Showing posts with label Đất nước và con người. Show all posts
Showing posts with label Đất nước và con người. Show all posts

Sunday, October 19, 2025

MÙI LÚA CHÍN

Hạt cơm chúng ta ăn mỗi ngày là từ hạt lúa. Người ta nói chuối chín, mít chín, ổi chín. Ít ai nói lúa chín. Cùng lắm là câu “lúa chín  cúi  đầu”. Chín trong ý nghĩa hoàn bích, trọn vẹn, đủ đầy. Người nông dân biết lúa chín. Họ biết mùi lúa chín. Không như tôi, họ cảm nhận mà không nói về mùi lúa chín. Cuộc đời họ, cuộc đời cây lúa, tuy hai mà một và tuy một mà hai.

Mùi lúa chín không hẳn là lúa mẩy hạt, sắp thu hoạch. Mùi lúa khi bông lúa mãn khai như mùi của người mẹ trẻ sắp sinh con. Mùi thiêng liêng tình mẹ. Đi qua những cánh đồng lúa bông bắt đầu nhú, gọi là trổ đòng, mùi lúa bắt đầu chín. Nếu để ý, chúng ta sẽ cảm nhận, lúa có những giai đoạn, có mùi thơm khác nhau.

Khi mạ cắm xuống đồng – ngày xưa- hay lúa gieo cao chừng một gang tay- như ngày nay- lúa có mùi mạ non. Mạ non là những cây lúa trẻ, có tên gọi nữa là má. Bắt má: gieo hạt xuống đất cho lúa nẩy mầm. Nhổ má khi đủ tuổi đặt xuống đồng. Mạ, má...Tại sao lúa con lại có tên của mẹ? Cây lúa là lẽ sống con người. Má, Mạ, Mẹ là chỗ sinh ra con người. Mạ non. Nhìn cánh đồng toàn mạ non, trong nắng mai, hay buổi chiều tà, gió làm gợn những con sóng mạ non. Nếu có sự mềm mại thì đó là sự mềm mại của mạ non. Mùi mạ non như mùi tóc của mẹ. Thoang thoảng, dìu dịu, nhè nhẹ. Tôi không thêu dệt. Quý vị hãy vui lòng bỏ ít thời gian đi qua vùng mạ non. Cái mùi tôi tả sẽ không bằng cái mùi quý vị cảm nhận.

Khi cây lúa chuyển qua thời phát triển, người nông dân gọi là lúa đương thì con gái. Gái đương thì xinh đẹp bao nhiêu thì cây lúa đương thì đẹp đẽ bấy nhiêu. Cây mạ non trở thành cô con gái. Lúc này, cây lúa cao như sợ không kịp cao. Thế là một mùi hương toát ra từ lúa đương thì. Mùi hương của người con gái đi vào tuổi xuân thì. Cây lúa là như thế.

Khi làm đòng, cây lúa như cô gái có chồng, bụng lúa tròn mẩy. Lúa mượt mà như da thịt người con gái hình thành một hài nhi trong dạ. Lúc này, lúa không tiết ra mùi hương. Lúa dành trọn hương hoa cho những hạt bông lúa tượng hình. “ Lúa chiêm lấp ló bên bờ. Hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên”. Khi khí trời tràn ngập, có mưa, có dông, lúa bung bông như người khai hoa nở nhụy.

Lúc này lúa sẽ có mùi như người mẹ vừa sinh con. Mồ hôi và sữa mẹ. Mùi của lúa trỗ bông. Từ đây, khi hạt bắt đầu tượng sữa, một chất lỏng trắng đục hình thành trong từng hạt lúa. Rồi lúa ngậm sữa mỗi ngày nhờ ánh sáng, nhờ khí trời, nhờ nuôi dưỡng của đất, tưới tắm của nước, những hạt lúa tròn trịa, giai đoạn mấy hạt. Lúc này, lúa có mùi không? Thưa có. Mùi lúa chín. Chiều nay, đi qua những cánh đồng, trên con đường quanh co – sao quê hương tôi, con đường luôn quanh co- tôi ngửi ra mùa lúa chín. Mấy chục năm trước, tôi không để ý, lúa chín lại có mùi như thế. Tuy không nhớ nhưng tôi thấy mùi lúa chín, nó quen thân quá, nó gần gũi quá, nó như là tuổi thơ của tôi.

Mùi lúa chín không giống mùi rạ- cây lúa đã cho hạt, phơi đầy đồng. Mùi lúa chín không như mùi rạ đốt đồng. Mùi lúa chín không như mùi mạ non. Nó là mùi của sự sống. Mùi của tương lai. Không có mùi lúa chín sẽ không có cơm ăn mỗi ngày. Mùi lúa chín không thơm như hoa hồng, không dịu như hoa lài, không nồng nàn như hoa ngọc lan. Mùi lúa chín chất phát, đơn sơ và giản dị.

Không hẳn là người từ vùng lúa mà tôi ca ngợi mùi lúa. Nhưng mỗi lần về quê vào mùa ruộng đồng phủ một màu xanh mướt, hai bên đường quê, kéo dài ngút mắt, tôi cảm nhận mùi cây lúa, từ khi còn non cho tới trưởng thành. Ngất ngây trong không gian thoang thoảng mùi lúa chín, tôi tự hỏi, mùi lúa có phải là mùi quê hương?

LẠI CHUYỆN CHIẾC CẦU

Nhân chuyện chiếc cầu, tản mạn về lịch sử.

Ở đời, cái gì mất mát thì được chú ý nhiều hơn còn nguyên vẹn. Chẳng hạn, chiếc cầu Hà Tân quê tôi, Thường Đức, Quảng Nam. Cơn lũ bất ngờ mùa hạ từ đầu nguồn đổ  xuống, giật sập một vày cầu. Và may mắn là dầm cầu (hộp) lại còn nguyên vẹn. Chính quyền xã (mới) Thượng Đức đã cho xe trục vớt dầm cầu đặt lại vị trí cũ sau khi gia cố mố cầu. Khi có người tìm hiểu cầu xây lúc nào mà vật liệu bao năm tháng vẫn “trơ gan cùng tuế nguyệt” thì chẳng có tư liệu nào hay vị trưởng lão nào nhớ chắc chắn thời gian cầu được xây.

Đối với quê tôi, chiếc cầu Hà Tân rất là quan trọng. Nó giúp cho sự đi lại dễ dàng của dân chúng sinh sống ở hai lưu vực sông chảy qua những vũng bồi màu mỡ. Chiếc cầu nối đôi bờ chia cách của con sông Kôn. (Khi làm bản đồ, nghe dân địa phương gọi sông con để phân biệt với sông cái, người Pháp bèn ghi thành sông Kôn, chứ không phải sông Côn, sông Con như nhiều người lầm tưởng).

Sau năm 1954, người ta qua lại con sông chỗ cầu bắc qua ngày nay bằng đò, đò bà Lại (còn gọi theo tên con là Hường). Vẫn còn dấu năm bảy chiếc trụ cầu bằng gỗ lim. Như vậy, để đi xe cam nhông lên đồn Hiên (huyện Đông Giang cũ) lính Pháp phải có cầu để đến đó. Và cầu Hà Tân bằng gỗ được làm từ thời Pháp thuộc, thời gian phải là trước 1945. Lý do suy đoán, năm 1945, lính Nhật đi xe nhà binh chở quân qua cầu này để lên đồn Hiên giải giáp quân Pháp đóng tại đây.

Có thể là chiếc cầu tạm bằng gỗ nên cấu trúc không bền bỉ như cầu sắt hay cầu bê tông. Thời gian xuất hiện và hư hỏng của chiếc cầu không có dấu ấn gì đối với những cư dân sống hai bên bờ sông, có lẽ, cầu chỉ dùng cho mục đích quân sự mà không phải dân sự; và rất ít xe như thế trước 1954 ở khu vực hẻo lánh này nên chiếc cầu gỗ chỉ làm tạm bợ, theo suy đoán của tôi.

Năm 1957 quận Thường Đức được thành lập gồm ba xã Lộc Bình, Lộc Vĩnh, Lộc Ninh và một vùng rộng lớn thuộc huyện Hiên và Giằng (huyện Đông Giang, Tây Giang, Nam Giang ngày nay). Hai huyện này thật ra bị “bỏ ngỏ” chẳng ai làm chủ. Thời Pháp có đồn Hiên, thời Mỹ có đồn An Điềm, hai căn cứ quân sự này phụ trách an ninh vùng rừng núi bạt ngàn, giáp giới với Lào.

Như vậy, với một đơn vị cấp quận thành lập thì việc xây cầu là cần thiết. Quốc lộ 14B thời Pháp do đó được củng cố. Lúc này xuất hiện cầu đúc Hà Tân và cầu sắt Lộc Ninh ( bắc qua sông Cái- sông Vu Gia chảy về Ái Nghĩa nhập với sông Thu Bồn, gọi là Giao Thủy, nay có cầu Giao Thủy). Thời điểm xây cầu Hà Tân chắc chắn là vào những năm trước 1958 vì năm 1959, tổng thống Ngô Đình Diệm đi kinh lý qua cầu này, từ Kon Tum, theo quốc lộ 14 B về Hội An (tỉnh lỵ Quảng Nam).

Người Việt chúng ta không có văn hóa bảo tồn. Chính vì vậy, lịch sử thường bị chắp vá theo ghi chép phi chính thống. Không có bộ phận lưu trữ quốc gia ngoại trừ của triều đình. Có quá nhiều thay đổi tầng lớp cai trị qua mỗi thời đại. Thời đại sau thường phá hủy những gì là “cơ  ngơi” của thời đại trước. Năm 1945, sự phá hủy “tàn tích phong kiến” như đình, chùa, miếu mạo, đền đài... là một ví dụ.

Quê tôi ở vùng heo hút sát với núi rừng không thoát khỏi thảm trạng chiến tranh. Chiến tranh tàn phá nhà cửa lẫn những kiến trúc tiền nhân, khi tổ tiên chúng tôi theo chúa Nguyễn vào Nam lập nghiệp. Lịch sử ngày nay nổi trội  là lịch sử chống Pháp, chống Mỹ tức lịch sử chiến tranh. Không có lịch sử xây dựng đất nước, quê hương, làng mạc. Những sắc phong của các vị vua triều Nguyễn lưu giữ ở những ngôi đình làng bị tiêu hủy trong thời gian “tiêu thổ kháng chiến”.  Lịch sử làng mạc do đó chỉ còn trong ký ức. Và ký ức sẽ đi theo những người chứng kiến lịch sử khi họ không còn sống.

Tôi chắc ít ai còn nhớ nhà thờ Trúc Hà (thật ra là Trước Hà) thuộc xã Thượng Đức (mới) xây dựng năm 1926, sau nhà thờ Ngọc Kinh (Lộc Vĩnh cũ) vài chục năm (bị đốt cháy bởi phong trào Cần Vương – bình Tây sát Tả). Chiếc cầu Trúc Hà xây cùng năm 1926 với một ngôi trường "sơ học" đầu tiên của vùng Lộc Thượng (có lẽ là thượng nguồn huyện Đại Lộc?). Sau đó, năm 1940, người Pháp lập trường Ecole de Đức Thượng một trường tiểu học đầu tiên vùng Thường Đức. Chiếc cầu Trúc Hà hiện vẫn còn nguyên cả dầm cầu đúc bị mìn giật sập trong chiến tranh. Chiếc cầu gãy nằm ẩn sâu dưới dòng khe cỏ cây bao phủ. Điều ngạc nhiên là không ai có thể đập nó ra để lấy sắt như những kiến trúc bê tông khác. Vì sắt Tây quá tốt?

Lịch sử chỉ còn trong ký ức và chỉ có trong ký ức. Đây là điều may mắn nhưng cũng là điều đáng buồn. Những người chứng kiến các sự kiện lịch sử của quê nhà tôi ngày một vắng bóng. Tôi ao ước chính quyền địa phương nên quan tâm về quá khứ của một vùng quê- Thượng Đức ngày nay- như đã quan tâm khôi phục chiếc cầu "quá khứ" vừa bị gãy.

MŨI NÉ

Đặt tên mới cho đơn vị hành chánh mới đang là đề tài nóng của xã hội. Ông cha ta đặt tên đất mới khi Nam tiến như thế nào? Ngoài yếu tố lịch sử, truyền thống, văn hóa, tiền nhân  đặt tên mới rất …thực tế- Mũi Né chẳng hạn. Hay Hòn Rơm.

Nhìn ảnh, quý vị hình dung tại sao doi đất nhô ra biển lại có cái tên rơm rạ như thế. Chắc chắn vùng cát biển này không hề trồng được lúa. Không lúa, làm gì có rạ, có rơm. Rơm là vì cây lúa phơi khô khốc y như màu cái doi đất này. Hòn Rơm là dải đất cỏ không mọc nổi huống hồ gì cây. Hình thù hòn đất rất giống đống rơm. Đặt Rơm cho hòn đất, tiền bối vào khai phá vùng đất cằn cỗi này để nhớ cây lúa quê nhà (đương nhiên ở Bắc).

Còn tại sao là né, Mũi Né. Xem hình chụp bằng điện thoại, quý vị không thể hình dung cái “mũi” này lại chia vùng vịnh yên tĩnh ở đây ra làm hai: Bãi Trước và Bãi Sau. Tôi không nhắc hai bãi biển nổi tiếng Vũng Tàu đâu nha. Mùa gió bấc (hay gió Bắc?) tàu thuyền đánh cá vào neo đậu ở vùng vịnh Bãi Trước. Mùa gió Nờm (Nồm) thì thuyền ghe đánh cá sẽ lục tục kéo về vùng vịnh Bãi Sau. Sao vất vả thế? Để tránh gió mạnh, gió bão. Tránh tức là cách gọi lịch sự của né. Né là nép vào, tìm sự chở che. Thế là mũi (doi đất nhọn đâm ra đại dương) có tên Mũi Né.

ĐÔNG HÀ.

Quảng Trị còn tên nhưng thành phố Đông Hà sẽ không còn là tỉnh lỵ. Trong chiến tranh, Quảng Trị là nơi chốn tang thương nhất. Cách đây hơn 30 năm, chợ Đông Hà thịnh vượng vô cùng khi hàng hoá từ Thái Lan chảy qua Lào đổ về đây hàng hàng lớp lớp. Từ đôi giày lính đến áo phi công ở đây đều có bán, tất nhiên giá phải tính bằng vàng. Kha khá thì người ta có thể sắm một đôi dép Lào để “đi cùng năm tháng”, gót mòn muốn lủng nhưng quai không đứt.

Thời oanh liệt nay còn đâu. Ngày chúa nhật vào chợ tôi có thể dễ dàng đếm mà không lộn số người đi chợ. Vắng vẻ là nét chính du mặt tiền quanh ngôi chợ rộng “hoành tráng” vẫn rực rỡ sắc màu của thứ kim loại quý nhất: vàng. Các chủ tiệm hoặc đắm mình lướt web hoặc lấy dũa ra bo lại móng  trên các ngón tay sáng đẹp như hoa. Thảng hoặc, có chủ tiệm vàng phe phẩy phất trần trên mặt kính sáng cho những hạt bụi cuối cùng bay đi. Một cái chợ to lớn nhưng số người mua thì không tương xứng. Hiếm có chợ bình thường nào trên đất nước này có nhiều cửa hàng bán vàng như ở đây. Mặt tiền không lẽ bỏ, tôi nghĩ, có lẽ là lý do của sự hiện diện nhiều như thế của các chủ tiệm vàng. Và, điều này là chỉ dấu cho sự phồn thịnh trước đây của một ngôi chợ ở một tỉnh nghèo miền Trung này?

Tuy nhiên, bên trong phía sâu, hàng hoá, rau trái, thịt cá phải nói là không thiếu thứ gì. Nổi bật là chuối chín với những quầy chuối cỡ như tôi không thể nhấc lên nổi: những quả chuối tròn to dài “như những quả chuối ngự”(Vũ Trọng Phụng). Đất vùng Lao Bảo là nơi trồng những giống chuối mốc (sứ) này. Một người dân ở đây giải thích. Ở Đồng Nai đất đỏ ba dan cũng có chuối trái lớn nhưng nhờ chăm bón chứ không nhờ thiên nhiên như ở đây.

Vòm chợ trong cùng.

Đập vào mắt người tham quan sinh hoạt chợ như tôi là các gian hàng bán đồ Thái, đồ Tàu, vải vóc, áo quần và các loại đồ gia dụng soong nồi chén bát, có lẽ là giá nào cũng có nhưng nổi bật nhất là hàng mỹ phẩm Thái Lan. Cửa khẩu qua Lào là nơi đổ về những mỹ phẩm vô cùng bắt mắt này?

Nhưng cách tiếp cận khách hàng chính là nét khá dễ thương ở các cô các chị bán hàng ở đây. Thấy chúng tôi lớ ngớ quan sát cổng chợ, một cô gái chừng qua ba mươi, áo quần đẹp đẽ, với nụ cười như là đã quen biết trước vội vã tiến về phía chúng tôi, và với giọng nói ấm áp: “Cô chú đưa máy cháu chụp giùm cho” khi tôi móc túi lấy ra điền password. Thế là mấy tấm hình chụp ưng ý.

Saturday, October 18, 2025

TRÂM

Nói đến trâm người ta thường nghĩ “trâm anh thế phiệt” hay “dòng dõi trâm anh”. Trâm ở đây, rất khác , là hạt trâm, hay hột trâm, nhưng thường là trái trâm. Nhìn ảnh, người ta tưởng trái trâm to như trái nho đen (của Mỹ). Nó chỉ to bằng đầu ngón út. Trâm có màu đen thẩm, vị ngọt, nhưng hơi chát. Ăn trâm, răng sẽ có màu tím, nhưng hết ăn, súc miệng, màu trắng của hàm răng đẹp sẽ như cũ.

Tôi chắc chắn hầu hết người Việt, kể cả lớn tuổi- thất thập trở lên- chưa bao giờ ăn trái trâm như chúng tôi ở vùng quê mà núi rừng là lẽ sống, là quê hương, là nơi chốn dung thân. Cây trâm to gấp mấy lần cây khế, có thể như cây xoài; cây ổi chỉ là đàn em của cây trâm. Trâm mọc tương đối nhiều ở các chân núi. Trâm ở rừng sâu sẽ cho gỗ, gỗ trâm. Trâm dọc triền núi thường cho trái. Chúng có thân không cao, không thẳng, nên chẳng ai muốn đốn để lấy gỗ làm nhà. Thế là trâm cho trái.

Ngày nay, kỹ thuật nông nghiệp phát triển, trái cây không là niềm ao ước và khao khát đối với trẻ con như chúng tôi 60 năm trước. Trâm là trái quý giá vô cùng. Sống với núi rừng, ông cha chúng tôi rất tôn trọng núi rừng. Chặt một cây to, quê Quảng Nam tôi, người đi rừng đều tỏ lòng thành kính, nếu có nhang (hương) thì thắp nhang, không có thì khấn vái, xin ông bà cho đốn cây. Trâm ở bìa rừng không ai được đốn nhưng chẳng ai muốn đốn: Trâm cho trái.

Ngần tuổi qua bảy mươi, tôi vẫn không nhớ trâm cho trái vào tháng mấy, mùa nào. Nhưng tôi nhớ hái hạt trâm vào những ngày đi bứt đót làm chổi quét nhà. Có lẽ là tháng giêng.

Ngày nay, trâm còn không? Dạ, không. “Núi rừng có điện thay sao” của ông Tố Hữu nhưng ở quê tôi, và có thể là mọi quê, tràm là sao, là “chủ đạo”. Tràm có cách phát âm như trâm nhưng tràm đau khổ hơn trâm. Trâm sống rất lâu và có lẽ mãi mãi trong ký ức của chúng tôi. Tràm thì ba hay bốn năm hóa kiếp một lần. Người ta đốt rừng để trồng tràm liên tục nhưng trâm thì không. Trâm chỉ đốn một lần và không còn hoá kiếp. Trâm chỉ sống trong ký ức mà thôi.

SUỐI NƯỚC NÓNG

Là tên của con suối thuộc làng Đoài Sơn (còn có tên Thái Sơn, Non Thái), xã Thượng Đức (Thường Đức trước đây). Suối nước rất nóng có thể luộc trứng, kể cả luộc gà. Ngày xưa, ông bà chúng tôi không thấy tác dụng của nước nóng như ngày nay. Ở miền Nam, địa danh du lịch nghỉ dưỡng nổi tiếng Bình Châu là nhờ có suối nước nóng. Bằng cách pha với nước thường ở nhiệt độ thích hợp, suối nước nóng ở đây mang lại nguồn thu phong phú: tắm bùn.

Ở quê tôi, suối Nước Nóng không có cái may mắn ấy. Chẳng có ai có ý tưởng khai thác nguồn nước khoáng vì nhiều lý do. Vị trí suối không nằm trên trục giao thông. Đi lại khó khăn. Trước đây, có doanh nhân khởi công nhưng không rõ lý do, công trình bỏ dở. Có 2 ngôi nhà ẩn mình dưới tán cây u tịch, vắng vẻ, bắt đầu hư hỏng.

Suối Nước Nóng hãy còn là nàng Bạch Tuyết nằm ngủ giữa rừng hoang, chưa may mắn gặp vị hoàng tử của lòng mình.

Thay vào đó là con suối ở gần. Nước rất mát. Thiên nhiên cho dòng nước mát lạnh bên dòng nước nóng, thật hài hoà.

Suối có dòng nước chảy quanh năm. Sông có thể đục vì mưa nhưng suối ở đây thì không. Trong veo. Cát và sỏi hiện ra như trong lồng kính chung quanh là nước. Suối có một vũng rộng, nước ngang nách, có thể bơi qua lại. Đặc biệt có 2 dòng nước xối mạnh như thác. Ngồi tựa lưng  bờ đá, hướng vào ngọn nước xối mạnh, nước vỗ lách bách vào lưng, khách cảm  giác phấn chấn, ta hay gọi là mát-xa trong các spa ở đô thị.

Đến chỗ này, người ta phải len qua các bụi cây hai bên lối đi mòn hẹp. Tất nhiên, khách chớ vội. Hãy đi chầm chậm, hít thở không khí trong lành của núi rừng, và lắng tai nghe đâu đó tiếng chim gọi bầy hay nhảy nhót vui tươi.

Ở quê, chỗ vui chơi không nhiều như ở phố. Thiên nhiên chính là chỗ nghỉ yên bình. Dù núi rừng không còn như xưa, suối Nước Nóng là một trong những niềm an ủi cuối cùng thiên nhiên mang lại. Các bạn trẻ hay đến tắm ở đây. Các anh chị sẽ có người trong đó sau này trở thành hoàng tử và đánh thức nàng Bạch Tuyết của làng Đoài Sơn, quê hương Thường Đức.

Sunday, September 15, 2024

Đau thương LÀNG NỦ

Đây là ngôi làng (thuộc tỉnh Lào Cai) xảy ra thảm họa đất chùi, sau bão Yagi, vùi lấp nhiều nạn nhân, hiện người dân, quân đội, vẫn còn đang nỗ lực tìm kiếm. Cảnh tượng đau thương. Nhiều gia đình chưa tìm ra xác thân nhân. Nỗi đau của thiên tai.

Những cái chết đau thương khiến tôi nhớ đến trận lụt năm Giáp Thìn ở Quảng Nam.

Ngày ấy, ở vùng rừng núi Quảng Nam, việc đi lại rất khó khăn. Đại hồng thuỷ xảy ra. Lũ quét cực mạnh quét sạch làng mạc. Dòng nước tàn ác kéo người theo dòng sông chảy như thác lũ, trôi ra biển. Biệt tăm. Nhà cửa cung số phận. Có người còn thấy những chiếc nhà gỗ rường nguyên vẹn, bên trên có người ngồi. Nhìn thấy và bất lực. Đất bùn gần nơi vỡ “bờ đê” Hòn Kẽm- Đá Dừng vùi lấp cả ngôi làng Đông An, Trung Phước. Vẫn còn ngôi miếu đơn sơ tưởng nhớ 1481 người chết, ở một làng. Chỉ còn 19 người sống sót trở về sau cơn lũ kinh hoàng.

Đồng bào trong thời gian bi thảm không có phương tiện nào cứu giúp họ. Ở những ngôi làng dọc theo lưu vực sông Thu Bồn, người dân càng khốn đốn không kém: đối phó vởi bão, lũ chưa từng có.

Hình ảnh đau thương về trận lụt năm Giáp Thìn rất hiếm, có thể nói không có, tại nơi xảy ra thảm hoạ. Vì là năm 1964, sau sụp đổ của nền đệ nhị cộng hòa, nhiều vùng xảy ra lụt lội bị “mất an ninh”, nghĩa là du kích bắt đầu xuất hiện. Những nhà báo ở thủ đô không thể đến “hiện trường” sau thảm họa.

Saturday, September 14, 2024

SẠT LỞ

Có hai nguyên nhân gây sạt lở đất chôn vùi mạng sống trong các cơn mưa lũ: từ thiên nhiên và từ con người. Nhưng, con người là “thủ phạm” chính trong các tai ương này.

Đọc tin, có thầy giáo đưa học sinh tránh sạt lở. Hai giờ sau, nhà nội trú, một số phòng học đổ sập. Không có thương vong. Một trưởng làng 32 tuổi dắt bà con của mình tránh sạt lở (không phải tránh lũ). Sau 3 ngày tưởng là mất tích, 112 người vẫn còn sống, trở về trong sự lo lắng của hàng triệu đồng bào cả nước dõi theo cơn lụt sau bão Yagi.

Tất cả bà con may mắn ấy đều sinh sống cạnh núi rừng. Rừng lẽ ra sẽ bảo bọc họ. Nhưng không. Rừng trở nên tàn nhẫn: sạt lở giết người.

Nhìn bức ảnh chụp ngôi làng ở Lào Cai nơi cả trăm người thoát chết, chúng ta thấy gì? Loang lổ. Những nơi sạt lở như những vết thương trên thân thể người mẹ Thiên Nhiên.

SỐNG CHUNG VỚI LŨ.

Lũ lụt xảy ra ở Trung bộ  có lẽ thường xuyên hơn ở Bắc bộ. Nhìn cách đối phó thiên tai của đồng bào ngoài đó, tôi có cảm giác, họ không quen thuộc thiên tai là mấy so với người miền Trung. Khi lũ lụt rút đi, bùn non ở rất nhiều nhà đóng dày đôi ba tấc. Họ không quen "dọn bùn non" như người Trung, cụ thể là Quảng Nam. Khi nước lụt mấp mé rút khỏi nhà, người ta dùng chỗi hoặc trang cào bùn non ra khỏi nhà, khỏi sân, nhờ nước "mang" đi. (Trang, trong chữ trang trải, dụng cụ bằng gỗ có cán dài. Đầu cán là mảnh gỗ mỏng trên 2 phân hình chữ nhật, rộng chừng 2 tấc, dài 5 đến 6 tấc, dùng để cào lúa thành đống). Lợi dụng nước chưa rút hẳn (ở Quảng Nam gọi là "dựt"). Nước lụt rút, nền nhà, nền sân sạch bóng.

Đó chỉ là mẹo nhỏ. Khi có dự báo mưa hoặc bão, người Trung khá bình tĩnh. Ngày xưa, không có dự báo thủy văn, ông bà chúng tôi "nhìn trời" mà đoán thời tiết. Chẳng hạn ở vùng chúng tôi ở. Nếu mưa to, trời vần vũ, mây đen kịt, tôi nói mùa mưa bão, cha ông chúng tôi bảo chẳng phải lo: Bạo phát, bạo tàn. Nếu mưa lâm râm nhiều ngày, trời thường xuyên u ám, nước trên sông tràn bờ, ruộng lúa ngập nước mưa, không sâu, không nhanh lắm,nhưng không thấy rút (dựt): Coi chừng. Đó là hiện tượng sắp có lụt lớn, lúc 12 tuổi, tôi đã chứng kiến, 1964- Giáp Thìn.

Quê tôi không nằm theo lưu vực sông Thu Bồn. Lụt năm Thìn không gây ra chết chóc nhiều. Những làng cùng trong huyện chịu thiệt hại rất nhiều. Những làng ấy ở hạ lưu. Làng chúng tôi ở vùng thượng lưu, sông Côn, một con sông nhỏ chảy vào sông Vu Gia, sau đó nhập vào sông Thu Bồn, nơi xảy ra thảm nạn. Chưa có thống thống kê nhưng có hàng chục ngàn người bỏ mạng năm Thìn.

Vì sao, lụt năm đó lại gây thảm trạng? Mưa dai dẳng cả chục ngày kèm gió như bão. Nước sông thường đón nước từ rừng chảy ra, từ tốn, điềm đạm. Rừng trước 1964 ở đầu nguồn Quảng Nam hầu như nguyên vẹn, không có dấu vết khai thác mãnh liệt của bàn tay con người. Rừng điều hòa nước mưa, không gây lũ lụt bất ngờ.

Thu Bồn, con sông dài, nhiều nơi uốn lượn, hai bên bờ là những ruộng dâu xanh ngát, nước trong xanh, chảy qua nhiều đoạn núi rừng hùng vĩ, không kém phần nên thơ và lãng mạn. Bùi Giáng là người đã tắm sông Thu Bồn từ nhỏ. Những vần thơ mượt mà phát xuất từ một làng nhỏ ven sông. Sông Thu như cô gái e ấp của quê hương xứ Quảng.

Bỗng dưng, cô gái hiền lành trở thành bà già ác độc. Sông Thu hóa sông Hồng, dữ dội. Sông Hồng là nỗi kinh hoàng của người dân Bắc bộ sống hai bên bờ sông. Giang Văn Minh ví dòng sông như máu. "Đồng trụ chí kim đài dĩ lục"(Cột đồng  đến nay rêu đã xanh),. Ông đối lại "Đằng giang tự cổ huyết do hồng". (Sông Bạch Đằng từ xưa máu còn đỏ). "Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt" (Ngã trụ đồng thì tiệt dân ta).

Vì sao hiền hòa bỗng trở nên ác độc, con sông Thu? Đầu nguồn con sông có hòn núi bên cạnh những dãy đá- như một con đê chắn nước. Nước mưa từ nguồn đổ xuống nếu lưu lượng quá lớn thì hòn núi, dãy đá này sẽ ngăn lại, cho nước chảy từ từ về hạ nguồn.

Hòn núi và dãy đá kế bên như cổng ngõ của dòng sông có tên là Hòn Kẽm- Đá Dừng. Núi không phải có kẽm nhưng cứng như sắt. Hòn Kẽm- Đá Dừng nằm án ngự trên chỗ uốn của con sông sừng sững đến nỗi có câu ca dao, tác giả có lẽ là một người con gái, vì duyên phận phải lấy chồng xa, thương cha nhớ mẹ nhưng lại đem tỏ bày cùng người yêu không duyên số (bậu). "Ngó lên Hòn Kẽm -Đá Dừng. Thương cha nhớ mẹ quá chừng bậu ơi".

Năm Giáp Thìn (1964) lịch sử ấy, Hòn Kẽm-Đá Dừng bị lở. Đá Dừng trốc gốc. Hòn Kẽm tan hoang. Nước như đại hồng thủy đổ vào Trung Phước (nay là Nông Sơn) cuốn phăng hàng trăm ngôi nhà, nhấn chìm hàng ngàn mạng sống. Hiện còn một miếu thờ nghe đâu trên 1800 người mất tích. Thân xác cuốn về biển cả.

Nước lũ nhiều, nước lũ mạnh làm lở mất Hòn Kẽm-Đá Dừng - Một bảo chứng của thiên nhiên điều hòa dòng nước lũ.

Những năm trước 1964, núi rừng nguyên sinh không có sự tàn phá của con người, tại sao Quảng Nam lại có trận đại hồng thủy, nhấn chìm không biết bao nhiêu làng mạc, cướp mất không biết bao nhiêu mạng người?

Thiên nhiên nổi giận ư? Không có lẽ. Ngày nay, nếu có thiên tai như bão lũ, người ta có thể quy tội con người hủy hoại thiên nhiên nên phải nhận hậu quả. Nhưng ngày tháng thanh bình ấy, tại sao thiên nhiên lại nổi giận với trận lụt năm thìn?

Hay là do chu kỳ vũ trụ chuyển vần là 60 năm? 1904 lụt lớn ở Nam kỳ. 1964 lụt lớn ở miền Trung. Nay 2024 lụt lớn ở Bắc kỳ.

Con người có thể tiên đoán được việc mình làm trong 10 năm, 20 năm, 30 năm hay lâu hơn nữa. Nhưng con người không thể tiên đoán thiên nhiên sẽ như thế nào vào ngày mai chứ chưa nói đến năm sau.

Vậy, tốt hơn hết, hãy sống hòa hợp với thiên nhiên. Như chuyện rất nhỏ tôi nói ở trên: dựa vào dòng nước rút để rửa bùn và tạt nó khỏi nhà. Nước lụt rút đi, sân nhà sạch bóng.

Monday, July 29, 2024

HỎA HOẠN

Hỏa hoạn là tai nạn giết người nhanh nhất và thảm khốc nhất. Vụ hỏa hoạn cướp đi mạng sống của 56 người tại thủ đô Hà Nội là nỗi đau không chỉ của thân nhân của những người đã mất. Nó là nỗi đau chung của chúng ta, những người Việt Nam. Vì sao?

Đây là chung cư ‘mini’. Tôi không hiểu chữ tiếng Anh này có phải là ‘nhỏ’ hay không. Chung cư nghe nói có trên 150 người ở. Số hộ hay số phòng là bao nhiêu, không nghe nói rõ. Báo Đời sống pháp luật (điện tử), ngày 15 tháng 9 năm 2023 cho biết Hà Nội có khoảng 2000 chung cư loại này đang hoạt động. Dù nhỏ, mini, chung cư cũng phải tuân thủ quy định xây dựng, trong đó, quan trọng nhất là phòng chống chữa cháy. Đây phải là điều kiện hàng đầu để bảo đảm an sinh của con người ở các thành phố lớn: Mạng sống.

Nhưng chung cư của ông Nghiêm Quang Minh – nghe đâu còn sở hữu nhiều chung cư ‘nhỏ’ khác- theo báo VTC (điện tử ngày 14 tháng 9), trích nguyên văn: “Các chung cư mini của bị can Minh đều nằm sâu trong ngõ nhỏ, cao vọt hơn so với các công trình lân cận và không có lối thoát hiểm, có nhiều biểu hiện vi phạm về trật tự xây dựng”.

Đọc thêm tít bài báo “ 'Ông trùm chung cư mini' Nghiêm Quang Minh vừa bị bắt là ai?”, chúng ta có cảm giác mọi tội lỗi ‘giết người’ đều đổ lên đầu người đàn ông này. Nhưng khi đọc câu trích trên của báo, các chi tiết: chung cư nằm sâu trong ngõ nhỏ, cao hơn các công trình lân cận, không có lỗi thoát hiểm, có nhiều biểu hiện vi phạm về trật tự xây dựng, chúng ta mới té ngữa. Ông trùm này ‘sao vô thiên vô pháp’

Nếu ở nông thôn, người ta có thể thông cảm; người nông dân xây nhà không xin giấy phép, hay có xin phép nhưng không tuân thủ quy định xây dựng nhà ở của nhà nước. Nhưng ở một thành phố lớn như thủ đô Hà Nội, cái ông Nghiêm Quang Minh này xây nhà chung cư như chỗ không người: Nghĩa là quá tệ hại, ‘bèo nhèo’, ;nguy hiểm',  như đoạn trích trong báo miêu tả, mà vẫn có người vô ở.

Hỏa hoạn xảy ra cướp 56 mạng người trong chung cư của ông ta không có ai liên quan? Nếu là chập điện vì bắt sai kỹ thuật, ông điện lực ở đâu? Nếu cháy vì các lý do khác, ông phòng chống cháy ở đâu? Nếu xây trong ngõ nhỏ - không đưa xe chữa cháy lớn vào nhanh chóng, không có lối thoát hiểm, để nhà báo “thả” một câu vô thưởng vô phạt “có nhiều biểu hiện vi phạm về trật tự xây dựng”, ông xây dựng ở đâu?

Bây giờ quy trách nhiệm thì khối người “chịu trách nhiệm” trong tai nạn thảm khốc này. Nhưng theo dư luận thì tất cả là do ‘thằng tội phạm’ Nghiêm Quang Minh. Báo cho biết ông ta sở hữu nhiều chung cư mini ở Hà Nội. Đứng về mặt xã hội, ông ta có công. Nếu tất cả nước này có những chung cư cao cấp như Vinhomes thì người dân nghèo hay thu nhập thấp đâu có phải mua nhà chung cư mini của ông ta, thiếu nhiều phương tiện bảo đảm an toàn, dẫn đến cái chết thương tâm của rất nhiều hộ gia đình, trong đó có hơn mười cháu bé ngây thơ vô tội. Với nhà ở chung cư  ‘giá phải chăng’ so với chung cư cao cấp, Nghiêm Quang Minh không có đóng góp nào cho xã hội hay sao? Tiền thu cao ngất từ chung cư của ông ta- nếu có- là vì người dân nghèo hay thu nhập trung bình ở Hà Nội không có lựa chọn nào khác, họ phải mua nhà ở ‘thiếu an toàn’ của ông ta. Nếu am hiểu và có lương tâm thì những những ai cấp phép xây dựng và kiểm tra sau khi đưa vào sử dụng chung cư phải đưa ra những quy chuẩn nghiêm ngặt – chí ít là về mặt phòng chống chữa cháy.

Thông thường người Việt chúng ta hay cư xử kiểu “mất bò mới lo làm chuồng”. Săp tới chắc chắn sẽ “siết chặt” quy định an toàn phòng chống chữa cháy những chung cư mini. Nhưng than ôi, chúng ta vừa mất người. Đau đớn lắm. Khi các đô thị ngày càng đông dân, hỏa hoạn phải là quan tâm hàng đầu của những nhà hoạch định chính sách xây dựng nhà ở.

Khi chưa có những chung cư cao cấp, hay nhà ở xã hội đầy đủ, nơi ấy, hệ thống báo cháy tiên tiến, chỗ ở tiện nghi, phương tiện phòng chống chữa cháy đầy đủ thì quý vị hãy chia sẻ trách nhiệm cùng với những người xây dựng chung cư mini. Đừng để tai nạn kinh hoàng xảy ra như hỏa hoạn đau đớn vừa qua rồi trách nhiệm đổ hết lên đầu họ. Nếu là người giàu có và khôn ngoan như Phạm Nhật Vượng, Nghiêm Quang Minh không mờ mắt vì tiền rồi xây dựng một chung cư mini không an toàn (mà giờ, "báo nói mới biết’ giữa thủ đô!) để bây giờ ông ta ngồi đếm lịch vì “vi phạm quy định an toàn gây hậu quả cực kỳ nghiêm trọng”.

Ảnh: Chung cư mi ni nơi  xảy ra hỏa hoạn làm 56 người tử nạn. Hà Nội.

Thursday, July 4, 2024

HÀNH PHƯƠNG NAM

Tôi là người Trung và tôi đã “hành phương Nam” gần nửa thế kỷ nay. Nhưng người Quảng Nam chúng tôi không có dấu ấn đáng kể nào ở…phương Nam. Nếu có, thì chỉ ’phảng phất’ chỗ ngã tư Bảy Hiền. Nội cái địa danh cũng đủ thấy đồng hương chúng tôi không ấn tượng mấy ở chỗ này. Những năm 1970, đến đây, quý vị sẽ ấn tượng nhất là tiếng kêu của những chiếc máy dệt. Ở Bảy Hiền, người Duy Xuyên (Quảng Nam) vô rất sớm và rất nhiều. Trồng dâu, nuôi tằm, dệt lụa ở Quảng Nam số một là vùng Duy Xuyên, và một phần của Đức Dục (tôi yêu tên cũ hơn mới). Các huyện này nằm dọc theo sông Thu Bồn, con sông đẹp nhất quê tôi. Ngã tư Bảy Hiền là dấu ấn của người Quảng Nam. Như tôi nói, dấu ấn không ấn tượng lắm ngoài chợ  Ba Hoa và Mì Quảng.

Nếu nói gây dấu ấn trong quá trình Hành Phương Nam phải thành thật công nhận chỉ có người miền Bắc. Tôi chắc chắn, không phải chỉ người Thanh Hoá sản sinh ra những người sau này là Chúa, chúa Nguyễn, nổi bậc nhất là Nguyễn Ánh.

Đi từ Biên Hoà về Đà Lạt, chúng ta sẽ thấy các địa danh như Bùi Chu, Phát Diệm, Trà Cổ… Ấy là các nơi hình thành thời người Bắc di cư- Công giáo rất nổi nét. Bảo Lộc, Di Linh, Đức Trọng…có dấu ấn người Bắc rất nhiều.

Nhưng dấu ấn thời trước 1975 không bằng dấu ấn sau đó khi người Bắc di cư “theo kế hoạch” vào Nam. Không nói dông dài, ở Lâm Đồng, dấu ấn đậm nhất là huyện Lâm Hà. Lâm có lẽ là Lâm Đồng. Hà có lẽ là Hà Nội.

Ảnh: Thông còn nhưng trơ trọi trên đỉnh núi.

Ngô Đình Diệm định cư người Bắc vào Nam ở những vùng trù phú nhưng thưa thớt dân cư. Sau 1975, cụ thể từ 1978, vùng khí hậu mát mẻ, đất đai màu mỡ, Lâm Hà là nơi sinh sống của những người Bắc di cư, có cái tên hay hơn “Kinh tế mới”.

Lâm Hà là một huyện nằm gần thị trấn Đức Trọng, cách phi trường Liên Khương chừng dưới 30 km. Ở đây, tôi chưa đi nhiều, nhưng dấu ấn người Bắc rất mạnh. Quý vị sẽ gặp các địa danh như Gia Lâm, Mê Linh, Hoài Đức, Đan Phượng, Phúc Thọ… nếu tôi không lầm, đó là những địa danh của hay gần Hà Nội.

Ấy là điều đương nhiên. Đến quê người mà giữ được tên quê nhà, đó là tâm tưởng của mọi người Việt Nam. “Từ lúc mang gươm đi mở cõi. Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long” (Huỳnh Văn Nghệ).

Nhưng tôi muốn nói chỗ này. Khi mở cõi, những người di cư này không mở cõi lại…đi phá cõi. Ngoài một số nơi người dân làm nhà để an cư lập nghiệp ở vùng đồng bằng, thì ở những nơi khác, đó là những cánh rừng thông bạt ngàn là nơi người dân “mở cõi”.  Khi hỏi những người đầu tiên sau 1978 ở đây, xã Mê Linh, tôi nghe kể, không có cọp, mà heo rừng, mển (mang) và nhiều thú rừng khác lẩn quẩn nơi người dân mở cõi.

Làm gì để sống? Nhà nước cho phép người dân phá rừng làm rẫy. Thông nhiều như vậy làm sao đốn hết để làm rẫy? Đốt than. À. Thời buổi khó khăn, đốt than là lẽ sống.

“ Chim quyên xuống đất ăn trùn

Anh hùng lỡ vận lên nguồn đốt than”.

Đốt giấy vàng mã tốn bao nhiêu cây. Huống hồ đốt than, rừng nào chịu nổi, dẫu đó là rừng thông. Nhưng cũng nhờ đói khổ, đốt cây rừng thành than cho mưu sinh, ngày nay, con người có thể làm nhà ở gần đỉnh núi. Đất rừng trụi lũi trở thành đất dân sinh. Người các nơi, thật ra là người Sài Gòn, đang đi tìm những mảnh đất nơi núi rừng cao ngất xây nhà nghỉ dưỡng, tránh cái nắng gay gắt đô thành. Có những ngôi nhà xây tựa vi la ở Đà Lạt nằm rải rác ở núi đồi xã Mê Linh. Những con đường bê tông có độ dốc cao (có thể là 30 độ) không là gì đối với xe máy, nói gì xe hơi.