo. Ông bùi ngùi kể, đồng ngũ của mình cũng có một vài người bị chết mà không tìm ra đầu! Đầu bị cắt để nộp lãnh thưởng. Sống cơ khổ như thế nhưng tinh thần ở tiểu đội ông không hề nao núng.

Có thời điểm, để dễ trà trộn vào dân bản xứ, có ý kiến đề nghị cán bộ Việt Minh, ngoài nói tiếng Khmer, nên đóng khố và... “mài răng, căng tai” (mài mòn bớt răng, nhuộm đen, và đeo khuyên nặng cho tai dài ra) như một số sắc dân Miên. Nhưng ông Nguyễn Chánh, tư lệnh quân khu V lúc ấy, trực tiếp chỉ huy các đơn vị như của ông - gọi là Công Trường 900 - cho dừng ngay “chủ trương” đồng hóa ấy. Giúp đỡ bạn nhưng không đánh mất sức khỏe cán bộ. Vị tư lệnh này suy nghĩ và quyết định như thế.

Hiệp định hòa bình 1954 ký kết. Đơn vị ông được lịnh chấm dứt hoạt động tại Miên và rút về Việt Nam. Cuộc đời chú bộ đội vùng quê nghèo khổ bắt đầu sang trang mới.

Với chủ tịch nước.

PHẦN BA

Học, học mọi nơi, mọi lúc.

Nghèo hay kèm theo hèn. Nghèo hèn. Nghèo hay thất học. Thất là mất học chứ chẳng phải không học. Chàng thanh niên 24 tuổi Đặng Huy Huỳnh làng Trúc Hà (giấy tờ hành chánh ghi là Trước Hà) theo đơn vị trở về VN đóng quân ở Thanh Hóa.

Gian khổ và ốm đói không làm cậu Huỳnh mất đi cặp mắt tinh anh của con người hiếu học. Mỗi tối sau giờ cơm, cậu không trở lại nơi đơn vị đóng để đi ngủ sớm như đồng đội. Đơn vị đang nghỉ dưỡng mà.  Cậu lại học bài. Bảy năm không đọc một chữ nào trong sách giáo khoa thôi thúc cậu mượn sách của cô con gái đang phụ mẹ nấu cơm cho ‘căng tin’ bộ đội.

“Anh muốn mượn sách lớp mấy?”. Huỳnh rụt rè đáp: “Lớp nào cũng được”. Cậu đâu có quen với hệ thống giáo dục mới Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Trung học bắt đầu từ lớp 6 đến lớp 9, 10 gì đó, rồi lên đại học. Hồi nhỏ trước 1945, cậu chỉ học tiếng Pháp... ở vùng  quê đất Quảng. Nào là ‘búa xua’ lớp infantin, préparatoire, elémentaire (đồng ấu -vỡ lòng, dự bị, tiểu học). Lần đầu tiên cầm trên tay cuốn sách giáo khoa bài bản, cậu đọc ngấu nghiến, tất nhiên là sách văn, toán lý lớp 6, lớp 7. Đêm nào cũng như đêm nào, lợi dụng nhà ăn dọn chén, rửa bát, cậu ngồi thu lu một góc, mượn ánh sáng đèn để...học bài. Chỗ nào ‘bí’ thì hỏi bạn, cô gái nói giọng Thanh Hóa có nước da trắng trẻo đáng yêu.

Vận may hay vận số chợt đến. Một trong những vị cán bộ phụ trách thanh niên cả nước,  tên ông là Lê Trình, bất chợt gặp cậu Huỳnh đang ôm sách nhân một lần ông nấn ná ở nhà ăn. Hỏi ra, ông biết cậu trai là người đồng hương, từ chiến trường Miên trở về, vốn có học từ bé. Trước câu hỏi, “em muốn học tiếp không?”, cậu thanh niên Huỳnh nghẹn ngào: “thưa, em rất muốn”. Sau mấy câu hỏi ngắn, vị khách bỏ đi.

Mấy hôm sau, Huỳnh nhận một giấy quyết định nhập học trường Bổ túc công nông trung ương, kèm một giấy ‘giới thiệu nghỉ mát’ một thời gian trước khi lên đường đi Hà Nội. “Đề nghị ủy ban hành chánh (thị xã?) Sầm Sơn giúp đỡ đồng chí Đặng Huy Huỳnh có điều kiện nghỉ dưỡng bảy ngày tại bãi biển”.  Sau này, cậu mới biết đây là bãi biển rất nổi tiếng, dành cho người Pháp và giới giàu có, cậu có dịp đọc trong tác phẩm Trống Mái của Khái Hưng.

Nhà nước không có nhà nghỉ. Vị chủ tịch đích thân dẫn cậu Huỳnh đến một nhà thuộc tầng lớp ‘trung lưu’ có nhà gần bãi biển.

Dù có giấy ‘giới thiệu’, dù có cán bộ ra sức thuyết phục, chủ nhà vẫn kiên quyết từ chối, không chấp nhận một anh bộ đội ‘nhà quê’ nói tiếng Quảng đặc sệt, lại còn ốm đói, nhếch nhác; ba lô rách dắt một chiếc chiếu cuộn nhỏ, tả tơi. ‘Bộ đội gì’ với bộ áo quần vải xi ta bạc thết, đôi dép râu mòn vẹt (gọi là dép Bình Trị Thiên, nơi đầu tiên xuất hiện loại dép cắt từ lốp xe?). Không thất vọng, cậu bộ đội nói lời ‘cuối cùng’. “Xin bác cho cháu ngủ ngoài hè hay ngoài hiên cũng được. Cháu không phải ở trong nhà. Ăn uống cháu tự lo. Đơn vị có cấp một số tiền đủ ăn trong bảy ngày, bác ạ”.

Nhìn đôi mắt tinh anh nhưng thật thà của cậu, chủ nhà ngần ngừ một chút rồi nói: “Tôi cho cậu ngủ ngoài hiên. Nhớ tự quét dọn. Đi và về phải đúng giờ. Không ảnh hưởng giờ ngủ nghỉ của chúng tôi. Và nhất là, không tự tiện vào nhà khi tôi chưa cho phép”. Vị chủ tịch rối rít cám ơn, vỗ vai cậu, rảo bước, sau câu nói với “cố gắng nhé”. Huỳnh nghĩ, có lẽ vị cán bộ ấy nói mình nên làm vừa lòng vị chủ nhà khó tính để có 7 ngày ‘nghỉ dưỡng’.

Vốn siêng năng và chịu khó, không những quét hiên, cậu còn quét quanh nhà, không một chút rác. Sáng sớm hôm sau, xin phép bà chủ, cậu quét luôn bên trong ngôi nhà khá rộng, rất sạch sẽ.

Qua chiều gần tối ngày thứ hai, lúc từ bãi biển về, cậu thấy mất chiếc chiếu và cả ba lô. Hốt hoảng, cậu đi nhẹ nhàng đến cửa chính, dòm vào trong. Trên chiếc giường gỗ mun, cậu thấy ba lô đặt gọn phía dưới, chiếc chiếu cuộn tròn, bên cạnh. Trên giường là chiếc chiếu bông, mới tinh tươm. Đang lưỡng lự thì tiếng ông chủ từ nhà dưới vang lên, “bắt đầu bây giờ, anh không phải ngủ ngoài hiên, không ăn ngoài. Chúng tôi ăn gì, anh ăn nấy. Anh nghe rõ không?”. Anh bộ đội nhà quê không cầm được nghẹn ngào. Chỉ nhìn và cúi đầu chào chủ nhà, cậu không nói nổi một lời cám ơn.

Trong giờ cơm, chủ nhà chủ động hỏi chuyện cậu rất nhiều. Cậu chỉ trả lời những nội dung cần thiết. Hòa bình mới lập lại, vừa ra Bắc, chưa quen ai, chưa quen lề lối sinh hoạt nơi ở mới; kiệm lời, vừa là bản chất, vừa là mong muốn của cậu thanh niên nhà quê, lần đầu tiên mới biết bãi biển, biết sóng biển, và biết tắm biển. Ngày vui ngắn chẳng tày gang. Lúc chia tay lên đường, cậu muốn phụ tiền cơm đơn vị cấp cho 7 ngày. Đã không lấy, chủ nhà còn cho thêm cậu mười mấy đồng. Từ chối không đặng, cậu đành ra đi, lòng bùi ngùi khôn tả.

Kể đến đây, ông dừng lại, giọng chùng hẳn. “Tôi trở lại nơi này, tìm kiếm rất lâu, nhưng hỏi thăm, ai cũng không biết tông tích vị chủ nhà. Có người nói cả gia đình “đã vô Nam”. Ông nói, rất khẽ: “Mấy chục năm bỏ xứ ra đi, cha mẹ, anh em sáu người chỉ còn một. Trong chiến tranh không biết ai sống chết. Trong hòa bình, kẻ mình hàm ơn tuy bé mọn, như cô gái cho mượn sách, vị chủ nhà, cũng không tìm ra được. Người có ơn lớn như ông Lê Trình (đề xuất cho ông đi học) bao nhiêu năm trời tôi không biết lấy một dòng tin tức. Họ chết sống thế nào”. Ông ngừng một lúc, chúng tôi thấy ái ngại, và tất cả chúng tôi ngồi trong im lặng.

Thế rồi, chú bộ đội Huỳnh ra Hà Nội. Trên chiếc xe ‘điện’ có tiếng leng keng quen thuộc một thời trong quá khứ, cậu tìm đến số 93, phố Quán Sứ, trụ sở của ‘Mặt Trận Miền Nam’, cơ quan phụ trách ‘Công Trường 900’, nơi cậu gắn bó từ hồi mới vào bộ đội ở VN, sang Lào, rồi qua Miên. Cậu được đưa đến trường Bổ túc Công Nông trung ương.

Ông mỉm cười, kể tiếp. Sinh 1930 nhưng khai thành 1933, năm sinh của Phan Văn Khải, “hai đứa rủ nhau khai cùng…một tuổi, cho dễ đi học”. Ông được xếp học lớp 7 sau khi làm bài trắc nghiệm trình độ, toán và văn lớp 7. Ba lớp học 2 năm, ông cười, và thêm, “nhưng học rất nghiêm túc, ngày lẫn đêm”. Ông thích thi vào Bách Khoa nhưng cơ quan khuyên ông thi vào Tổng Hợp, vì ông là học sinh duy nhất trong lớp có đảng. Nhóm Nhân văn Giai phẩm ‘làm mưa làm gió’ ở trường này. Cần có thêm sinh viên ‘kiên định’ lập trường. Người ta dặn dò ông như vậy. Nhưng vào trường, ông lại quan tâm khoa học nhiều hơn chính trị.

Ra trường ông được giữ lại tham gia giảng dạy. Có lúc giáo sư Tạ Quang Bửu bảo ông viết ‘báo cáo khoa học’. Ông thật thà, hồi ấy “tôi rất ngỡ ngàng”. Nhờ sự dìu dắt của giáo sư Đặng Văn Ngữ và Đào Văn Tiến, từ Pháp về, ông ngày càng vững vàng khi tự mình nghiên cứu. Giáo sư Bửu chọn ông trong số những sinh viên xuất sắc tiếp tục qua học ở Lomonosov, đại học danh tiếng của Liên Xô và thế giới. Ông nói thêm, chọn người du học dựa vào năng lực, không vào ‘lý lịch’, giáo sư Bửu bị nhiều quan chức phản đối. Ông cười nhẹ, “có lẽ vì sự cương trực, vị giáo sư tài ba ấy tiến than rất khó”. Sau này, ông bảo vệ thành công tiến sỹ tại Viện Tiến hóa hình thái sinh thái động vật, Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô.

“Cơ duyên nào ông lại giỏi tiếng Anh?”. “Tôi có theo dõi hoạt động khoa học quốc tế khi còn ở Liên Xô, nhât là Mỹ. Đương nhiên, tôi tự học tiếng Anh qua tiếng Nga nên mới có thể tiếp cận tiến bộ khoa học thế giới, nhất là ngành tôi nghiên cứu".

"Sau năm 1975, quan hệ với các nước tư bản chưa có, tôi mạnh dạn cho anh em trong viện học chính thức tiếng Anh. Tôi viết thư mời thầy dạy gởi các trường đại học danh tiếng trên thế giới, và có trường nhận lời. Mỗi lần viết hay nhận thư gởi đi bằng tiếng Anh, tôi phải trình trước tổ chức, để họ ‘kiểm tra’”. Ông cười hóm hỉnh. Tôi nghĩ bụng, có khi nào tổ chức cũng ‘mù trớt’ tiếng Anh. Tiếng Nga thì họ ‘nằm lòng’ rồi.

Ông cho biết, “vừa rồi, tôi tự nguyện gởi cho bộ nội vụ, tất cả giấy tờ, thư từ, trao đổi giữa cá nhân, giữa tổ chức, giữa cơ quan thuộc quyền quản lý của tôi với quốc tế để họ cho vào kho lưu trữ.  Họ tặng lại tôi một tờ giấy đóng khung rất đẹp, có in tất cả kiểu chữ ký của chủ tịch Hồ Chí Minh qua các thời kỳ. Tôi ‘có duyên’ với tiếng Anh là như thế”. Nhờ tự học, ngoài tiếng Pháp lúc nhỏ, lớn lên là tiếng Lào, tiếng Nga, rồi tiếng Anh. Ông không nhắc tới tiếng Khmer, thứ tiếng tôi nghĩ là ông có thể nói rành hơn viết.

Nghe ông nói chuyện gần cả buổi chiều, trời miền Trung bên ngoài mưa rả rich, tôi quên khuấy ông có những ‘tước vị’: Anh hùng đa dạng sinh học ASEAN, phó chủ tịch Hội Bảo Vệ Thiên Nhiên và Môi Trường Việt Nam, chủ tịch Hội Động vật học VN, chủ tịch Hội đồng Cây di sản VN…hay học vị giáo sư tiến sĩ khoa học. Tôi cũng không để ý ông là tác giả 165 công trình nghiên cứu công bố trong nước và nước ngoài, xuất bản 15 đầu sách chuyên khảo về động vật học, tài nguyên động vật. Và nhất là, không phải chuyện ông từng được đón tiếp và bắt tay với chủ tịch nước hay thủ tướng, tôi mới kính trọng ông.

Tôi kính trọng ông, một ‘ông già hiền hậu’. Nói chuyện với kẻ ‘hậu sinh’ như tôi, ông không hề cho mình là một giáo sư tiến sĩ khoa học (92 tuổi) đang tiếp chuyện một học trò ít kinh nghiệm sống cũng như ít kiến thức chuyên môn; tôi nhỏ hơn ông gần 2 con giáp.

Trong bức ảnh chụp với bạn học ‘hàn sĩ’, quý vị sẽ thấy, tình thân ái cao cả dường nào giữa người và người, giữa bạn và bạn, giữa đồng hương với đồng hương.

Khi đường công danh ngất ngưởng, như từng giữ chức bí thư, chủ tịch tỉnh, bộ trưởng, hay phó thủ tướng, ủy viên bộ chính trị… chắc gì người ta còn giữ mối giao tình thân thiết như mối giao tình giữa ‘ông già’ Đặng Huy Huỳnh đối với chúng tôi, một ‘hàn sĩ’ và một ‘cậu học sinh’? Khi bắt tay chào ông để ra về, tôi hết sức ngạc nhiên, thấy ông đứng dậy khỏi ghế ngồi, thoăn thoắt bước ra hiên, đứng yên, hai tay chắp lại chào tôi như kiểu chào nhà Phật: Tôi đâu xứng đáng để ông tiễn đưa trọng thị như thế?

Tôi yêu kính ông, một ‘ông già’ đồng hương, một ‘người nhà quê’ chất phác nhưng trí tuệ. Trong sâu thẳm, tôi còn kính trọng ông qua đức khiêm cung của con người ‘đốn ngộ’ giữa hỗn độn trần ai. Tôi là một ‘cậu bé’, mới gặp ông lần đầu tiên, dù trong sách báo khoa học, ông hiện ra như một vì sao Khuê, tôi như con đom đóm. Cái vĩ đại nằm trong bản chất giản dị của Đặng Huy Huỳnh chính ở chỗ này chăng?.

Tác giả, “viện sĩ’, “hàn sĩ”.