Showing posts with label Quảng Nam quê tôi. Show all posts
Showing posts with label Quảng Nam quê tôi. Show all posts

Thursday, October 23, 2025

QUẢNG NAM HAY CÃI

Đây hình như là tên một cuốn sách hay bài báo,  tôi không rõ tác giả và cũng chưa được đọc vì vài lần vào tiệm sách hỏi mua mà không có. Tác giả không rõ là người Quảng Nam hay là người am hiểu Quảng Nam.  Đã thành cuốn sách hay bài nghiên cứu, chắc hẳn “hay cãi” cũng nổi tiếng ngang hàng hoặc hơn sự nổi tiếng của món Mỳ Quảng, ở Sài Gòn cũng như cả nước đều có bán.

 Hay cãi, đó là đặc điểm nổi bật của Quảng Nam mà tôi là người có nhau, có rốn đã chôn sâu ngoài đó. Hay cãi, bản chất nó xấu hay tốt, bàn sau, giờ chỉ nói qua lịch sử của nó, những danh nhân có “bản chất hay cãi” của Quảng Nam.

 Mọi người đều biết cụ Phan Châu Trinh là nhà chí sĩ Quảng Nam. Lúc hoạt động cách mạng chống thực dân Pháp, cụ là bạn chí thân với cụ Phan Bội Châu, người Nghệ An. Hai đường lối đấu tranh khác nhau; cụ Phan (Quảng Nam), chủ trương bất bạo động, cụ Phan (Nghệ An) chủ trương bạo động (lúc đầu), và chủ trương đánh Pháp dựa vào Nhật, lúc đó là “anh cả lùn” ở châu Á. Cụ Phan Châu Trinh viết bài “đả kích” quan điểm của cụ Phan Bội Châu dù biết bạn mình tất cả đều vì độc lập nước nhà. “ Bất vọng ngoại, vọng ngoại tắc ngu; bất bạo động, bạo động tắc tử” (không ỷ ngoại, ngu mới dựa nước ngoài; không bạo động, bạo động sẽ chết).

Cùng “đồng chí” mà không “nhất trí 100%” (như các đại hội chúng ta) mà đi “cãi” nhau. Phan Bội Châu không vì bị phê phán như “mạt sát”, tìm cách “chơi lại” Phan Châu Trinh, nhưng khi đồng chí mình mất, cụ khóc lóc thương tiếc khôn cùng, không vì tính “hay cãi” của bạn mà oán trách. Cụ thấy bạn mình “cãi quá đúng”, đến bây giờ cả 100 năm vẫn đúng, còn “thời sự”: ngu mới “dựa” nước ngoài, bạo động sẽ đổ máu.

 Về văn học, mọi người đều biết cụ Phan Khôi, nổi tiếng không phải bài thơ “Tình già” mở đầu phong trào thơ mới, mà những nghiên cứu học thuật, những bài báo có cái nhìn sắc sảo về mọi vấn đề, và là người đầu tiên tại Việt Nam dịch Kinh Thánh cho đạo Kitô.

Tính “hay cãi” của cụ như là đặc trưng thế mạnh cộng với đầu óc quãng bác khi phải sống với ngòi bút không mấy tự do dưới thời thực dân Pháp. Người bị cụ phê phán mạnh mẽ nhất là Phạm Quỳnh (bị thủ tiêu sau 1945, một lần với Ngô Đình Khôi anh ruột Ngô Đình Diệm, có con trai là nhạc sĩ Phạm Tuyên). Học giả Phạm Quỳnh là người rất uyên bác, nổi tiếng với câu “ Truyện Kiều còn, tiếng nước ta còn, tiếng nước ta còn thì nước ta còn” nhưng khi tranh luận (cãi, nôm na rứa) về những vấn đề học thuật, cụ cũng “chào thua” ông già Quảng Nam "hay cãi". Phan Khôi không gọi Phạm Quỳnh là học giả mà là học phiệt, vì ngoài làm báo, Phạm Quỳnh còn được người Pháp nể trọng, sau còn làm đến chức như thủ tướng chính phủ Bảo Đại.

“Hay cãi” là đức tính nếu “hay cãi” đó được soi sáng bởi trí tuệ, nhưng “hay cãi” vì tự ái, vì đố kỵ sẽ thành “cãi chày, cãi cối”.

Người Quảng nổi tiếng hiếu học, thông minh, có lẽ nhờ hay cãi, hay tìm tòi cái mới, không cam chịu cái cũ, cái lỗi thời chăng?

Hay cãi  còn là cách bảo vệ “ý muốn mình là chân lý” của người Quảng. Họ không tin bất cứ cái gì nếu họ chưa được tranh luận, hoặc tranh cãi, bắt bẻ vấn đề đó thấu đáo. Có “chết cũng cãi”. Tôi kể  một câu chuyện bạn bè người Nam hay diễu tôi khi có dịp, nhất là lúc bù khú, rượu vào lời ra. Họ hỏi tôi. “Mầy có biết vì sao quê mầy có nhiều liệt sĩ, nhiều bà mẹ VN anh hùng không?”.  Chưa kịp hiểu, họ nói tiếp: “Vì hay cãi, đó nghe mậy. Trong hầm bí mật có  ba chiến sĩ du kích núp tránh xe tăng Mỹ đang đi càn bên trên. Một người nhận xét: xe bọc thép. Người thứ hai cãi: xe thiết giáp. Người thứ 3 không chịu thua, cãi tiếp: xe tăng. Cả 3 tranh cãi bất phân thắng bại. Một người đề xuất: chi bằng mở nắp hầm, xem tận mắt, ai đúng ai sai. Và cả ba hy sinh khi Mỹ phát hiện và nã đạn”.

Họ kể xong rồi cười, dù câu chuyện này tôi dư biết, họ bịa ra để châm chọc tính hay cãi của tôi, người Quảng Nam. Họ đùa nhưng tôi suy nghĩ: Người Quảng Nam chúng tôi có truyền thống: vì sự thật, mạng sống cũng không màng.

 Hay cãi còn do có đầu óc nhận xét nhạy bén sự việc dưới nhiều cái nhìn của người đang nói chuyện. Mỗi người có tư duy riêng, khi có ai kết luận sự việc mà họ không thuận, mà đa phần là vậy, họ bắt đầu bày tỏ quan điểm của mình, vậy là “cãi bá cháy, cãi banh-ta-lông”. Nhưng người Quảng rất kiên định. Ít khi họ dung hòa quan điểm khi tranh cãi. Họ chỉ dừng tranh cãi khi có chuyện gì đó quan trọng như vợ họ gọi về để đi dự tiệc khác có dịp “cãi” đã hơn.

 Trong tất cả các buổi tiệc đông người, các bạn sẽ không được nghe hát, ngâm thơ, hay kể chuyện hề, chuyện tiếu lâm; các bạn sẽ được thưởng thức mỗi một thứ, đó là tiếng tranh luận, được gia cố cường độ cao vút, nhờ hơi men phò trợ, những đề tài trên trời dưới đất, trong nước thế giới, trong nhà ngoài phố, nghĩa là đủ mọi đề tài, nếu buổi tiệc đó chỉ có toàn người Quảng chúng tôi. Tuy không đến nỗi phải đôi co dẫn đến đánh nhau như những ông nghị Đài Loan bạn hay thấy trên TV, họ làm buổi tiệc hào hứng sôi nổi qua những đề tài đề cập tới với những màn tranh cãi không thôi. Tôi cũng là người Quảng Nam điển hình như thế.

Tuy nhiên, cái tốt nào cũng có giới hạn, nếu hay cãi là một tính tốt. “Cãi vừa phải” để buổi nói chuyện với bạn bè vui vẻ hòa nhã; “cãi đúng người”, không cãi lại cấp trên khi làm việc, có thể cản trở thăng tiến bản thân dù mình có tài năng; “cãi đúng việc” để công việc tốt hơn sau bàn luận; “cãi trí tuệ” nghĩa là phải chấp nhận người “cãi đúng”, không vì tự ái, (tau đâu thua mày), cãi tới bến, thiếu lòng khoan dung, và sự can đảm chấp nhận khác biệt tư tưởng. Không nên nghĩ rằng chỉ mình là chân lý, thiên hạ thì không, “mục hạ vô nhân”. Rồi tự mãn tính hay cãi của người Quảng mà hô khẩu hiệu “Tính hay cãi, vô địch, muôn năm”.

 Cãi để tìm chân lý. Cãi để chấp nhận khác biệt. Cãi để gia đình, xã hội, ngày một tôt hơn, thế nên: Quảng Nam hay cãi, không cãi không phải Quảng Nam.

 

 

Tuesday, October 21, 2025

MỲ QUẢNG VÀ MỲ QUOẢNG, MỲ NÀO NGON HƠN.

Năm 1972, tôi thi vào trường Đại học Sư phạm Sài Gòn, ban Anh văn, ngành huấn luyện “giáo sư” trung học đệ nhị cấp (giáo viên cấp 3). Toàn tỉnh Quảng Nam, đúng hơn, toàn trường Trần Quí Cáp Hội An, chỉ có tôi và bạn Nguyễn Thị Thanh Tú, đỗ vào ngôi trường đào tạo giáo viên tiếng Anh cấp 3 duy nhất ở miền Nam (Bắc, Trung, Nam). Cô Tú sau đó được học bổng du học Úc, chỉ còn tôi ở lại trường Sư phạm. Hãnh diện ghê lắm, lương công chức khi tốt nghiệp còn cao hơn lương phó quận trưởng.

Nhưng trong lòng không hãnh diện nổi về… “giọng” Quảng Nam của tôi. “En không en, tét đèn đi ngủ” hay “con chó lớn kén con chó nhỏ nhen reng” (Ăn không ăn, tắt đèn đi ngủ; con chó lớn cắn chó con nhỏ nhăn răng). Những bạn học Nam bộ đã chế giễu tôi, người Quảng Nam duy nhất trong lớp. “Chửi cha không bằng pha tiếng. “Tức điên người”, giờ ta hay nói tức “hôi họng” (hôi họng là ăn hổng được vì quá tức). Thêm thay, giáo sư ngữ học Đàm Trung Pháp còn chế giễu tôi, khi phân tích ngữ âm học.

Ông ví dụ: to shop, mua sắm, các em phát âm như tiếng “sốp” Quảng Nam. Ông ví dụ bằng câu chuyện kể, lúc học tiến sĩ ở Mỹ về, bị gọi vô trường Trừ bị Quốc gia Thủ Đức, 12 tháng học quân sự, trước khi được dạy đại học. “Phốp, Phốp, lấy cho tô cây đèn sốp” – bạn quân ngũ người Quảng gọi ông (Pháp, Pháp, lấy cho tao cây đèn sáp – đèn cầy, đèn bạch lạp). To shop, các em phát âm như giọng Quảng Nam này nhé. Không hiểu có ý giễu cợt tôi không, nhưng tôi rất giận thầy, nên môn trong linguistics của ông tôi luôn dưới điểm C (cho điểm kiểu Mỹ).

Tôi muốn quay lại: Mì Quảng hay mì Quoảng, mì nào ngon hơn? Khi đi khắp các con phố Sài Gòn, nhan nhản tên quán Mì Quảng, mặc cảm giọng Quảng của tôi thời sinh viên vào Nam từ đây “mất sạch”. Dân Sài Gòn đã công nhận đặc sản món ăn xuất xứ từ Quảng Nam, Mì Quảng của quê hương tôi. Phải ngon, phải đặc biệt, tên Mì Quảng mới ngang nhiên nằm chễm chệ trên nóc các nhà ở phố, ngang ngửa các tên tuổi gạo cội của ẩm thực Việt Nam nổi tiếng từ lâu: Bún bò Huế, Hủ tiếu Nam Vang, phở Hà Nội… Hãnh diện lắm chớ, Mì Quảng. Xin khẳng định, không được tranh cãi nghe, Mì Quảng là của Quảng Nam.

Xin đừng có nhầm lẫn từ Quảng, vì có “một dọc” tỉnh bắt đầu bằng Quảng: Quảng Ngãi, Quảng Tín (VNCH), Quảng Bình, Quảng Trị, có “ông” Quảng Ninh nữa. Khi đọc lịch sử Đàng Trong, nhiều người bắt gặp chữ “Quảng Nam quốc”, các giáo sĩ phương Tây tưởng từ Quảng Nam trở vào là một nước. “Bé cái nhầm” nhưng cái nhầm này nói lên địa danh ấn tượng nhất của người phương Tây với cái tên Quảng Nam. Thanh Chiêm một thời là thủ phủ “Quảng Nam quốc”, gần Thanh Hà, Hội An, nơi tàu bè nước ngoài coi như thương cảng một thời sầm uất. Thanh Chiêm, món mì Quảng có lẽ xuất phát từ đây.

May là tôi ở Sài Gòn, chứ còn ở Quảng Nam, chắc chắn sẽ bị “trói” lại vì dám nói Mì Quảng xuất phát từ Thanh Chiêm, một địa danh nằm giữa Vĩnh Điện và Cầu Mống, giáp Cẩm Hà, Hội An. Tôi sẽ được “cởi trói” nếu “cãi thua” các đồng hương của mình. Mì Đại Lộc, Mì Quế Sơn, Mì Đức Dục, Mì Túy Loan, Mì Cẩm Lệ, Mì Vĩnh Điện… mới là “cái nôi” xuất phát Mì Quảng chớ? Xin thưa các anh chị, chúng tôi, những người Quảng không phải bỏ ra ba ngày, ba tháng, ba năm, mà ba chục năm, nếu còn khỏe, sẽ ba trăm năm cãi nhau xem địa phương nào mới đúng là cái nôi Mì Quảng. Tôi không bao giờ nói ngoa, quý vị nên nhớ: Quảng Nam hay cãi, không phải bây giờ mà hàng trăm năm trước, đã cãi, đang cãi, và sẽ cãi: Mì Quảng xuất phát từ địa phương nào của tỉnh Quảng Nam? Tôi sẽ nói: Thanh Chiêm, thủ phủ đầu tiên xứ Quảng, phủ Điện Bàn.

Trong đoàn khách được mời qua Tokyo để trình bày mối quan hệ giữa Hội An và người Nhật trong quá khứ, điển hình là di tích Chùa Cầu – dấu ấn kiến trúc Nhật Bản, người nấu Mì Quảng nổi tiếng ở Thanh Chiêm đã trình dọn Mì Quảng cho các nhà nghiên cứu về Việt Nam người Nhật thưởng thức. “Ngon, ngon quá hỉ”. Mấy ông “xứ sở mặt trời mọc” vừa ăn vừa thốt lên bằng tiếng Việt, “giọng” Quảng Nam. Nhật là xứ sở của tinh tế, của văn hóa thanh tao. Không ngon, họ sẽ không khen như thế.

Mì Thanh Chiêm có đặc trưng ít nước nhưn (dạng như nước lèo). Nước mì đậm đặc, hương vị chất phác, đậm đà và mộc mạc, như tính cách Quảng. Rau ghém gồm vỏ lụa non bên trong bẹ chuối hột (chuối chát) xắt mỏng, cải con (không nhiều, nhiều sẽ đắng, hăng), ngò rí, lá hành, vài cộng giá sống mập mũm mĩm, bắp chuối (hoa chuối) chát thái lụa (mỏng), và rau húng lủi. Mì thiếu rau húng lủi, không còn là mì. Sợi mì xắt to bản, hơi dày, bôi với dầu phụng khử hành thật thơm. Mì phải là mì gà mới ngon.

Có mì lươn, mì cá tràu (cá lóc, cá quả), mì ếch, mì cá nhét (giống cá kèo miền Nam nhưng ngắn, bụ bẫm, chắc thịt, màu vàng ươm), mì bò, mì ốc, mì cá biển… “Nhưn” mì biến đổi tùy theo chất liệu có sẵn, hoặc thuận tiện ở từng địa phương, vì mì xưa kia, đâu có mì nào cũng được làm bằng thịt gà… Gà rất hiếm. “Khách đến nhà không gà thời vịt”. Gà đặt cao một bực hơn vịt là rứa. Mì gà là thượng đẳng. Gà ngon phải là gà mái tơ.

Người cũng vậy, “con đực” không ngon bằng “con cái”. Con cái mẩy hơn, mơn mởn hơn, đầy đặn hơn, dầy dầy hơn (Nguyễn Du: Dầy dầy sẵn đúc một tòa thiên nhiên – ổng tả phụ nữ đang tắm đó). Gà cũng phải theo người, gà mái tơ, “nhưn” mì mới… tuyệt. Gà chặt miếng bằng dao thật sắc (tránh xương mẻ vỡ, ăn hóc xương), ướp hơn một tiếng bằng những gia vị (bí mật… chỉ phụ nữ người Quảng Nam mới được biết). Sau đó bỏ vào nước sôi, cho sôi thật lâu. Thịt gà ướp nấu lâu vẫn giữ hương vị đậm đà; khi gắp ăn thực khách vẫn nghĩ đây là thịt gà đầy hương vị, không phải như cục giò heo chặt khúc của bún bò Huế hay những miếng thịt bò của phở, chẳng dính dáng gì đến nước nhưn kèm theo, hoặc có dính dáng cũng không gắn bó, quấn quýt như miếng thịt gà với nước nhưn của món Mì Quảng. Ăn riêng miếng thịt gà, người ăn vẫn cảm nhận hương vị của nó như là hương vị của nước nhưn, không lỏng lẻo, lạ lẫm, xa cách.

Mì Quảng phải ăn với một ít đậu phộng rang “giã bể” bỏ lên trên (không giã nhỏ), “nêm” bằng nước giấm nuôi (không phải chanh), và bánh tráng nướng, bóp nhỏ (nhưng không quá vụn). Mì Quảng truyền thống không ăn bằng muỗng, chỉ bằng đũa, phải là đũa tre, khi ăn phải “lua và húp” (dùng đũa đưa mì vào miệng, húp nước kêu sồn sột). Trần Văn Khê, nhà văn hóa uyên bác đáng kính, cho biết khi ăn các món Á châu, ông không mời bạn người phương Tây đi cùng, vì họ ăn uống nhỏ nhẻ, từ tốn, không gây tiếng kêu như ta. Ông nói ăn bằng ngũ giác: nhìn, ngửi, nếm, sờ, mà thiếu nghe, âm thanh, món ăn chưa hẳn đã ngon. Ăn cần có âm thanh, điều cấm kỵ với người Tây. Như vậy, và đúng là như vậy, Mì Quảng “lua, húp” mới ngon (“nhà quê” quá hỉ).

“Ớt nào mà ớt chẳng cay/ Gái nào mà gái chẳng hay ghen chồng”. Ghen đem lại gia vị cho cuộc sống lứa đôi. Ăn mì mà không ớt (như vợ không ghen chồng) thì mì còn ý nghĩa chi đâu (ớt phải xanh, cay vừa, không cay xé). Một chén nước mắm nhỉ nguyên chất cho ai muốn mì có vị mặn mà hơn. Chớ bao giờ đâm tỏi cho vào nước mắm. Mùi tỏi sẽ là kẻ “thủ tiêu” mì Quảng.

Tả tỉ mỉ theo trí nhớ hay tưởng tượng như thế chắc chắn phải ngon đối với tôi, món mì Quảng, nhưng không hẳn đã ngon với người đọc bài này. Ngon hay không tùy khẩu vị mỗi người. Ngay một món trong gia đình nấu bởi người mẹ thân yêu đẻ ra mấy người con vẫn bị các con kẻ chê người khen huống hồ chi Mì Quảng, món ăn thường ở các quán, ở nhiều nơi, nhiều nước, ở nhiều thời điểm, làm bởi nhiều người, ngon nhất là điều không thể.

Nhưng điều này có thể: mì Quảng là “quốc hồn, quốc túy” của dân Quảng Nam, món ăn nghĩa tình mà ngon nhất (nghĩa tình: xưa, các dịp trọng đại như giỗ kỵ, ăn mừng con thi đỗ, tiễn con đi lính…, mì Quảng là món đãi chính). Mì Quảng này ông tổ tôi, ông cố tôi, ông nội tôi, ông cha tôi đã ăn, và tôi đang ăn, sẽ ăn, con cháu tôi cũng theo gương ông cha chúng, tiếp tục ăn mì Quảng. Một món ăn mà bao nhiêu thế hệ đã coi như hồn cốt trong người, món đó không ngon thì món nào ngon hơn Mì Quảng?

Mì Quảng có nhiều, nhưng nên ăn ở những quán người ta nói “Mì Quoảng” chứ không phải Mì Quảng. Ở đó mới có mì ngon. Vì ở đó có người Quảng Nam. Ăn và nghe giọng Quảng quê mình, giọng nói quê hương. Cái gì của quê mà không ngon đâu, hỉ.

Monday, November 11, 2024

BA ĐỨA QUẢNG

Xa quê, nghe ai nói giọng Quảng (Nam) tôi liền bắt chuyện. Nghe tiếng quê, lòng mình cảm thấy thư thái – như ở quê nhà. Ở Sài Gòn, tình cờ gặp một vài bạn đồng hương, thật là một cơ duyên. Hôm kia, uống cà phê cùng Lê Văn Trí Minh và Nguyễn Tăng Hải. Chúng tôi gặp nhau lần thứ hai…sau đúng một năm chẵn.

Ở Hội An, xuất thân từ trường trung học Trần Quý Cáp, học sinh nào cũng hãnh diện, nhất là những ai học ở đây trước 1975. Lý do duy nhất: Cả tỉnh Quảng Nam chỉ  Trần Quý Cáp là trường công có cấp 3. Đây như là trường Bưởi của Hà Nội. “Tinh hoa” cả tỉnh “đổ” về đây. Những người thành danh hầu hết đều học từ trường này. Thi đậu vào lớp đệ thất (lớp 6) phải nói là “trầy vi tróc vảy”. Và thi ra tú tài ở đây cũng tróc vảy trầy vi. Lớp nào có tỷ lệ đậu tú tài toàn (tú tài II) từ 15 đến 20 % phải là “lớp chọn, trò chuyện”.

Hai trong ba người (ảnh) đỗ tú tài cùng năm (1972). Minh sau đó vào sư phạm toán. Tôi thi đậu ngay vào sư phạm Anh (dạy cấp 3). Cả tỉnh Quảng Nam chỉ có hai người đậu vào ngành này năm đó. Bạn nữ giỏi hơn tôi nên được học bổng du học Úc (Nguyễn Thị Thanh Tú). Bạn Hải thì học ở Phú Thọ (Bách Khoa) sau chúng tôi nhiều năm.

Từ một quê nghèo nên chúng tôi phải cố gắng học. Thời chiến tranh, động lực học còn vì là…”trốn lính”. Sinh viên nào học trễ năm phải đăng lính, (ví dụ: Sinh 1954 buộc phải là năm thứ nhất, 1972).

Tuy từ đại học ra nhưng hai bạn “thành công” hơn tôi rất nhiều. Năm 1983, Minh trình luận án tiến sĩ. Có lẽ anh là người đầu tiên của tỉnh Quảng Nam đậu bằng tiến sĩ Toán. Trước đó, nghe đâu Phạm Phú Hiển, cháu cố của cụ Phạm Phú Thứ cũng đậu tiến sĩ Toán nhưng là ở nước Pháp.

Khi ra Hà Nội làm luận án, học trò được thầy hướng dẫn tặng một…chai xì dầu (nước tương) nhưng chai nước tương còn…lưng. Có lẽ thầy “nhịn” ăn để tặng trò lên đường. Thời điểm đói…toàn quốc, chai nước tương không khác chai nước sâm. “Hành trang” cho con lên đường của mẹ anh còn giản dị hơn. Bà rang cho con trai một lọ muối hột. Hồi ấy ở quê không có muối bột. Muối hột hầm (một cách rang) cất giữ lâu hơn. “Con nhớ ăn dè xẻn hỷ”. Mẹ anh dặn dò con trai cẩn thận. Mỗi lần xuống nhà ăn tập thể, anh đem một đôi hạt muối hầm, để “ăn dặm” khi thức ăn thiếu thốn. Người Quảng có thói quen ăn mặn.

“Có phải nhờ vả ai không?”. Tôi hỏi bạn, ngầm ý “chạy chọt” chỗ thân quen. “Không”. Anh nói thời đó rất trong sáng, thầy cũng như nhà trường. "Sức học" chứ không phải “sức mạnh” (của kim ngân hay chức quyền) làm nên tấm bằng tiến sĩ. Dù không còn dạy, Minh vẫn còn…tự học. Đó là chữ Hán. và đang dịch sách lịch sử. Thế hệ chúng tôi rất ít và hầu như không có đi học thêm với thầy. Vả lại cũng rất ít người dạy thêm. “Giáo sư trung học đệ nhị cấp” (giáo viên cấp 3) có ngạch công chức hạng A, chỉ số lương 470, trong khi phó quận trưởng (học 4 năm từ trường Quốc gia Hành chánh) hay kỹ sư Phú Thọ (Bách Khoa) có chỉ số lương là 450.

Anh bạn trẻ hơn chúng tôi là một kỹ sư xây dựng, từ trường đại học Bách Khoa ra. Là công dân Mỹ nhưng anh có công đóng góp với các bạn kiến trúc sư xây dựng ngôi mộ của cụ Phạm Phú Thứ ở Quảng Nam, được xếp vào di tích lịch sử cấp tỉnh. Làng có ngôi mộ lại là nơi Nguyễn Tăng Hải sinh ra và lớn lên. Hải còn đang ấp ủ một “dự án” cá nhân: Sản xuất máy sạc điện không nhiên liệu. Nếu thành công, Hải nói sẽ mang về VN để sản xuất đại trà sau khi chào hàng tại Mỹ. Không rõ thành bại thế nào nhưng mỗi khi nói đến “dự án”, Hải trở nên sôi nổi và hưng phấn như Archimede sắp tìm ra sức đẩy của nước.

Còn tôi? Chẳng tích sự gì. Mỗi ngày bỏ ra nửa tiếng lên Facebook…để “chém gió”. Dịch sách cho người nhưng mình không được đứng tên, chỉ làm kiếm tiền uống…bia. Công việc dịch thuật cũng nhàn nhờ có thằng bạn Google.  Cũng có cuốn được đứng tên (Tư Duy Nhạy, Tiếp Thu Nhanh. Đề sách biên tập kiểu “mì ăn liền” chứ nguyên tôi dịch là Kiến Tạo Bộ Não Ưu Việt, Build A Better Brain).

Nhưng những người Quảng Nam chúng tôi khác gì những người ở tỉnh khác? Tôi nghĩ là giọng nói. Chúng tôi rất dễ gần gũi nếu nghe ai đó nói lên cái giọng Quảng mộc mạc và có phần cục mịch của mình.

Ba chúng tôi gặp nhau cũng vì thế. Gặp nhau chuyện vãn, một phần, phần khác cũng muốn nghe một trong ba ông Quảng hứng khởi  nói ra một đôi chữ, chỉ chúng tôi mới biết, mới hiểu, những chữ nằm trong dòng máu, trái tim, tâm hồn, từ khi cha ông chúng tôi từ Thanh Hóa, Nghệ An vào đây lập nghiệp.

Tiếng Quảng, giọng Quảng, tiếng Quê hương, giọng Quê hương. Rứa thôi.

Wednesday, August 21, 2024

CỔNG TRỜI

Là tên khu du lịch sinh thái rộng hàng trăm héc ta, lấy theo tên đã có từ trước. Dân vùng rừng núi Tây Quảng Nam còn gọi nó là Gợp. Tiếng địa phương có nghĩa là đá chồng lên nhau từng tảng lớn có khoảng trống ở giữa. Vì ở nơi cao nhất tỉnh, vào đây, qua cổng (đá) này, người ta nghĩ là có thể lên trời, Cổng Trời có tên từ đó.

Gợp, cổng “lên trời”.

Khí hậu mát mẻ như Bà Nà. Đó là cảm nhận đầu tiên khi tôi đến đây hơn 10 năm trước, lúc cơ sở hạ tầng, nhà hàng, khách sạn, các hạng mục khác, đang cấp tập xây dựng, ngổn ngang, bừa bộn xe cộ, vật tư.

Và tôi cũng đầu tiên cảm nhận: thiên nhiên đang bị phá vỡ. Mới đây, khi khu du lịch đi vào hoạt động, tôi lại thay đổi cảm nhận ban đầu. Có “phố “ ở  “ rừng” cũng là sự kết hợp hài hòa : hiện đại và nguyên sơ, văn minh và hoang dã, con người và thiên nhiên.

Tuesday, June 18, 2024

CHUỐI CHÁT

Là tên người Quảng (Nam) gọi chuối hột, chuối sứ. Thật ra trái chuối nào cũng chát nếu ăn xanh. Ốc nấu với chuối già (chuối hờn, chuối lùn, chuối già hương) rất ngon nhưng không ai hay ít ai ăn sống như chuối chát. Chuối chát chỉ ăn khi ruột trái chuối mới tượng hạt, màu chuối xanh mướt (Xin xem ảnh). Ăn sớm hay ăn trễ, chuối chát sẽ không ngon mấy.

Chuối chát non (để phân biệt với già, chứ không phải quá non) xắt lát, từng lát rất mỏng, sau khi gọt bỏ bốn cạnh chuối, đầu và cuốn. Xắt chuối bằng dao cực bén, mỏng thì lát chuối mới đạt yêu cầu trong món rau sống trộn (rau ghém). Rau sống gồm cải con, giá, các loại rau thơm và chuối chát là phần không thể thiếu. Trong mỗi hay mọi bữa ăn của người Quảng những ngày giáp Tết (nhất là tháng chạp), rau sống trộn là món ăn số một. Nếu thịt heo luộc thiếu rau sống, thà đừng ăn thịt. Lát chuối mỏng, mười lát như chục, không nát, không rứt rời, chính là cách đo tài khéo của người phụ nữ Quảng Nam. Không hiểu họ bắt đầu tập xắt chuối từ lúc nào, tôi nhận thấy, chục người như một, phụ nữ như mẹ tôi, bà tôi, ai ai cũng biết xắt chuối lát.

Chuối chát đi vào đời sống người thôn quê ngày xưa có lẽ từ lúc có thịt heo xuất hiện. Bắp chuối chát, còn gọi là hoa chuối (Bắc), thái nhỏ, dầm dấm, ăn kèm với thịt vịt luộc, thịt ăn không ngán. Trái chuối hầm xương, hầm thịt mỡ. Chuối trái non làm dưa chua giấm đường ăn trong các bữa cỗ. Thân cây chuối chát là thực phẩm chính cho việc nuôi heo. Mỗi gia đình quê tôi ngày ấy đều chuẩn bị một con heo cho ngày Tết. Từ khi “gầy” (nuôi) heo con cho đến khi “hạ” (mổ) heo thịt, thời gian thường là 8 đến 10 tháng. Chuồng nuôi là những cây “róng” (cây rừng bằng cổ chân, dài độ 2 mét) chất lên nhau, đầu cây này gối lên đầu cây kia. Cố định các cây róng ấy là hai cây nhỏ đóng ở 4 góc, bên trên cột lại bằng sợi mây con rất chắc.

Mái chuồng lợp bằng tranh, thường là 2 mái. Lá chuối chát khô sẽ là sàn cho heo nằm, mùa hè cũng như mùa đông, ngày nắng cũng giống ngày mưa. Thân chuối cây xắt thành lát mỏng bằng dao bản to, đem băm hay bỏ cối đá giã nhỏ. Sau đó trộn chuối băm (giã) ấy với cám gạo hay cám bắp. Heo sẽ ăn ngon lành, không chừa một tí gì. Thức ăn đạm bạc ấy khiến heo không lớn nhanh như ăn cám “công thức”. Do đó, thời gian kéo dài hơn nhưng bù lại thịt heo “ngon” hơn. Ngày nay, ở một số làng quê, một số người còn duy trì cách nuôi này để có sản phẩm đặc trưng: Thịt heo cỏ. Giá loại thịt heo này có khi là gấp rưỡi giá thịt heo nuôi cám công thức.

Cây chuối chát có lịch sử lâu đời với con heo cỏ là như thế.

Lá chuối chát là “thứ phẩm” chẳng hề thứ yếu. Lá chuối chát phơi heo héo dùng để gói bánh tét, bánh ít, bánh ú, bánh chưng, bánh rò (một loại bánh bằng bột nếp có hình kim tự tháp nhưn đậu xanh thịt). Lá còn dùng để gói nêm, gói trưởi. Rất ít người biết lá chuối chát còn dùng làm giấy nháp! Thời Việt Minh, học sinh làm toán trên lá chuối. Viết là que tre tròn như chiếc đũa nhưng ngắn hơn, vót nhọn để “viết” vào giấy lá chuối.

Cọng chuối chát phơi khô dùng làm dây cột thay dây nhựa. Cọng chuối chẻ nhỏ ra có thể gói bánh rò, bánh ú. Ở vùng Gia Kiệm (Đồng Nai), tôi thấy người ta thu cả thân chuối. Bẹ chuối phơi khô, tước thành sợi, dùng đan giỏ đựng, xách tay mỹ nghệ.

Củ chuối, có vất không? Thưa, không. Quý vị thử um (om?) củ chuối chát với lươn ướp nghệ tươi, ngon không chỗ chê. Những năm đói 1946, không còn thức ăn, một số người ở quê tôi đào củ cây chuối lên luộc ăn “trừ cơm”.

Trong các thành phần chuối chát, có trái chín là trẻ con chúng tôi ở quê “ngán” nhất. Chúng chín ăn ngọt phần cơm, phần hạt thì chát, ác nỗi, lại chiếm thể tích toàn trái. Ngày xưa, chất ngọt thuộc loại hiếm, trẻ thèm ngọt, ăn trái chuối chát chín sẽ nhớ đời khi đi vệ sinh mỗi sáng, có khi là cả buổi sáng: hạt chuối gây bón. Phân rắn như xi măng đóng cục. Tôi nói trẻ con “ngán” là vậy.

Sau này, chính quả chuối chát là phần “quý giá” nhất. Không phải quý ở món rau ghém có chuối non xắt lát. Ở Đà Nẵng, khi thấy đôi ba lát trong một đĩa rau trong các món ăn nào đó, thực khách không nên kêu thêm như ở miền Nam. Không có nhiều đâu chuối chát trái làm rau.

Trái chuối chát chín còn được các đệ tử Lưu Linh xắt lát phơi khô ngâm rượu cho có “vị thuốc”. Xin thưa, theo tìm hiểu của tôi, ngoài màu rượu đẹp như rượu tây thì trái chuối ngâm rượu hoàn toàn vô bổ. Nó chỉ có ích là làm rượu ngọt dễ uống; không bổ gì ngoài bổ ngửa vì uống ngon quá chén.

Chuối chát phơi khô lấy hạt là vị thuốc chữa sỏi thận cực kỳ hiệu quả. Tôi từng uống và sau một thời gian chừng nửa năm, kích thước sạn trong thận nhỏ lại, những hạt nhỏ nằm rải rác trong đường tiết niệu tan hẳn (siêu âm đối chiếu trước và sau khi uống).

Đây là bài thuốc dân gian nhưng tôi làm theo lời của bác sĩ Dương Ý Đức (không nhớ chắc tên ông) phụ trách mục sức khỏe trong tạp chí Kiến Thức Ngày Nay, tôi thường mua đọc khi chưa có internet. Ông không tin y học dân gian nhưng bản thân ông thực hiện uống hạt chuối chát.

Cách làm theo ông hướng dẫn: Chuối chát chín lột vỏ, bóp nát, bỏ vào một rá nhựa (hay rổ tre) dung tay chà nhẹ để những hạt chuối lọt qua rổ. Thu hạt rồi rửa sạch trong nước và đem phơi khô, phải thật khô. Sau đó xay hạt thật nhuyễn cho vô lọ dùng dần (một buồng chuối cho chừng hơn 1 ký hạt). Một muỗng canh vun bột chuối chát cho vào chừng 1 lít nước nấu sôi chừng 15 phút, để nguội cho vào ngăn mát tủ lạnh, uống lai rai trong ngày. Thời gian cho đến khi sỏi mòn đi hay tan mất.

Chuối chát ăn quanh năm nên hạt chuối của nó có lẽ không gây tác dụng phụ. Tôi uống có kết quả mặc dầu trước đó tốn không biết bao nhiêu tiền cho thuốc Kim Tiền Thảo, uống vừa hao tiền vừa nóng trong người như uống phải nước sôi. Mổ hay chiếu tia lazer thì cũng giải quyết sỏi thận nhưng cách làm này vừa nhẹ nhàng vừa dễ làm.

Tất nhiên, mỗi người có mỗi cơ địa, không ai giống ai. Có khi bác sĩ Dương Ý Đức và tôi thì chữa hết sỏi thận nhưng quý vị thì không. Kiểm tra theo dõi bằng siêu âm trước và sau khi uống để quyết định có nên nghe theo thầy…lang Chiến này không.

Tôi mỗi năm đều về thăm quê. Thấy quê hương ngày càng phát triển hơn xưa, lòng tôi rất vui. Nhưng khi đi nhiều làng không thấy trồng nhiều chuối chát, tôi chợt thấy bùi ngùi. Cây chuối chát tuổi thơ của tôi ngày một ít dần. Hình ảnh những bụi chuối xanh um cao vút mờ dần vào ký ức. Không nuôi heo bằng cám chuối. Cây chuối mất dần lẽ sống.

Lá chuối không thay thế bịch ny-lông tron đời sống. Thịt heo luộc xắt lát không còn gói bằng lá chuối chát; bánh ú, bánh ít trẻ con không thích bằng bánh kem, bánh bích quy, bánh sô-cô-la rắc hạt hạnh nhân. Trẻ con không còn nô đùa khi đến mùa lụt lội, nên bè chuối chỉ là câu chuyện kể thời xưa của cha ông chúng … Chuối chát ít dần vì đời sống ngày càng khác xưa; “Gió đưa bụi chuối sau hè” không còn nghe nữa. Sân, hè đều có bê tông, xi măng, và gạch men thế chỗ.

Friday, March 8, 2024

CÂY DI SẢN

Quê tôi làng Trúc Hà (*) vừa có cây đa được công nhận là cây di sản quốc gia. Nỗi mừng của tôi không làm nguôi nhớ cây cổ thụ, mà nếu còn cho tới nay, cái cây vừa được nhà nước công nhận hơn 200 năm tuổi đời chỉ là hàng “con cháu”.

Ở một làng gần đó, tức là Trung Đạo, có cây gạo cổ thụ, vòng thân to khủng. Cha tôi- nếu còn sống sẽ là 120 tuổi- kể lại khi còn nhỏ năm mười tuổi ông đã thấy cây nó to “hàng chục người ôm”.

Khi con người ám ảnh bởi sinh kế, nói trắng là cái ăn, không có gì là họ không làm. Ở đây, tao sống mày phải chết. Cây cổ thụ có tên cây gạo ông Tuân cũng phải chết. Đất của ông, cây gạo của ông, dân làng đặt luôn tên ông. Và nó đã chết.

Thời Việt Minh (1945-1954), cây gạo là chỗ trú ẩn của dân làng mỗi khi máy bay Pháp ném bom. Cây gạo quá lâu đời, chẳng ai biết niên đại, chỉ còn phần ngoài, phần ruột bị hư hỏng. Cây gạo to đến nỗi, ruột rỗng của nó có thể chứa 3,4 chục người núp mưa, đương nhiên là tránh bom lý tưởng. Nếu ít người, cả trâu cũng vào trú ẩn.

Nếu không có tác động của con người, cây gạo ấy có thể sống đến hôm nay. Người có mảnh đất có cây gạo thấy việc canh tác (trồng bắp, đậu) năng suất ít, vì tán lá cây gạo quá to. Thế là mỗi mùa một ít, chủ đất thời kháng chiến chống Pháp bỏ cây bắp thành đống vào bụng thân cây, và đốt. Thân gạo ngày càng mỏng vì cháy sém, có chỗ thành than, thành tro. Và số phận của cây cổ thụ phải đến. Cây có cành to đến nỗi trẻ chăn trâu trèo lên, chạy qua chạy lại , như chạy dưới đất mà không sợ ngã té.

Bão miền Trung, ai cũng biết, rất mãnh liệt. Gạo ngã đổ. Nhưng nó không chết hẳn. Còn một thân nhỏ như con giữ được đôi cành có lá. Tôi năm nay qua 72, lúc còn bé, tôi đã thấy cành nhỏ ấy là cây gạo rất to. Sau những năm hòa bình, cây gạo “vô dụng” ấy nhường chỗ để có đất canh tác, người nông dân cần có miếng ăn. Cũng phải thôi.

Khi ra Bắc tham quan những năm sau 1980, tôi thấy người ta còn chừa lại một số cây gạo ở một số vùng quê. Tháng giêng hay tháng hai (âm lịch) gì đó, hoa gạo đỏ rực những góc trời. Không rõ lúc vào HTX, họ có đói kém không, những cây gạo choáng đất chẳng bị cắt để trồng hoa màu. Người sống vì hoa màu, cây làm cớm rợp cần phải chết. Hay là họ quý trọng cổ thụ hoặc sợ hãi cây cao bóng cả, “ Thần dựa cây đa”?

Khi cái ăn ám ảnh, con người khó mà nghĩ chuyện khác, dù có liên quan truyền thống hay văn hóa như bảo tồn những cây to bóng cả, có tuổi thọ hàng mấy trăm năm như cây gạo, cây đa ở quê- loại cây tán lá rất to, hoa màu bên dưới khó mà phát triển.

Tôi vui mừng không phải cây đa quê nhà làng Trúc Hà được công nhận là di sản quốc gia. Tôi mừng quê tôi không còn thấy tán lá quá to của nó che chắn hàng ngàn mét vuông đất màu mỡ, nếu không có nó, mỗi năm thu lợi biết bao nhiêu là hoa màu thiết yếu cho cuộc sống.

Cây đa không tranh sống với con người vì con người yêu quý nó. Con người no đủ. Dân quê tôi không còn ám ảnh bởi cái ăn. Đó là niềm vui, theo tôi, còn lớn hơn cây đa của họ được công nhận là di sản quốc gia.

(*) Thuộc xã Đại Hưng, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam. (Ảnh của Phạm Duy Hiền)

Thursday, February 29, 2024

Du lịch SÔNG CÙNG

Quê tôi tên Thường Đức. Các bác ở Bắc vào lập đài chiến thắng ghi thành Thượng Đức. Trên khắp nước VN, không có nơi nào lập một lúc 2 tượng đài chiến thắng như ở quê tôi. Số liệt sĩ hy sinh để đánh chiếm quận lỵ Thường Đức gần 1000 (năm 1974). Sự khốc liệt của chiến tranh làm quê tôi hoàn toàn kiệt quệ khi hòa bình lập lại - 1975.

Gần 50 năm sau, quê tôi, thật đáng mừng, đang trở thành điểm đến của du khách. Khu du lịch sinh thái Cổng Trời khai trương ngày 29 tháng 4 có số lượng khách tham quan rất đông với giá vé 200, 400 ngàn(bao ăn buffet)/người chứng tỏ tiềm năng du lịch của một vùng quê từng là nơi khói lửa, đạn bom.

Trên đường đến Cổng Trời chừng 29 km là điểm du lịch sinh thái Sông Cùng, nằm trên quốc lộ 14 (cũ).

Từ quốc lộ vào Sông Cùng đúng 2km. Có khoảng 400 mét chưa đổ bê tông nhưng xe con vẫn vào được. Khe suối nước trong veo, mát lạnh, có chỗ nước sâu hơn 2 mét dành cho ai biết bơi. Các chỗ khác nước cạn hơn, trong lòng suối cát, thi thoảng thấy cá con bơi lội tung tăng.