Showing posts with label Văn hóa. Show all posts
Showing posts with label Văn hóa. Show all posts

Friday, November 7, 2025

KỶ LUẬT LÀ SỨC MẠNH.

Tính kỷ luật của chúng ta. Chung cư Lotus House ở Thanh Chương, Hà Nội, xảy ra một tai nạn thương tâm: bé trai 3 tuổi đang chơi đùa bị gạch rơi từ dãy nhà 16 tầng trúng đầu vỡ sọ chết. Chỗ con tôi ở cũng có một trường hợp vật rơi từ các tầng cao của chung cư trúng vào kiếng xe hơi bên dưới làm kính vỡ vụn: một cục đá uống bia bị dư của ai đó tiện tay vứt xuống.

Tính kỷ luật của người Việt qua 2 ví dụ trên không cao.

Vô kỷ luật có mà đầy rẫy ví dụ mỗi ngày. Chỗ cấm đái, đái nhiều. Chỗ cấm đổ rác, rác nhiều. Chỗ có câu “xin giữ yên lặng”, chỗ đó ồn ào…Vì sao chúng ta ít có tính kỷ luật? Tính này mới có đây hay đã là bản chất của người Việt chúng ta có từ xa xưa? Một số người kết án một số “tính xấu”, trong đó tính thiếu kỷ luật, là do những người cộng sản mang lại; trong chiến tranh họ quen chiến đấu linh hoạt, tùy cơ ứng biến, thoát ẩn thoát hiện, “không có kỷ luật” nên mới thắng người Mỹ…”quá kỷ luật”.

Tôi cho rằng không phải.

Năm 1972, thầy dạy chúng tôi, ông Huỳnh Văn Quảng, tiến sĩ tâm bệnh học tốt nghiệp tại Mỹ đầu tiên ở VNCH thời đó, nhận định tính thiếu kỷ luật là do ảnh hưởng truyền thống và văn hóa người Việt Nam.

Thời đó Sài Gòn rất ít xe cộ, không dày ken như bây giờ, các ngã tư đều có đèn đỏ. Khi không có cảnh sát, người đi xe vẫn ào ào vượt qua. Có anh chần chừ cũng bị người sau bóp còi nhắc nhở “vượt đi”. Thầy tôi nói rằng (bây giờ thì ai cũng biết) lúc mới sinh ra, trẻ em chúng ta đã quen thói…vô kỷ luật.

Hễ trẻ khóc là bà mẹ yêu quý vạch áo cho con bú ngay, không rõ nó khóc để đòi hỏi hoặc phản ứng cái gì đó không phải là đói bụng (tục ngữ: “con khóc mẹ mới cho bú”). Nhỉnh lên một chút khi ị hay tè, trẻ đều “tự do ngôn luận”, không được tập đi bô đúng giờ đúng chỗ. Lớn chút nữa, trẻ được nuông chìu, muốn chi có nấy, đòi chi được nấy, thậm chí anh hay chị đang có đồ chơi cũng bị bắt nhường cho em nếu nó đòi, nó khóc. Ăn uống, sinh hoạt tùy tiện không theo khuôn phép nào.

Trẻ bây giờ đều được cha mẹ tập những thói quen đúng giờ kể cả chuyện đi vệ sinh, và trên tất cả, chúng được dạy dỗ với giáo trình tiên tiến không thua phương Tây. Nhưng có được bao nhiêu gia đình như vậy bây giờ trên khắp đất nước chúng ta?

Có chăng cũng chỉ có ở các thành phố lớn nhưng không phải hầu hết các gia đình ở đó.

Tôi chở cháu hơn 3 tuổi đi học về trên tay còn hộp sữa chưa kịp uống hết. Uống xong cháu vẫn cầm trên tay. Khi ngang qua cổng một trường học, cháu bảo tôi dừng lại. Tôi ngạc nhiên hỏi, cháu trả lời để vất hộp giấy đựng sữa vào thùng rác màu xanh đặt trước cổng trường. Như vậy, trường mẫu giáo nơi dạy cháu đã thành công trong việc hình thành thói quen không vứt rác bừa bãi. Tính kỷ luật một phần được hình thành nơi đứa trẻ hơn 3 tuổi khi nó chưa hẳn đã ý thức việc bảo vệ môi trường.

Tôi từng chứng kiến một chiếc xe hơi sang trọng xuống ga rề rề và bên trong xe một phụ nữ quý phái mở cửa, thảy xuống một túi rác va vào mặt đường vỡ bung tung tóe, tôi thấy được vỏ lon bia, nước suối, nước ngọt, vỏ bao thuốc ba số 5.

Như vậy muốn hình thành tính kỷ luật chỉ trông chờ vào…con nít. Người lớn khó một sớm một chiều mà hình thành nhanh chóng được tính kỷ luật dù nhận thức của họ lúc nào cũng cao hơn…con nít.

Giáo dục ta rất bề bộn vấn đề. Người người kêu ca than vãn thế nọ thế kia. Tôi nghĩ đơn giản nhất: hãy bắt đầu từ con nít.

Nghe nói năm 2020 tiến hành tàu cao tốc khoảng 50 tỷ Mỹ kim chi đó (tương đương 1.150.000 tỷ tiền VN đồng). Hà Nội đi Sài Gòn chừng 5 tiếng đồng hồ. Máy bay có lẽ sẽ ế chỏng gọng. Tiền nghe nói cũng vay 80 %, số còn lại tự lo. Có đại biểu trước đây bảo nước nào có chỉ số IQ cao thì mới làm tàu cao tốc! Hội chứng ưa hoành tráng ngày càng nâng lên tầm cao mới. Tàu cao tốc sẽ là hướng phát triển vận chuyển tương lai khi chúng ta có mức sống khá hơn, và giàu hơn. Nhưng đang nghèo mà bỏ số tiền khổng lồ như vậy sẽ ngược lại lời khuyên của ông cha ta “liệu cơm gắp mắm”.

Chỉ cần 1 phần 10 số tiền đó đầu tư cho…con nít, tức cho tương lai VN.

Tất cả trẻ em VN từ 1 đến tuổi vào tiểu học sẽ được học, được ăn ở, sinh hoạt miễn phí trong các ngôi trường và khuôn viên xây dựng đúng quy chuẩn văn minh. Giáo dục theo cách tiên tiến nhất. Các cô giáo đều phải được trả lương cao như giáo viên cấp 3 hoặc cao hơn, và phải được tuyển chọn, đào tạo khắt khe từ những sinh viên ưu tú thực lòng yêu quý trẻ con.

Tất cả trẻ đều được uống sữa miễn phí (VNCH có thời đã làm được việc này trong các trường học khắp miền Nam). Dân Hà Lan trung bình cao nhất thế giới nhờ họ có nguồn sữa dồi dào. Lúc đó, chúng ta sẽ có các cầu thủ không như bình luận viên VTV trận Triều Tiên- Việt Nam nhận xét: họ (Hàn) chỉ hơn ta duy nhất là…chiều cao. Nhưng học ở trường tốt, trẻ con về nhà sẽ học nữa từ gia đình và người lớn buộc phải tốt hơn.

Người lớn chúng ta cần làm gương cho trẻ con trong suốt cả cuộc đời của mình.

Những sự việc đáng tiếc như gạch rơi làm chết người nói ở trên sẽ không còn nữa: Lúc xây dựng xong, một công nhân có kỷ luật không thể để viên gạch kia ở vị trí sau này gây tai họa (giả thiết gạch xây dựng còn sót trên tầng cao nhất bỗng dưng rơi xuống); một người nào đó ở một tầng chung cư có tinh thần kỷ luật (không bạ đâu vứt đó) sẽ không thể vứt viên gạch xuống vì nó sẽ gây nguy hiểm chết người (chưa nói đến ý thức); hay là cái anh chàng đang nhậu kia sẽ không thảy cục đá thừa  kia xuống, may mà chỉ bể kiếng xe, nếu trúng vào đầu người thì hậu họa khôn lường.

Không thể cải tổ được trong thời gian ngắn tất cả các cấp thì giáo dục nên bắt đầu từ cấp thấp nhất: mẫu giáo. Rứa có được không, hỉ?

 

Sunday, October 26, 2025

YÊN TĨNH


Một bản nhạc sẽ không hay nếu thiếu khoảng lặng. Cuộc sống chúng ta sẽ không hoàn toàn hạnh phúc nếu thiếu thời gian tĩnh lặng. Cuộc sống bộn bề lo toan ngày nay bị đe dọa hàng ngày với biết bao sự ầm ĩ, âm thanh đinh tai nhức óc tràn ngập phố phường cả thôn quê.

Loa " kẹo kéo" phát ra tiếng chào mời mua rau củ, áo quần, giầy dép ra rả các con phố ầm ầm tiếng xe qua lại. Những cửa hiệu lắp những chiếc loa công suất cao chơi những bản nhạc giật gân của nước ngoài, lôi kéo sự chú ý khách đi đường thương hiệu cửa hàng.

Mỗi sáng sớm, mỗi chiều tối, "đây là tiếng nói nhân dân..." oang oang phát ra từ những chiếc "loa phường" có tuổi thọ dường như niên viễn.

Trên xe buýt, trong nhà hát, ở các quán nhậu, sự ầm ĩ của của tiếng nói thả cửa như nơi đó là nhà của riêng mình, muốn la to, nói lớn, thế nào tùy thích.

Có những nơi giải trí khung cảnh hữu tình, những lều nhỏ nằm dọc trên lối đi lát sỏi, hai bên cây cỏ, xa bên ngoài là hồ nước tự nhiên, điểm tô những bông súng nhiều màu trên nền xanh rêu mặt hồ, những lồng chim treo trên một số cây che mát, cất lên những tiếng hót như hòa với niềm vui của những người đang ngồi trong những lều lợp lá, rôm rả bên mấy cốc bia, hồ hởi chuyện xưa sau.

Khung cảnh lẽ đáng êm đềm như thế sẽ kéo dài nếu không xuất hiện những đám thanh niên mặt mũi sáng láng, quần áo bảnh bao, lịch thiệp còn hơn công chức.
Và, tiếng loa kẹo kéo, âm thanh khủng bố vang lên, hòa quyện thi thoảng tiếng "dô dô trăm phần trăm" nhức óc. Liên tục sau đó là những giọng hát, còn tệ hơn giọng vịt đực của tôi, vang lên có lúc the thé, có lúc oang oang, trộn lẫn trong giọng hát là mùi bia, mùi rượu, mùi thuốc lá, có cả mùi ngả ngớn, tục tĩu, vô duyên của những lời bỡn cợt nhau phát ra trên loa công suất hết cỡ.  Hình ảnh, âm thanh  này không phải là cá biệt.
Các nơi ở bờ sông Sài Gòn và một số nơi tôi có dịp tới, đang nở rộ những nhóm thanh niên với "thùng kẹo kéo" mướn, ngặt nỗi, là sản phẩm của chủ cơ sở du lịch...muốn thu hút khách thanh niên, thích khẳng định sự có mặt của mình bằng âm thanh "cực hót".

Ưa thích âm thanh cực lớn nhưng không màng đến những người khác ưa thích sự tĩnh lặng bình yên. Chỉ biết có mình, không biết có người, đó là triết lý sống của một bộ phận thanh niên rường cột chúng ta ngày nay?

Ở Việt Nam, vào những chỗ đông người, như nhà hàng, sân bay...nghe có tiếng nói cười hô hố xì xồ, tôi đoán ngay là có các du khách “bốn tốt”.

Qua Singapore mà nghe âm thanh tương tự là đoan chắc có người VN. Âm thanh hổ lốn đã từng gây ra tai vạ, báo chí đã đăng. Một ông 60 tuổi bị đánh chấn thương đầu phải đi cấp cứu vì đã lên tiếng với đám thanh niên đang nhậu, đang ca hát qua loa kẹo kéo; ông năn nỉ xin được "giảm âm thanh" mà lãnh hậu quả thương tâm.

 Lâu rồi, đâu ở tỉnh nào ngoài trung, một người bị đâm chết vì lên tiếng rồi xảy ra xô xát với người hàng xóm đang hát karaoke quá to, quá ầm ĩ kéo dài.

 Khi ý thức chưa hình thành thói quen thì luật pháp, ở đây là nhà chức trách, nên can thiệp bằng những chế tài cần đủ mạnh, hễ ai vi phạm sẽ bị xử phạt, về việc gây tiếng ồn quá mức, quá lâu, ở quá nhiều nơi công cộng.

Việc cấm đốt pháo, buộc đội nón bảo hiểm, nhà nước làm rất hiệu quả, rất tốt. Kiểm soát âm thanh, tiếng ồn, là việc khó lắm hay sao?

Một nghiên cứu cho biết người Việt có chiều hướng mắc bệnh rối loạn tâm thần ngày càng cao, biết đâu âm thanh có cường độ quá mức không là một nguyên nhân chính. Nghe kể, văn hào Dostoevsky người Nga đã cho đào một cái hầm sâu, đầy đủ tiện nghi để ở đó sáng tác những tác phẩm nổi tiếng thế giới, và khi chết, trong di chúc ông ghi rõ trong đám tang mình không được có mặt của người vợ. Lý do thì nhiều nhưng một lý do chính bà vợ, liên tù tì, chì chiết ông cả đêm lẫn ngày, qua giọng nói the thé không khác chi giọng nói của những bà vợ ưa rủa sả chồng mỗi khi say xỉn. Âm thanh tác động thế đó. Ở Sài Gòn đào hầm đâu được, nếu đào, có khi bị hỏi thăm đào hầm bí mật sao? Sự tĩnh lặng, không bao giờ có hay sao?

 

Saturday, October 25, 2025

CHIẾC NÁ THUN

Sáng nay chạy xe qua ngã tư Bình Phước, Sài Gòn,  thấy có chiếc xe máy bán hàng, trong đó lủng lẳng những chiếc ná thun, với những cái gọng ná gỗ xinh xắn, bắt mắt. Ở thành phố sao cũng có bán ná thun. Có lẽ các vùng gần đó có cây cối và còn có chim chăng. Có người nói để bắn trộm. Chiếc ná thun nhắc nhớ những kỷ niệm thời thơ ấu vùng quê Thường Đức, Quảng Nam.

Tiểu học thời VNCH chỉ có 2 môn toán và văn, từ lớp 1 đến lớp 5 (tức lớp 5 đến lớp nhất). Thời gian đi bơi ở sông, bắn bi, hay lang thang từ làng này sang làng khác bắn chim là chính, học chỉ một buổi mỗi ngày. “Rảnh rỗi sinh nông nỗi”.
Chiếc ná lũ trẻ dây thun mỏng hơn, dễ kéo dãn  hơn, không như những chiếc ná mấy anh thanh niên có dây thun dày hơn, kéo nặng hơn, nên ba bốn ngày hay cả tuần không bắn được con chim nào là thông thường.

Những cây gạo cao vút, cành vươn ra xa khoảng trời xanh trong vắt, như thách thức các đám mây trắng đang “nghỉ nắng” trên cao, với những cánh hoa đỏ ối khắp cành; những cây gạo cao giữa những bãi đất bồi mênh mông dọc hai bờ sông chỉ dành nơi đáp cho chim cu, chim cưỡng, chim nhồng, chim sáo…những loài chim bay cao.

Thỉnh thoảng chúng hốt hoảng rập ràng bay lên khỏi những cành cây khi có đàn chim két xanh nguyên bầy bay tới mang theo đe dọa. Chúng quay trở lại khi lũ chim với những cặp mắt cú vọ, những chiếc mỏ nhọn hoắc kia bay đi.

 Chiếc ná thun cầm sẵn, “đạn” là những hòn sỏi tròn như viên bi lượm từ bờ cát ven sông, và chỉ làm cho một vài con chim trên cành cao, thảng thốt nhìn xuống, chả con nào sợ hãi mà bay đi: mấy tay ná “oắt con” lũ chúng tôi sao mà bắn cho tới nói chi cho trúng một con chim nào. Nhưng cũng nhiệt tình chăm chăm “nã đạn. Họa hoằn trúng một chú chim nào chăng. Chỉ khi hết “đạn” thì mới ngưng “nã ná”. Rồi lại rủ nhau chạy ra sông, lượm “đạn” tiếp. Và cứ thế những con đường làng lại in dấu những bàn chân bé nhỏ chúng tôi mỗi khi nghỉ học.


Chỉ những bụi tre mới là nơi “săn chim” của lũ trẻ chúng tôi, trồng đâu từ thời xửa thời xưa sát bãi ven sông chống xói mòn, bố tôi hơn 110 tuổi nếu còn sống, đã thấy bờ tre như thế khi còn năm sáu tuổi.

Chim trả (hay trảy, chim sả) màu xanh, kêu lét xét luôn mồm, lượn qua lượn lại như trêu chọc chúng tôi. Ná giương lên là chúng vụt bay ngay. Những con trâu nằm phơi trên bãi cát vàng óng ánh lấp xấp nước cũng có những chú chim nhỏ không rõ tên, vội vã đi qua lại trên người, hẳn để kiếm “mồi” là một vài con ve trên lớp da đen dày dính bùn của mình.

Tầm bắn rất gần nhưng chúng tôi không dám, đụng vào thân trâu không sao, nhỡ tay nghề quá thiện xạ, đạn trúng ngay vào mắt trâu thì tội nghiệp cho nó.
Nhưng cũng có khi “bắn” một vài “em dồng dộc” đang ríu ra ríu rít làm những chiếc tổ như những chiếc giày ống đong đưa trong gió. Nhưng thật ra thì chỉ thấy lông chim  bay lả tả, chim vừa kêu to vừa hốt hoảng bay.

Lúc đó chim nhiều hằng hà sa số, vô kể, một vài con số mạng đen đủi lắm mới thọ nạn dưới những chiếc ná thô sơ “hú họa” của chúng tôi.

Năm nay tôi ngoài lục tuần và những cây gạo không còn nữa; người ta đã cắt chúng  hầm lấy than, hay làm gì đó, để trống đất trồng bắp, trồng khoai những năm sau “giải phóng”, cái đói là thống soái. Những cây gạo có những bầy chim đậu, những chiếc hoa đỏ ối như mặt trời mùa hạ chẳng có ích lợi gì.

 Những bụi tre dọc bờ sông, gọi là tre làng vì là của tập thể dân làng trồng bao đời, không còn, trước, những mầm măng bị tha hồ bẻ, sau, thân tre người ta thi nhau chặt, cho bằng hết.

“Chống xói mòn chi bằng chống đói”, những gốc tre, những thân tre đã giúp dân làng kiếm chút tiền còm cõi, cho những ai “ra tay chặt trước”.
Những cây gạo, những bờ tre chỉ còn trong ký ức của những người con xa quê. Nói chi đến những chú chim, những bầy chim, những bông hoa gạo.

Súng săn xuất hiện, một phát là một sinh mạng rời cõi trần gian, và môi trường suy kiệt, những giống như chim trả, chim dồng dộc, chim cu, chim cưỡng, thậm chí đông dân như chim sẻ cũng không còn, hoặc còn rất ít, chúng đã lìa trần, chúng đã bỏ làng, bỏ quê hương, cả lũ con nít chúng tôi mà ra đi.

Tôi thấy người ta nhốt những con chim trong lồng bày bán ở trước cổng chùa mỗi khi có lễ lớn cho mục đích phóng sinh; để con người làm phước, để có dịp bày tỏ yêu thương, những con chim tội nghiệp trong lồng sẽ được sống nhờ tay họ trong khi số người khác, đồng loại của họ, đã ra tay tiêu diệt chúng ở những vùng như quê hương tôi.

Có những con chim bị bắt, bị giết chết, để có những con chim được thả, được sống là “văn hóa” của người Việt Nam chúng ta, và có phải là văn hóa của những dân tộc khác quanh ta không?

Những chiếc ná kia có lẽ cũng mang tội nhưng hẳn không nhiều bằng những khẩu súng, những hủy diệt con người đem lại cho môi trường sống của chính mình, đã giết lần mòn những cánh chim tự do ở quê hương tôi, trong tâm tưởng của những con người đau đáu hồn quê.

 

PHIM ĐẤT KHỔ, một ký ức về chiến tranh.

Thật may mắn cho con cháu chúng ta, không sống trong chiến tranh.  Ở lứa tuổi  tầm lục thập  như chúng tôi, chiến tranh vẫn còn là những ám ảnh khôn nguôi, mỗi dịp thấy lại, hay nghe lại những hình ảnh, những âm thanh của một cuộc chiến thảm khốc, đau thương trên quê hương nầy mấy chục năm trước.
 

Tình cờ xem được một phim (trên mạng) nói về chiến tranh, tên Đất Khổ, sản xuất năm 1972 ở miền Nam, (phụ đề tiếng Anh:Land of Sorrows) do đạo diễn Hà Thúc Cần dàn dựng với Trịnh Công Sơn đóng vai chính.
 

Ký ức chiến tranh lại hiện về, sâu nặng, và thật u hoài trong lòng tôi, một cậu bé rồi một thanh niên đã từng sống qua một thời gian ác liệt của đạn bom.
 

Trước nay, chúng ta, mỗi người VN thường nhìn cuộc chiến theo cái nhìn "địch, ta", "thắng, thua", "chính nghĩa, phi nghĩa", vân..vân..mà thường ít để ý chiến tranh là đau thương, là mất mát, là tàn phá, là chia rẽ, cho dân tộc, cho đất nước, cho mọi người VN chúng ta, trong quá khứ, hiện tại, và ngay cả tương lai.
 

Ở đây, tôi không nói đến nguyên do vì sao có chiến tranh mà chỉ nói đến đau khổ, tang thương, hủy diệt , chia rẽ  nó mang lại cho dân tộc này. Tâm thế đó mới giúp chúng ta xem bộ phim nầy bình tĩnh hơn, thấm thía hơn.
 

Cuốn phim rất hay. Nó không nói nói nhiều về bên nào nhưng chỉ nói về đau khổ, mất mát, về tình yêu gia đình, tình yêu trai gái, về sự khủng khiếp của chiến tranh Một  bà mẹ ôm đứa con chết quấn trong cái khăn, đã bốc mùi trên tay, vẫn nghĩ nó còn sống, vẫn ru cho nó ngủ trong một nhà thờ chứa đầy người hốt hoảng tránh đạn, bom.
 

Phim được chiếu ở thời VNCH chỉ 2 lần, và bị cấm lưu hành, vì nội dung bị cho là "phản chiến”. Nhưng phim cũng không được cho phổ biến ở VN hiện nay. Tôi không hiểu lý do vì sao.

 Cuốn phim rất sâu sắc, rất nhân văn, nói về một gia đình ở Huế, trong thảm trạng sắp đối mặt cận kề với cái chết, dưới họng súng của 2 bên tham chiến, có con cái người tham gia bên nầy, bên kia, và một số hình ảnh biểu tượng cảnh chiến tranh, có chỗ không phân biệt đâu là dàn dựng, đâu là sử dụng tư liệu thật của phóng viên chiến trường.
 

Phim có những người nổi tiếng đóng như Trịnh Công Sơn (vai chính), Bích Hợp, Kim Cương, Bạch Lý, nhà văn Sơn Nam và cả Thành Lộc (lúc đó chỉ 8 tuổi). Cảnh quay đa phần ở Huế, tình tiết phim xảy ra chầm chậm, hình ảnh tối , âm u, có chọn lọc, đẹp, phảng phất nhiều hình ảnh nên thơ của nông thôn đặc trưng của cố đô.
 

Chúng ta xem phim với tâm thế của người muốn biết về quá khứ đau thương của dân tộc, không xem phim để...oán trách, căm thù, hay để gây thêm chia rẽ.
 

Câu thoại cuối của người mẹ trong lúc chạy loạn, khi đứa con gái bị đạn chết, được chôn lấp sơ sài, nói với 2 con còn lại: "Về nhà, chúng ta không đi đâu cả, có chết, hãy về nhà mà chết".
 

Ngôi nhà quê hương, ngôi nhà của mẹ.  Ngôi nhà VN thật rộng mở, thật bao dung vững chãi, thật thấm đẫm tình người. Phim có đoạn làm cho chúng ta rơi nước mắt nhưng cuối cùng nó cũng làm chúng thở một hơi dài nhẹ nhõm: đã qua rồi chiến tranh.

 Một cảnh trong phim Đất Khổ.

NGÔN NGỮ GƯƠM GIÁO

Người dân Việt Nam vốn hiền hòa và thân thiện. Nhiều người nước ngoài du lịch tới VN đều có nhận xét chung như vậy. Nhưng nếu họ biết tiếng Việt và thỉnh thoảng vào mạng xã hội, có lẽ họ sẽ có thêm nhận xét quý giá  hơn.

Những hiện tượng “đặc biệt”, lâu lâu xảy ra trong xã hội, ta thấy bản chất hiền hòa và thân thiện lại “sứt mẻ” đôi chút, ví như mấy tháng trước, chuyện cải cách tiếng Việt hay mới đây, sự ra mặt của Hiệp hội nhà vệ sinh VN.

Trước một sự kiện, mọi người thể hiện quyền tự do ngôn luận là chính đáng.
Yêu hay ghét, tán đồng hay đả kích, chấp nhận hay phủ nhận, tất cả là đương nhiên. Nhưng khác biệt suy nghĩ, chưa nói đến khác biệt tư tưởng, đã gây ra khác biệt ngôn ngữ. Biểu đạt ý nghĩ con người thì ngôn ngữ nhận nhiệm vụ “thánh chiến” tha hồ “vung gươm chém giết” “đối phương”. Hình ảnh, cả thật lẫn giả (nhờ photoshop, AI) xuất hiện tràn lan, kèm theo những chú thích cay chua có sức bào mòn còn hơn axit.

“Ta” và “địch” xuất hiện, bắn vào nhau nếu vấn đề chia rẽ cư dân mạng thành 2 phe.  Hoặc với  nhà chức trách với những sơ sót điều hành hoặc non nớt ứng xử của một số quan chức luôn là “thớt bằm” cho sự chửi bới nồng độ cao, có khi thành phỉ báng.

Thay vì có những bài phân tích sâu sắc những khiếm khuyết, thậm chí sai trái của những quan chức như thế (và thật may là đã có những bài như vậy) thì cư dân thế giới ảo tuôn ra không biết bao nhiêu gạch đá và gươm giáo…Ví dụ có người tức tối một ông lãnh đạo mô đó đã “hạ” một câu : “cái thằng già đầu bạc”…thế nọ thế kia mà quên nghĩ rằng ông cố, ông nội, hoặc có khi ông cha của mình, tóc sẽ “xanh” mãi khi 100 tuổi sao, và bà nội bà ngoại của mình tóc không bao giờ bạc?

Cũng có kẻ chửi những người Việt “chống cộng” là bọn “ba que” hay /// khi tranh luận về vấn đề nào đó (có khi không phải của mình mà của người, chuyện “cuồng” Trump vừa qua, hay bầu cử giữa kỳ của đảng Cộng hòa và đảng Dân chủ ở Mỹ).
Người chửi hiểu rất rõ tiếng Việt có chữ “xỏ lá, ba que” và cũng rất rõ đó là cách gọi xách mé khinh bỉ lá cờ vàng ba vạch đỏ một thời của một chế độ, và cả triệu người chết vì lá cờ thiêng liêng đó của họ. Chỉ vì tức giận mà họ đã khơi dậy và khoét sâu một vết thương dân tộc cho đến bây giờ vẫn còn rỉ máu.

Quý vị có thấy như tôi thấy hay không: Qua ngôn ngữ, vẫn còn một cuộc “chiến tranh” thầm lặng diễn ra thường xuyên và muôn hình vạn trạng. Chiến tranh Nam  Bắc trong quá khứ (Trịnh Nguyễn) và vừa qua đã ảnh hưởng ngôn ngữ chúng ta rất nhiều.

Chúng ta sau ngày “giải phóng” đã từng nghe “bọn  biệt kích văn hóa” (một số nhà văn, nhà thơ ở chế độ VNCH), “bọn tư sản, mại bản”; “bọn Mỹ -Ngụy”, “bọn ngụy quân ngụy quyền” “liếm gót ngoại bang”…Thật may, trong bộ sử hai mươi mấy cuốn sắp phát hành ở Hà Nội, do cố giáo sư Phan Huy Lê chủ biên, những danh xưng “thù địch” như trên đã được xóa bỏ.

Ngôn ngữ đã được chính trị gắn cho nhiệm vụ như “chống cộng”, “chống ngoại xâm”, “đấu tranh giai cấp” quyết định “ai thắng ai” (Bâng khuâng đứng giữa hai dòng nước/Chọn một dòng hay để nước trôi - Tố Hữu).

Sau mấy mươi  năm im tiếng súng, sau mấy chục năm nhận ra không phải “đào mồ chôn” tư bản, mà phải để nó “đồng hành cùng dân tộc”, ngôn ngữ vẫn còn cõng trên vai nhiệm vụ chính trị lâu dài như vậy hay sao?

Đâu là ngôn ngữ hiền hòa, thân thiện vốn có của người Việt Nam? Kẻ thù chúng ta là dân trí kém. Kẻ thù chúng ta là làm mãi vẫn nghèo. Kẻ thù chúng ta là kẻ luôn luôn đe dọa chủ quyền dân tộc, lãnh thổ. Kẻ thù chúng ta không thể nào là người Việt Nam.

Vậy, tại sao mỗi ngày trên mạng chúng ta luôn sử dụng với nhau ngôn ngữ của gươm giáo mà không phải là ngôn ngữ của yêu thương? “Tình thương xóa bỏ hận thù”(Phật). “Ai chơi gươm sẽ chết vì gươm”(Chúa).

Hơn nửa thế kỷ trước, Phạm Duy viết “Tâm ca”, có điệp khúc “ Kẻ thù ta đâu có phải là người/ Giết người đi thì ta ở với ai?”. Không còn vang vọng đến ngày hôm nay trong lòng mỗi người chúng ta hay sao?

 

NHƯ CỨT và sự ra đời của Hiệp hội Nhà vệ sinh.

Lẽ đáng phải viết tắt từ trên thành “như c.”. nhưng sợ nhầm lẫn một từ cũng bắt đầu bằng "c," để gọi bộ phận truyền giống của quý ông, nên mạo muội ghi đủ ký tự như trên. Ngôn ngữ biểu tỏ tình cảm rất phong phú trong tiếng Việt. Hỉ, nộ, ái, ố, dục, lạc, bi…đủ thất tình.

Quay lại đề tài “như cứt”. Nếu để ý chúng ta sẽ thấy Bill Gates, tỷ phú giàu có nhất nhì thế giới, cầm một lọ đựng “cứt” trên tay khi giới thiệu bồn cầu không nước ở Trung Quốc mới đây. Tôi vừa đọc một chương (trên Viet-studies) có tựa đề cũng “chính trị” lắm “ Cuộc cách mạng cầu tiêu tự động” (The Robo-Toilet Revolution trong cuốn "The Big Necessity: The Unmentionable World of Human Waste and Why It Matters " ("Nhu cầu vĩ đại: Thế giới chất thải không được nhắc tới của con người và tại sao nó quan trọng") của nhà nghiên cứu người Anh Rose George).

Các hãng làm bồn cầu TOTO, Inax, Matsushita mang lại lợi nhuận khổng lồ cho nước Nhật. Riêng TOTO, năm 2006, thu về 4, 2 tỷ đô la Mỹ. (trên 96 ngàn tỷ tiền Việt). "Đại gia bồn cầu" Standard American Mỹ năm 2002, chả có lấy 1 tiến sĩ nghiên cứu bồn cầu (bây giờ có 5 vị) thì TOTO đã có 1500 kỹ sư và người nghiên cứu bồn cầu.

Bài viết có 1 sự kiện lý thú. Hơn sáu, bảy chục năm trước, Nhật là xứ sở đầy hố xí, thô sơ có lẽ hơn VN (cùng thời điểm, người Việt thường “giải quyết tâm sự” ngoài đồng không mông quạnh hay xuống sông vì đa số dân ở nông thôn. Tục ngữ: nhất quận công, nhì ỉa đồng).

Tác giả còn mô tả, người Nhật không dùng nước dội cầu, ngồi xổm, dùng giấy báo, đá cuội, hoặc gậy (papers, stone, sticks) để …lau sạch. Nhưng nay, họ xài bồn cầu cao cấp Washlet còn nhiều hơn máy vi tính (more Japanese households now have a Washlet than a computer).

Còn ở Việt Nam? Trừ những gia đình thành phố, ở nông thôn cầu tiêu có thống kê chưa? Bao nhiêu cầu tiêu đạt chuẩn vệ sinh? Bao nhiêu hộ chưa có nhà vệ sinh? Ở trường học đã có đủ nhà vệ sinh cho học sinh, sinh viên, đạt tiêu chuẩn vệ sinh? Hay là vào đó…nín thở giải quyết, vội vã chạy ra, tránh xa như tránh dịch?

Các bệnh viện thì sao? Tôi đã điều trị ở bịnh viện  Ung Bướu thành phố HCM  thời gian dài, cách đây nhiều năm. Đi vệ sinh, bệnh nhân phải xếp hàng, trên tay lủng lẳng những chai nước thuốc truyền mạch đưa cao, sợ vướng người xếp hàng chờ vào nhà vệ sinh. Cứt vung vãi, nước tiểu đọng vàng trên nền cầu…Thở cũng chết mà nín thở cũng chết.

Nhưng khi có một "hiệp hội nhà vệ sinh" ra đời là toàn dân…mạng xúm vào xỉa xói chửi bới cay độc.

Tôi có mấy suy nghĩ:
-Người dân vốn “ác cảm” với những hội nhà nước lập ra. Rất nhiều quan chức hưu trí đảm nhận chức vụ, điều hành. Hễ là…quan chức, dẫu cựu hay nguyên, cũng đều bị nghi ngờ “động cơ”, tại sao lại có thái độ như vậy?
-Hiệu quả hoạt động của các hội do nhà nước lập ra thế nào? Tại sao người dân lại thiếu niềm tin vào ý muốn tốt đẹp của chính quyền?
-Những hội như vậy có tốn tiền ngân sách không? Hay tự thu tự chi? Bộ máy có to lớn lắm không? Có lẽ không tốn mấy. Trước đây có ông nào ở hội nhà văn xin cho hội 1 chiếc xe hơi để đi lại thấy cũng tội nghiệp chớ.
- Những người “dân thường” có được quyền lập…hội hay chưa?

Và tại sao việc ra đời của hiệp hội nhà vệ sinh lại nhận búa rìu dư luận? Việc cải thiện cái ị của người dân không đáng được quan tâm như tỷ phú Bill Gates đã quan tâm đến "lọ cứt" ông ta cầm trên tay và chương trình nhân đạo phổ biến bồn cầu không dùng nước cho những người người nghèo trên thế giới?

 Có chỗ nào khác biệt giữa suy nghĩ của người Việt Nam và của người ngoại quốc (như Nhật, Mỹ) về cái “ỉa đái “(xin lỗi, gọi đúng tên) của người dân hay không? Hay tại vì niềm tin đã cạn kiệt nhiều nên sự ra đời của “hiệp hội nhà vệ sinh” với mục đích vốn “cao cả” lại bị bỉ bôi khinh rẻ? Không hiểu nổi.

Friday, October 24, 2025

TỰ SƯỚNG

Mỗi sáng, sau khi đọc tin tức, ghé vài trang web yêu thích, tôi thường lướt chút đỉnh Facebook, cho vui.

Sáng nay, trên timeline, chú Mark, ông chủ mạng nhắc:
 "Hi, Long (tên lót, tôi tên Chiến), bạn hãy tận hưởng những giây phút tự sướng ngày hôm nay đi". A, ông ngoại quốc này muốn nói selfie đây.

Nhưng người Việt ta cũng dùng từ "tự sướng" rất nhiều, thậm chí cây gắn phone chụp hình thì gọi " gậy tự sướng"(gậy nầy gợi nhớ gậy kia), nên Tây nó bắt chước theo, để nói "tự chụp hình".

“Ông nội tự sướng đi. Bà nội tự sướng đi." Nếu cháu nội mà nói với ông bà như vậy chắc sẽ bị đánh đòn nếu ông bà nghĩ ngợi "lôi thôi", khi nghe câu đó. "Tự sướng", nguyên là từ diễn tả động tác "thủ dâm", handsex bên cạnh oral sex (khẩu dục), và sex qua đường tình dục.

Tiếng Việt rất tinh tế trong biểu đạt và rất dễ nhầm lẫn nếu không phải chính người Việt nói với nhau. "Thằng chó, mầy chui đi đâu bấy lâu mà bây giờ mới chường  mặt ra" hoàn toàn thân mật khi hai người bạn thân lâu ngày gặp nhau. Nhưng bạn nói câu đó với một người thanh niên mới quen e rằng sẽ không còn răng ăn cơm, nhai thịt, vì đó là câu nói hết sức xúc phạm.

Chúng ta là một đất nước lắm có lắm "kẻ ngoại xâm", từ Mông, Tàu, Nhựt, Pháp rồi Mỹ. Ngôn ngữ được làm giàu rất nhiều nhờ diễn đạt những khái niệm, những   tên gọi, trước đó mình không có, do nền văn hóa, văn minh của mấy "đứa xâm lược" mang lại.

Không kể từ có gốc Hán, đầy dẫy, chỉ kể sơ Tây thôi nha: xì-gà để chỉ cigare (thuốc lá quấn), ga để chỉ gare (nhà ga), tăng xông (lên máu, lên huyết áp) để chỉ tension...Mỹ nha: Ô kê (Okey, OK) là được, tốt; Năm-bờ-oanh (number one) là nhất; meo là mail (thư), pót là post (đăng), chát (tám) là chat ; tút là status; phây là facebook (hổng phải pha-tê-bốc" đâu nghe)...

Và ngôn ngữ ta đã Việt hóa rất nhiều từ ngữ phương Tây để làm giàu tiếng Việt.

Tại sao các bạn trẻ không nói seo-phi, selfie, hay "tự chụp" mà nói "tự sướng", lũ già chúng tôi đỏ mặt ngượng ngùng quá.

Tôi sẽ ví dụ từ tự sướng cụ thể trong đoạn văn sau: "Phụ nữ bây giờ rất xinh, rất nhiều, đàn ông bây giờ đẹp trai, khỏe mạnh không thiếu, hai giới cũng rất cởi mở chuyện luyến ái, hãy tìm nhau mà yêu, tội chi mà "tự sướng" cho dễ sinh thói quen không tốt, và có thể gây bệnh tật". Quý bạn thấy sao?