Showing posts with label Kinh tế. Show all posts
Showing posts with label Kinh tế. Show all posts

Monday, February 5, 2024

“CON CHÁU” CHỢ TỰ PHÁT

Có hai cái khi mất đi người ta mới để ý: sức khỏe và hạnh phúc. Nay, có cái mất đi người ta mới sực nhớ: nó quan trọng quá – chợ, tôi muốn nói chợ tự phát. Chợ tự phát thường nhóm họp dọc theo một con hẻm, một con đường không rộng, ở nơi đó, người mua đa phần là giới lao động nghèo. Với giới khá giả hay kha khá, supermarket - siêu thị - là chỗ của họ; chợ tự phát: NO.

Chợ tự phát ban đầu cũng khốn khổ lắm. Năm lần, bảy lượt, ngày này qua tuần khác, thậm chí tháng khác, chính quyền sở tại ra quân nhiều đợt “ổn định trật tự xã hội” nhưng đều bó tay chấm com,  không dẹp nổi. Không phải họ bất lực. Họ hiểu ra có cầu thì có cung. Có người mua thì phải có chợ. Ở cái thành phố tấc đất tấc vàng kiếm chỗ làm chợ đâu phải dễ.

Lượng người đi chợ đa phần là  lao động nghèo, công nhân các khu công nghiệp, mức sống chưa đầy đủ. Chính quyền sở tại dẹp chợ này thì họ mua ở đâu? Siêu thị dành cho người có thu nhập khá. Chợ truyền thống thì không đủ chỗ cho họ chen chân và thuận tiện cho việc đi chợ chớp nhoáng sau một ngày chúi mũi lao động hay làm việc trong công xưởng, nhà máy.

Người đi chợ vừa dắt xe đạp hay dừng xe máy để mua con cá, bó rau, trái mướp ở chợ tự phát, rất vội vã cho bữa ăn mỗi ngày. Họ không có nhiều tiền để mua tủ lạnh, và nếu mua được họ cũng ngại số tiền điện mỗi ngày cho nó, cái thứ ngày nào cũng “ăn” điện. Nhà chức trách (ở đây thường là phường) cũng “ngó lơ” để chợ “chồm hổm” nó…tự phát. Công nhân và những người lao động nghèo gắn bó với những chợ tự phát này. Họ thấy ra nỗi vất vả của đồng bào mình.

Thế là những đồng bào này đến các chợ “chồm hổm” để mua những thức ăn cho mỗi ngày lao động. Dân Nam hay người đến sống với dân Nam cũng cùng thói quen không thích tích trữ thức ăn. Mua ăn mỗi ngày “cho nó tươi”. Lề đường chợ tự phát sẽ là chỗ cung cấp những thứ rẻ, tươi mà “ngon”, như rau củ quả, cá, thịt, trứng...

Ông thần dịch bệnh từ Vũ Hán của Trung Quốc anh em bất ngờ lại ập đến lần thứ 4. Công ty xí nghiệp sản xuất nào có các ca dương tính thường phải đóng cửa. Công ty nào bảo đảm các quy định giãn cách thì tiếp tục hoạt động.

Chợ tự phát là chỗ tụ tập đông người mua từ Trung Nam Bắc, và là nơi dễ lây truyền dịch bịnh. Chúng là đối tượng nhắm đến đầu tiên: phải chấm dứt. Dân chúng chấp hành nghiêm: người bán có nhà tại chỗ thì đóng cửa, người buôn thúng bán bưng “vãng lai” không dám bén mảng và người mua lao động nghèo, tất cả đều không dám đến. Cái ông có tên chợ “truyền thống” cũng chẳng khá hơn, ổng cùng chung số phận: đóng cửa chống dịch. Chợ đầu mối có ai dương tính cũng hết là đầu mối.

Saturday, January 27, 2024

NHẬT PHÂN VÂN: ẤN ĐỘ HAY VIỆT NAM NƠI NÀO ĐẦU TƯ THẾ CHỖ TRUNG QUỐC.

(Japanese Dilemma: India Vs Vietnam For Alternative Investment Destination To China).

Từ khi thủ tướng Nhật công bố gói hỗ trợ 2,2 tỷ Mỹ kim giúp các nhà đầu tư Nhật Bản rời TQ về Nhật hoặc đến các quốc gia đang phát triển, truyền thông và các “think tank” râm ran bàn tán Ấn Độ và VN, ai là nơi đầu tư thế chỗ TQ.

Tuy nhiên, các nhà đầu tư Nhật lại phân vân trước các kết quả khảo sát. Họ không thống nhất nước nào tốt nhất. Có khảo sát ủng hộ VN nhưng cũng có khảo sát ủng hộ Ấn Độ. Khảo sát của NNA Japan tháng giêng 2020 (tập đoàn truyền thông Kyodo) cho biết VN là điểm hứa hẹn nhất cho các nhà đầu tư.

Nhưng trong khảo sát lần thứ 31, tháng 11 năm 2019, JBIC lại coi Ấn Độ là đầu tư hấp dẫn nhất năm 2019, đặt TQ và VN nằm vị trí thứ 2, thứ 3. Khảo sát cho biết Ấn Độ lên hạng nhờ phiếu bầu cho TQ hạ xuống. Có nghĩa là, sự xuống hạng của TQ dọn đường cho Ấn vươn lên nơi đến đầu tư hạng nhất.

Tuy nhiên, thăm dò ý kiến chỉ là gợi ý, tính khả tín còn tùy vào độ phổ quát của các tổ chức dẫn đầu dư luận, trong khi đó, dữ liệu tự nó nói lên tính quyết định cho xu thế. Theo METI, Ấn nằm thứ 5 nước nhận đầu tư lớn nhất ở Châu Á năm 2019, bỏ VN nằm ở vị trí thứ 6. Đáng chú ý, đầu tư Nhật ở Ấn tăng gấp đôi so với VN năm 2019, tăng gấp 4 trong 3 năm – từ 1,6 tỷ Mỹ kim năm 2017 lên 5,1 tỷ năm 2019. Đối lại, đầu tư Nhật vào VN lò mò ở số nhỏ từ 2 tỷ năm 2017 lên 2,5 tỷ năm 2019. Xu hướng đó cho thấy nguyên lý, người Nhật tin vào tiềm năng Ấn Độ.

Tại sao Ấn Độ lại bị Việt Nam thay ngôi ở cuộc khảo sát của NNA trong vòng hai tháng sau cuộc khảo sát của JBIC? Về mức độ phổ biến và độ tin cậy, JBIC được đánh giá cao hơn vì họ từng thực hiện cuộc khảo sát trong ba thập kỷ. Nó ám chỉ điều gì? Cuộc khảo sát của JBIC đáng tin cậy hơn, hay là cuộc khảo sát của NNA nên được tin tưởng, nhằm xác định kế hoạch tương lai của Nhật Bản chọn nơi đầu tư thay cho Trung Quốc?

Thủ tướng Ấn Độ và thủ tướng Nhật Bản.

Không hồ nghi gì nữa, VN có nhiều lợi thế hấp dẫn: giá nguyên liệu đầu vào thấp, chính trị ổn định, chính sách về thương mại, đầu tư ngày càng thoáng, kèm các hiệp ước FTA (Hiệp định thương mại tự do) với Nhật và các nước. Nhưng họ cũng có những hạn chế. Đầu vào lệ thuộc quá nhiều nhập khẩu nước ngoài cho sản xuất và xuất khẩu; ngành nghề đầu tư hạn chế; toàn cầu hóa co cụm sau đại dịch Covid-19; dân số ít hơn Ấn Độ.

Lệ thuộc nguyên liệu đầu vào từ nước ngoài hạn chế mở rộng công suất, hứng chịu nhiều rủi ro nếu quan hệ chính trị đưa đến đối đầu, toàn cầu hóa co cụm, giảm sút mức độ nhập khẩu trong sản xuất, xuất khẩu. Dân số không nhiều (bằng Ấn) sẽ giới hạn nhu cầu tiêu thụ nội địa.

TQ là nguồn cung chính cho nguyên liệu đầu vào của VN. Hơn 1 phần 3 hàng nhập khẩu của TQ. Với tình trạng quá lệ thuộc vào nguyên liệu đầu vào của nước ngoài, hàng xuất khẩu VN có cơ cấu sản phẩm trung gian TQ nhiều hơn sản phẩm trong nước. Hậu quả là, nó dấy lên nhiều rủi ro cho phát triển xuất khẩu bền vững, trong trường hợp xảy ra bất kỳ bất ổn chính trị nào. Ấn Độ là một trường hợp điển hình. Lệ thuộc quá đáng của Ấn vào linh kiện và phụ tùng TQ trong ngành chế tạo điện thoại di động gây đau đầu cho chính phủ Ấn. Mặc dầu chính phủ giúp xây dựng nền công nghệ mới, quan hệ chính trị gay cấn giữa hai quốc gia trước xung đột biên giới thường xuyên buộc chính phủ Ấn đặt hàng rào hạn chế hàng nhập khẩu TQ.

Một điểm yếu khác của VN chuyện lệ thuộc quá đáng vào TQ là việc gắn bó các nước châu Á. Nhập khẩu hàng các nước này giảm đi nhưng lại tăng cao nhập khẩu hàng TQ. Nói cách khác, sự vươn lên của VN trong chuỗi giá trị toàn cầu (GVC) dựa nhiều vào nguyên liệu đầu vào nước ngoài, mà TQ hoàn toàn chi phối. Cho đến giờ này, nó vẫn có lợi khi còn giữ mối quan hệ chính trị bình thường. Nhưng, TQ đánh mất tính chính trực là một đối tác buôn bán tin cậy vì chính sách bành trướng. Khi TQ thách thức phán quyết của tòa trọng tài La Haye - lên án hành vi quá đáng của họ ở Biển Đông - chủ quyền Việt Nam ở vào thế hiểm nguy.

VN không có nhiều lĩnh vực thu hút đầu tư. Các ngành công nghiệp mục tiêu là điện tử, giày da, và dệt may, nói cách khác, các công ty có nhu cầu rời khỏi TQ chỉ tìm cách đáp ứng một phần trong nhiều nhu cầu của họ. Cái này ở Ấn thì nhiều cơ hội hơn vì có rất nhiều lĩnh vực đầu tư. Từ việc chế tạo điện tử, xe hơi, thiết bị quốc phòng đến xây dựng, đầu tư lớn vào cơ sở hạ tầng, Ấn có thể cung ứng cho Nhật nhiều lĩnh vực đầu tư phong phú.

Nhu cầu nội địa là thước đo quan trọng khác, lợi thế hơn Việt Nam. Dân số Ấn gấp hơn 10 lần dân số VN. Cuối cùng, khi tất cả đã nói và làm, các nhà đầu tư ở VN phải kiếm lợi nhuận nhờ xuất khẩu, khác với Ấn Độ nhu cầu trong nước là nhân tố quyết định cho tiêu thụ. Nhiều người lại cho rằng VN là lựa chọn thay thế TQ trong chuỗi cung ứng.

Nhưng với toàn cầu hóa co cụm trước sự bùng phát dịch Covid-19, tình hình kích hoạt rủi ro chuỗi cung ứng do sự gián đoạn sản xuất thế giới. Nó khiến các nước suy nghĩ lại vào sự phụ thuộc nhập khẩu theo mô hình chuỗi giá trị toàn cầu (GVC), khiến họ quay vào trong nước để phát triển chuỗi cung ứng nội địa. Sự thật thì từ 2011, cường độ nhập khẩu trên thế giới chứng kiến sự giảm sút, theo tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế, lý do là căng thẳng mậu dịch, chủ nghĩa bảo hộ, bất ổn trong chính sách thương mại.

Bị kẹt trong vũng lầy toàn cầu hóa co cụm, chủ nghĩa bảo hộ trỗi dậy -  một bất lợi đối với nền kinh tế dựa vào xuất khẩu theo chuỗi giá trị toàn cầu – chắc chắn sẽ gặp rủi ro lớn ở một nền kinh tế dựa vào chuỗi giá trị nếu so với ở Ấn Độ. Sáng kiến mới, “Make In India”, sắp thành lập chuỗi cung ứng nội địa mạnh mẽ, chú trọng các doanh nghiệp "rất nhỏ, nhỏ, và vừa", với sự trợ giúp tài chính dồi dào.

Phân tích của Subrata Majumder, cố vấn JETRO (Tổ chức ngoại thương Nhật Bản), trên tạp chí Eurasian Review. Nguyễn Long Chiến dịch.

BÙNG NỔ KINH TẾ 30 NĂM CHỮNG LẠI Ở VIỆT NAM.

(Three-Decade Economic Boom Comes to a Sudden Halt in Vietnam)

Ba thập niên qua, VN có nhiều tiếng tốt – có khi là, tuyệt vời, một nước tăng trưởng nhờ xuất khẩu, điều hành bởi những lãnh đạo cộng sản áp dụng chính sách hướng tới thị trường, cuối thập kỷ 1980, đưa nhiều người dân lên mức sống trung lưu.

Dịch Covid-19 khiến thay đổi hoàn toàn. Với tình hình các công ty may mặc mất thảm hại các đơn đặt hàng, các ngành khác đột ngột giảm sút xuất khẩu, người công nhân VN đang chịu sa sút do dính chặt vào kinh tế toàn cầu. Suy thoái kinh tế, ở Mỹ và các thị trường VN dựa vào để phát triển, hiện diện mọi ngóc ngách Sài Gòn và Hà Nội, cũng như các làng xã, trung tâm du lịch.

Bà Lê Thị Hoa, người bán dứa lát, xoài lát, ở ngoài khu chợ Bến Thành, trung tâm sầm uất thương mại, là một trong những người lo lắng không biết thời “hoàng kim” của bà còn hay không.

Chị Hoa 55 tuổi này mang khẩu trang ngồi trên một chiếc ghế nhựa cạnh giỏ trái cây trước một tiệm hải sản đóng cửa. “Tôi bán chỉ được 1/3 trái cây so với trước dịch”.

Việt Nam từng là một trong những “ngôi sao” toàn cầu hóa, tự chuyển biến từ một nước thuần nông nghiệp sang một “cỗ máy” sản xuất trong quãng vài thập kỷ. Mức xuất khẩu ngang tầm GDP, VN chứng kiến tăng trưởng kinh tế nhanh chóng, 7,02% vào năm 2019, bây giờ phải chịu tăng trưởng chậm nhất trong hai thập kỷ, 2,4% trong năm nay. Trong quý hai, VN chỉ đạt 0,36% tính từ năm trước.

Ralf Matthaes, giám đốc quản lý Nghiên cứu Infocus Mekong, từng ở VN từ 1994 nhận xét: “VN trải qua hàng núi điềm lành trong 30 năm qua. Đây là lần đầu tiên từ khi gia nhập cộng đồng kinh tế thế giới 20 năm trước, VN phải chịu một cuộc suy thoái kinh tế to lớn”.

Sự sụt giảm đột ngột làm nổi bật sức tàn phá tài chính do đại dịch, và ngay cả một số nước thành công chừng mực kiểm soát dịch bệnh cũng không tránh nổi hệ lụy về kinh tế. Các nền kinh tế ấy cũng không thể trở lại làm ăn bình thường cho tới lúc các nước khác làm ăn bình thường.

Sian Fenner, nhà kinh tế thuộc khoa kinh tế Oxford trụ sở ở Singapore, dự đoán năm 2020 thương mại thế giới giảm 8% cho biết: “Con đường còn nhiều chông gai. Các nước dựa vào xuất khẩu sẽ vẫn còn tổn hại”

Theo con số của cục Hải quan, tháng tư, xuất khẩu của VN giảm xuống 14% tính từ năm trước, tiếp theo đợt giảm 12,4% vào tháng 5 khi buôn bán thế giới bế tắc. Kể luôn 7 tháng, xuất khẩu chỉ chỉ đạt 1,5% so với 8% cùng kỳ năm ngoái.

THƯƠNG MẠI BỊ TRÓI BUỘC

Tuy nhiên, các nhà lãnh đạo VN không cho thấy dấu hiệu đảo ngược hướng đi kinh tế sau hơn hàng chục ký kết thương mại trong các năm qua, sớm biến đất nước  thành nam châm thu hút đầu tư ngoại quốc.

Đối phó với nạn bùng phát dịch tại thành phố biển Đà Nẵng lan sang 14 tỉnh thành, chính phủ VN được thế giới đánh giá cao trong việc ngăn chặn vi rút.  Cho đến ngày 31 tháng 7, cả nước không có một cái chết do nhiễm vi rút được báo cáo. VN ghi nhận có 1029 ca nhiễm, 28 người chết (ngày 26 tháng  nhờ các viên chức áp dụng các biện pháp cứng rắn, trong khi vẫn cho các doanh nghiệp sản xuất mở cửa.

Dù có khá hơn các nền kinh tế khác ở châu Á, nơi dịch gây nhiều cái chết và sự tàn phá, sự phụ thuộc của VN vào thị trường nước ngoài và ngành du lịch đang mở rộng đem lại cho người dân một bài học về sự thất thường của thế giới.

Trong những năm gần đây, VN trở thành một mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Họ mở các nhà máy cho các công ty như Intel, Samsung, LG, cũng như các nhà máy sản xuất tấm kính năng lượng mặt trời, các nhà sản xuất áo quần. Xuất khẩu của VN năm 2019 đạt 264, 3 tỷ Mỹ kim – tăng vọt gấp 4 lần so với năm 2008. Lương bình quân hằng năm 1.154 đô la (chừng 27 triệu) lên khoảng 2.800 (chừng 65 triệu) trong cùng thời gian, theo số liệu của chính phủ.

Nhịp độ xuất hàng của VN qua Mỹ, chiếm thị trường lớn nhất 23% tổng xuất khẩu năm 2019, hạ thấp trong 6 tháng năm 2020 so với cùng kỳ năm ngoái. Chính phủ ghi nhận tăng 14,6% xuất khẩu qua Mỹ, khoảng phân nửa số hàng xuất đi trong năm 2019.

Nhiều lĩnh vực khác cũng chịu thiệt hại, như áo quần, dệt may, sử dụng hàng triệu công nhân tay nghề thấp. Samsung Việt Nam, đơn vị có sản phẩm điện tử chiếm khoảng 20% tổng xuất khẩu cả nước năm ngoái, đã điều chỉnh xuất khẩu năm 2020 dự kiến còn 45, 5 tỷ đô la Mỹ, sụt giảm hết 13, 5 tỷ từ năm 2019, theo bộ Công nghiệp và thương mại VN.

DU LỊCH GẶP TAI ƯƠNG

Trong khi đó, ngành du lịch, chiếm khoảng 9% nền kinh tế, mất 55,4 % tổng thu trong bảy tháng đầu năm. Do sự gia tăng mạnh mẽ của các ngành công nghiệp sản xuất và kinh doanh khách sạn, gần một phần ba dân số - 31 triệu công nhân - đã phải chịu đựng hệ lụy tài chính của quý hai.

Người tiêu dùng thắt chặt mạnh hầu bao trong 3 tháng quý II, trở thành những người tiết kiệm chi tiêu nhất thế giới, coi việc làm là an toàn số một, theo nhận định của Nielsen Vietnam. Anh Nguyễn Anh Dzũng nói, dẫu sao, vốn có truyền thống lạc quan, người Việt sẽ ít nhiều nhanh chóng trở lại tiêu dùng bình thường một khi hết dịch.

Hàng triệu công nhân lắp ráp mất việc, một số chính quyền địa phương lo ngại nguy cơ bất ổn xã hội, đó là lời của Fred Burke, thành viên quản lý công ty luật Baker McKenzie ở thành phố HCM. Ông còn nhớ bộ trưởng bộ Kế hoạch và đầu tư Nguyễn Chí Dũng mới đây xin các thành viên trong Diễn đàn doanh nghiệp không sa thải công nhân, hãy cố giữ họ lại.

Theo nghiên cứu của Infocus Mekong, với tình trạng bấn loạn ấy, niềm tin của người tiêu dùng nằm ở điểm thấp nhất trong vòng 25 năm qua. Hai phần ba cư dân VN đình hoãn hay không bỏ tiền mua sắm nhiều. Nghiên cứu cho biết, 63% người Việt cân nhắc chuyện vay tiền khi họ muốn tìm đến các chiếc phao cứu sinh tài chánh..

Bùi Việt Nam, người điều hành 34 tuổi nhà sản xuất áo quần thành phố HCM nói: “Mọi người đều tiết kiệm. Chúng tôi không đi ra ngoài nhiều. Thu nhập đi xuống, có người nghĩ tới chuyện kiếm tiền qua bán hàng trên mạng, hoặc là kiếm thêm một nghề phụ ngoài giờ”. Đây là một thế giới mới.

Cư dân mang khẩu trang ngồi chờ  xét nghiệm Covid-19 ở Hà Nội ngày 13 tháng 8. Photographer: Nhạc Nguyễn/AFP, Getty Images.

Tuesday, September 27, 2022

Toàn cầu hóa (globalization) có lợi nhất cho Trung Quốc; phi toàn cầu hóa (deglobalization) có lợi nhất cho VN


 

Việt Nam lọt vào điểm ngắm (radar) của phi toàn cầu hóa (deglobalization). Mấy tháng nay, phi toàn cầu hóa được nhiều người nói tới. Cụ thể, nơi nào bị tác động nhất, hoặc giả, TQ có chịu nổi đợt thoái vốn áo ạt này hay không. Tuy nhiên, ít ai để ý đến nước hưởng lợi trong sự bùng phát này.

TRUNG QUỐC KHÔNG CÒN LÀ LỰA CHỌN HẤP DẪN
thể nói, TQ là nước hưởng lợi lớn nhất trong việc toàn cầu hóa (globalization) hàng chục thập niên rồi. Từ khi gia nhập WTO năm 2001, GDP của họ tăng gấp mười một lần, trỗi dậy từ nền kinh tế lớn thứ 6 trên thế giới vươn lên vị trí thứ 2 và gần bắt kịp Hoa Kỳ.
Tuy nhiên, cơn sóng địa chính trị đã sớm đổi chiều. Cả ở TQ, và còn hơn thế nữa. Qua chính sách lưu thông kép, TQ đầu tư mạnh về công nghệ tiên phong để bảo đảm không còn lệ thuộc vào công nghệ thiết yếu từ nước ngoài. Rõ nhất là chất bán dẫn. Xu hướng này không có gì bất ngờ, vì các công ty ngày càng thấy rõ các rủi ro liên quan đến đầu tư ở TQ – đáng chú ý nhất là chính sách “zero-Covid” (phong tỏa tiếp phong tỏa khi xuất hiện dịch-ND). Chi phí nhân công và đất đai tiếp tục tăng, đầu tư vào TQ chẳng có ý nghĩa gì về kinh tế đối với các công ty đa quốc gia. Một số công ty còn nán lại ở TQ đang cân nhắc chủ trương “TQ cộng một” (China plus One) để bảo vệ vốn liếng của mình. Do đó, nhiều công ty xem xét các lựa chọn thay thế trong khu vực.
VIỆT NAM LÀ NƠI LÀM ĂN LÝ TƯỞNG
Vào Việt Nam. Có một số yếu tổ khiến VN có một vị trí hoàn hảo. Về măt địa lý, VN nằm sát phía nam TQ, thông ra biển Đông qua các cảng biển lớn, sản phẩm xuất khẩu nhanh chóng. Giá trị gia tăng vẫn tạo ở nơi khác, chủ yếu là TQ, việc tiếp cận công nghệ, nguồn nhân lực kỹ thuật cao, ở đó phong phú hơn nhiều.
Tuy nhiên, VN tự khẳng định mình là nơi hoàn hảo để lắp ráp sản phẩm ở giai đoạn hoàn chỉnh. Giai đoạn này không cần công nhân tay nghề cao, các công ty do đó tận dụng giá nhân công thấp, đất đai rẻ (so với các nước láng giềng). Thái Lan và TQ là hai nước đầu tư đáng kể trong sản xuất, dẫn đến giá đất tăng khi xây nhà xưởng đồng thời lương cũng tang, khiến cho họ khó cạnh tranh với nước láng giềng VN.
Dân số VN cũng là yếu tố chính. Với 98 triệu dân, VN là nước đứng hàng thứ 15 trên thế giới về số dân, hầu hết đều là lao động trẻ. So với TQ, VN là một quốc gia trẻ, đó cũng là lý do tại sao họ có khả năng chấm dứt chủ trương bỏ phong tỏa (“zero-covid”) hồi cuối thu năm ngoái.
CÁC ÔNG LỚN ĐÃ VÀO VN.
Samsung có lẽ là công ty đặt cược lớn vào VN. Năm nay, họ đầu tư 920 triệu đô la Mỹ vào các hãng xưởng của mình tại đây. Nhưng không chỉ có Samsung; Apple và Foxconn cũng đầu tư nhiều vào nước này.
Nhắc đến phi toàn cầu hóa, một trong những ngành xem xét nhiều nhất là ngành công nghiệp bán dẫn. Khi TQ cố gắng tự cung tự cấp, và các công ty muốn tránh rủi ro về địa chính trị, cơ hội mở ra rất lớn. Đáng chú ý, Samsung tuyên bố họ sẽ sản xuất chip tại VN vào tháng 7 năm 2023; hãng chip Synopsys của Mỹ cũng vừa chuyển đầu tư đến nước này.
Các yếu tố trên chỉ ra một tương lai tươi sáng cho VN, một quốc gia, trong lịch sử, nổi tiếng can cường đối diện với ảnh hưởng không lành của ngoại bang như Trung Hoa, Pháp hoặc Mỹ. Ngày nay, VN đối diện hình thức ảnh hưởng lành hơn nhiều qua đầu tư FDI (Foreign Development Investment: đầu tư phát triển nước ngoài).