Nhiều người nghĩ như vậy nhưng tôi thấy sai. Chung ta dễ dàng thấy người ta phung phí thời gian rất nhiều vì nó chẳng quý báu như tiền bạc. Quý như tiền bạc chả ai dại gì “xài” thời gian tha hồ như chúng ta.
Dân chúng than vãn khó khăn nhưng mỗi chiều, cả những nhà hàng sang trọng luôn đông khách, các quán cóc bên lề nhan nhản… người ăn nhậu từ thành phố nhỏ lớn cho chí một số thị trấn nhỏ ở nông thôn. Khỏi thống kê mệt xác, nhờ con số hơn 4 tỷ lít bia mỗi năm, VN xếp hạng tiêu thụ thứ 2 châu Á sau bác TQ vượt mặt chú Nhật Bản.
Ra quán không phải chỉ nâng lên hạ xuống một vài lần mà chí ít cả trăm lần ly bia sủi bọt đầy sảng khoái. Mỗi bàn bao nhiêu người, một cuộc nhậu bao nhiêu giờ đồng hồ, bao nhiêu người tham gia mỗi ngày: thời gian ở đây không còn như thể “thoi đưa” nữa mà kéo dài lai rai chậm rãi như đồng hồ ngưng chạy…“Ngày vui ngắn chẳng tày gang”.
Dân thì vậy còn quan thì sao? Họ không “nhậu” như dân nhưng dành nhiều thì giờ cho họp. Để được công nhận ấp xóa đói giảm nghèo: họp. Để được trao danh hiệu ấp văn hóa, nông thôn mới: họp. Bão bùng mưa lũ, ban chỉ đạo phòng chống lụt bão: họp. Có chủ trương nghị quyết chính sách mới: họp. Học tập và làm theo phong cách đạo đức Hồ Chí Minh: họp. Giải quyết chuyện quốc gia đại sự của quốc hội: họp.
Những cán bộ cấp thấp nhất cho đến cấp cao nhất ai cũng phải họp, và họp dường như gắn bó cả cuộc đời làm quan chức của mình. Họp gần như là lẽ sống. Có ai thống kê bao nhiêu thời gian dành cho bao nhiêu cuộc họp, gồm bao nhiêu người tham dự cả nước mỗi ngày này hay không? Thời gian họp có ảnh hưởng gì đến công việc hằng ngày của những “công bộc quốc gia” từ cơ sở đến trung ương?
Tôi thấy những vị lãnh đạo đáng kính của chúng ta cặm cụi đọc văn bản dày cộp trên tay trong mỗi kỳ họp quốc hội mà hết sức ái ngại. Thời gian của các vị không phải quý báu… mà vô cùng quý báu, phải là ở văn phòng làm việc riêng của từng vị, không phải ở hội trường to lớn “xuân thu nhị kỳ” như thế.
Những việc ở quốc hội như bầu cử, soạn luật, thông qua luật, phát biểu, chất vấn…bề bộn có ảnh hưởng gì đến công việc của các vị ấy hay không? Thôi, không bàn nữa, tôi muốn nói chuyện khác liên quan thời gian, nhưng quý giá hơn nhiều:
Đánh mất thời gian, chúng ta đã “đánh mất” thời gian chứ không phải “lãng phí” thời gian.
Trước 1966, ở miền Bắc, “hiện tượng” Kim Ngọc đã làm bực mình những vị lãnh đạo thời ấy. Những “bứt phá” về khoán nông nghiệp đã làm cho dân trong tỉnh của ông no đủ, thừa thóc nộp ngân sách, nhưng lại làm tiêu tan sự nghiệp chính trị của mình. Những năm sau 1986,ông Kim Ngọc được phục hồi danh dự, nhận danh hiệu anh hùng lao động…nhờ tư tưởng “đột phá”, tư tưởng sau này đem lại cảm hứng cho những người “phá rào” như Võ Văn Kiệt (Sài Gòn) mở màn cho bước đầu đổi mới, giúp dân thoát đói, giảm nghèo, giã từ quá khứ “kiên định”, “lập trường”,“tiến nhanh tiến mạnh”.
Ông Kim Ngọc mở đầu cho khoán hộ.
Chúng ta đã đánh mất thời gian trên 20 năm để có được một nhận định thức thời.
Hơn 50 năm trước những người sở hữu trên năm bảy hectare đất bị khốn đốn vì đa phần thuộc thành phần…địa chủ bóc lột, có người mất cả mạng sống, và cả gia đình con cái điêu đứng vì thành phần xuất thân, bị rẻ khinh, bị nghi ngờ, bị phân biệt đối xử…“Bọn bóc lột” vì nhiều ruộng đất thời đó là “tội đồ”.
Hơn nửa thế kỷ sau, đất nước bình yên, những người bây giờ thủ đắt hàng trăm, hàng ngàn hecta, có vị được ngợi ca như những … “anh hùng thời đổi mới”.
Nơi đâu có anh V, có anh Q. chị M. nơi đó có cờ hoa, có “pháo nổ” rợp trời.
Tại sao phải mất hơn nửa thế kỷ mới nhận ra “tích lũy ruộng đất", làm giàu bằng ruộng đất, vừa ích cho mình, vừa ích cho người, không mang tiếng bóc lột… là dạng “diễn biến”, “chuyển hóa” thuận lòng người, hợp lẽ trời?
Rồi chúng ta mất bao nhiêu năm để thí điểm cho những mô hình sản xuất, đánh mất bao nhiêu sức lực toàn dân vào những thí nghiệm cứ ngỡ là mang lại ấm no hạnh phúc cho chính đồng bào của đất nước mình?
Những thay đổi trong tư tưởng từ những hoàn cảnh như đã xảy ra trong lịch sử gần đây của nước ta luôn bị đối xử “mạnh tay”: lúc nào cũng bị xem xét bằng con mắt hồ nghi, lúc nào cũng cần phải ngăn chặn vì sợ chuyển biến, chuyển hóa …đi chệch hướng con đường những vị “tiền bối” đã chọn cho dân tộc này.
Hai mươi năm sau, năm mươi năm sau, liệu số phận tư tưởng “diễn biến”, “chuyển hóa” đang bị lên án hiện nay có hạnh phúc được như số phận của tư tưởng diễn biến, chuyển hóa của Kim Ngọc hay không?
Và nếu là như thế, chúng ta lại đánh mất thời gian vàng ngọc của chính chúng ta hay sao?
Chúng ta “giàu có” thời gian như vậy à ? Tôi mong những phê phán hiện nay về tư tưởng “diễn biến”, “chuyển hóa” sẽ mãi mãi là chân lý để người Việt chúng ta không mang tiếng xem thường “thì giờ là tiền bạc”.











