Lời người dịch: Cuối bài, có lẽ tác giả bài viết hơi lạc quan, nhưng những biện pháp đưa ra sau chiến tranh với TQ là mong muốn đối với người VN. Những đoạn viết về sự chuẩn bị chiến tranh sát biên giới của TQ và mưu đồ chiếm phần lãnh thổ phía bắc VN, tuy chỉ là suy đoán, cũng rất đáng suy nghĩ.
Advice for Our Vietnamese Friends on China
Trung Quốc cứ lâu lâu xâm lược Việt Nam kể từ năm 111 trước Công nguyên. Người Việt từng có lịch sử lâu dài và anh dũng chống lại các cuộc xâm lược của người Tàu, bắt đầu từ cuộc khởi nghĩa của hai Bà Trưng vào năm 39, Công nguyên. Nhà lãnh đạo gần nhất lật đổ những kẻ đô hộ Trung Hoa là Lê Lợi, dẫn đầu cuộc khởi nghĩa chống lại triều đại nhà Minh vào năm 1428.
Trung Quốc tấn công lần nữa vào năm 1979. Bối cảnh cho tình huống đó là Khờ Me Đỏ ở Campuchia, giết hại một phần tư dân số của mình, lại đàn áp những kiều dân Việt Nam ở đó. Việt Nam đem quân qua Miên để ngăn chặn cuộc diệt chủng. Chế độ khát máu Pol Pot là chế độ Trung Quốc đỡ đầu và Trung Quốc không đành bỏ mặc họ. Vì vậy, Trung Quốc xâm lược Việt Nam để “dạy Việt Nam một bài học”. Lãnh tụ khi ấy là Đặng Tiểu Bình cũng muốn dùng chiến tranh để củng cố quyền kiểm soát quân đội của ông ta.
Trung Quốc tấn công, bị đánh tan tác, và rút quân sau vài tuần, thực hiện chủ trương đốt sạch, giết sạch trên đường rút về. Việt Nam dành những sư đoàn thiện chiến của họ để bảo vệ Hà Nội; thất bại của Trung Quốc lãnh chịu chính là vì không có hậu cần. Một trong những vấn nạn chính của TQ trong trận chiến đó là không có nhiều đường vận chuyển tiếp tế đến mặt trận.
TQ tiếp tục tấn công VN sau 1979 với những trận đánh lớn vào các năm 1980, 1981,1984 và 1987, khi Đặng Tiểu Bình luân phiên thay quân để binh lính có kinh nghiệm trận mạc. Những cuộc tấn công cuối cùng là vào năm 1989, đa phần bằng pháo binh. Ba chục năm trôi qua, những người Việt tiếp tục đến viếng những ngôi mộ của thân nhân mình chết vì cuộc xâm lược của TQ. Việt Nam có cảm nhận Trung Quốc đang chuẩn bị tấn công lần nữa. Bị mất thuận lợi bởi địa lý, lần này cũng có thể là một cung độ như hồi 1979. Một số sĩ quan quân đội Việt Nam tin rằng họ sẽ không sống nổi trong chiến tranh sắp tới (Some Vietnamese army officers believe they are going to die in the war to come).
Nay, chúng ta hãy xem xét tình hình từ cái nhìn về TQ. Mục tiêu tối hậu TQ muốn là bá chủ thế giới. Trở ngại lớn nhất của họ là Hoa Kỳ. Trong ngắn hạn, TQ muốn chiếm hai chuỗi đảo về hướng đông – những đảo bên trong từ Okinawa tới Philippines và những đảo bên ngoài mở rộng tận đảo Guam. Họ cũng muốn thâu tóm tất cả trên biển Đông và có khả năng loại trừ quân đội các nước không đến được đó. Đây là những mục tiêu trước mắt.
Để đạt đến mục đích đó, TQ đã xây bãi đáp trực thăng trên quần đảo Nanji sát bên quần đảo Senkaku của Nhật Bản, dùng để tiếp nhiên liệu cho trực thăng trên đường tấn công Senkaku.
Để xâm lược Việt Nam, TQ đã xây một căn cứ rộng lớn cách biên giới Việt Nam 10 km, nằm ở 24 o 24’ Bắc vĩ tuyến, 106 o 42’ Đông kinh tuyến, với những kho chứa và doanh trại rộng 50 mẫu có mái bên trên. Điều này nhằm để che giấu những đơn vị thiết giáp và pháo binh khỏi vệ tinh quan sát bằng cách di chuyển đến đây vào ban đêm. Họ cũng đã đặt những giàn pháo dọc biên giới. Một dặm về hướng đông bắc khu phức hợp quân sự, TQ xây 8 mẫu các tòa nhà dường như sẽ chứa các tên lửa đạn đạo tầm trung, triển khai đến biên giới khi sửa soạn cho một cuộc tấn công. Điều này giúp mở rộng tối đa tầm bắn xuống bờ biển Việt Nam. Nhớ đời bài học hậu cần năm 1979, TQ đang xây dựng một đường cao tốc 50 dặm Anh phía nam Sùng Tả lên thành phố sát biên giới VN Phổ Thủng (?) (Po Thiung). Hình ảnh từ vệ tinh Planet Labs cho biết đường cao tốc này chưa hoàn thành. Trung Quốc có lẽ không mở cuộc tấn công khi con đường này chưa làm xong.
Để so sánh, những hình ảnh vệ tinh bên trong đất liền qua eo biển Đài Loan không cho thấy bất cứ sự chuẩn bị nào cho một trận chiến với Đài Loan. Không có cái gì giống một giàn pháo hay điểm phóng tên lửa được hiển hiện. Và điều này được coi là một trận chiến khó khăn nhất đối với TQ. Tập Cận Bình, chủ tịch TQ, đã nói về chuyện Quân đội nhân dân TQ cần phải sẵn sàng lấy lại Đài Loan vào năm 2020 nhưng chẳng thấy có động thái nào để khẳng định bước tiến ấy. Nó cũng là bài võ xưa rích gọi là “hư chiêu”. Quân đội TQ sẽ phải dàn mỏng nếu họ muốn tấn công Đài Loan khi phải huy động cật lực để có một kết quả mỹ mãn. Đài Loan có thể không phải là lựa chọn của chiến tranh. Vì nếu tấn công không hiệu quả, họ buộc chỉ phải chờ. TQ chỉ có thể tấn công dàn ra-đa dày đặc trên núi Lạc Sơn, với khả năng quan sát tất cả hoạt động trên không sâu 5000 cây số vào đất liền TQ. Và chỉ có thế.
Những người Cộng sản Trung Hoa đang “mặc cả” (The Chicoms are selling their war) chiến tranh với dân chúng họ, như là cuộc chiến tranh của tộc Hán thượng đẳng – để “rửa hờn” cho những tội ác của Nhật Bản trong thế chiến thứ hai, tỏ ra mình có thể đánh bại được Mỹ và thiết lập sự giám sát đối với những dân tộc chư hầu (Untermenschen) của những nước ở về hướng nam.
Có hai lý do để TQ có lẽ sẽ tấn công VN trong một chiến tranh sắp xảy ra. Một là để quân đội (bộ binh) TQ có một vai trò trong cuộc chiến đem lại vinh quang nếu không thì vinh quang ấy sẽ thuộc về lực lượng hải quân và không quân. Hai là để ép buộc VN phải “nhả ra” (disgorge) 17 căn cứ trên biển Đông. Những quốc gia khác gồm Malaysia và Brunei cũng có căn cứ trên biển Đông nhưng chỉ VN là người bảo vệ dũng mãnh nhất (ferocious) lãnh thổ của họ. Lực lượng đổ bộ TQ có thể sẽ bầm dập (mauled) nặng nề trong nỗ lực chiếm giữ những căn cứ đó. Nếu TQ thành công trong việc đánh chiếm lãnh thổ ở miền Bắc VN, họ có thể khiến VN rút khỏi những căn cứ trên đảo để đổi lại việc trao trả lại lãnh thổ bị họ chiếm giữ.
Sự đe dọa xâm lăng của TQ đã có một số tác động tốt cho Việt Nam. Sự đe dọa đó đã khiến đảng Cộng sản VN mở cửa đất nước về mặt kinh tế để có một tiềm lực kinh tế lớn hơn nhằm có thể tránh đối đầu với TQ.
Một vấn nạn lớn cho TQ là những nạn nhân nhắm tới của họ sẽ đoàn kết một khi TQ phát động chiến tranh. Nhật Bản hiểu rằng mình phải thắng cuộc chiến này nếu không sẽ phải đối mặt với sự khuất phục TQ vĩnh viễn. Phương cách chống đỡ Nhật Bản trong cuộc xung đột này và giúp cho họ có thêm niềm tự tin là họ đã trả lại 331 kg Plutonium có thể chế vũ hạt nhân mà Obama ép họ phải nhượng bộ theo sự thúc dục của TQ. Vậy nên, TQ khó trở thành “kẻ thua xơ xác” và sẽ tấn công hạt nhân tiêu diệt các thành phố Nhật Bản nếu cuộc chiến trở nên tồi tệ đối với họ.
VN sẽ trở thành nước duy nhất ở phe Đồng Minh trong trận chiến chiếm lãnh thổ của TQ. Nếu VN càng giúp ích nhiều, sẵn lòng giúp ích, coi như giúp ích Hoa Kỳ trong trận chiến trên không, trên biển với TQ, khả năng nhiều hơn Hoa Kỳ sẽ đến giúp đỡ VN trong chiến tranh lãnh thổ. Điều này bao gồm việc duy trì bảo vệ trên không trong chiến trận và cung cấp những khí tài kỹ thuật cao để bẻ gãy cuộc tiến công của Trung cộng (Chicom): vũ khí chống tăng trực tiếp, hoặc thả từ trên không, đạn chùm bẻ gãy tấn công, hỏa tiễn điều khiển chống tăng, từ AT4 tới BGM-71 TOW của Raytheon. VN có thể đã chế tạo ra phiên bản hỏa tiễn điều khiển chống tăng Kornet của Nga, chứng minh rất hiệu quả ở Syria.
VN nên mời các sĩ quan cao cấp Hoa Kỳ tham quan những tỉnh tương lai xảy ra chiến trận như Lạng Sơn, Cao Bằng và Hà Giang. Nên để họ đầu tư suy nghĩ từng cá nhân cho sự phòng thủ của mình. Quân đội Hoa Kỳ nghĩ họ có thể bỏ lỡ một cuộc chiến tranh ở Thái Bình Dương. Sẽ không như thế, nếu họ có được những căn cứ đặt hỏa tiễn trên bờ biển Việt Nam và được tham vấn những cách tốt nhất để phá hủy đội quân trang bị xe bọc thép của Trung cộng. Hoa Kỳ sẽ biết ơn nếu được yêu cầu can dự. (They will be grateful to be asked to be involved).
Tân bộ trưởng quốc phòng Mỹ, ông Mark Esper đã nói ông muốn những hỏa tiễn đầu đạn tầm trung loại mới, tầm hoạt động ngoài 500km được triển khai ở châu Á “trong vài tháng”. Quân đội nói rằng họ muốn tham gia vào việc đánh chìm tàu với hệ thống hỏa tiễn đặt trên bờ. Có hai vị trí tốt cho những hỏa tiễn này: Quần đảo Palawan và Luzon của Philippines ở hướng đông biển Đông và bờ biển VN từ Cam Ranh tới Đà Nẵng. Đây sẽ thành “tử địa” (killing box) cho tàu bè và máy bay của TQ trên biển Đông.
Vịnh Cam Ranh cách từ 500 đến 750 km với chuỗi quần đảo Trường Sa, 6 nước tuyên bố chủ quyền gồm cả TQ, họ đã xây đắp các đảo nhân tạo gần đó. Đà Nẵng cách 400km căn cứ hải quân và không quân TQ ở Hoàng Sa; và cách 300km những căn cứ to lớn của TQ ở Hải Nam. Như cuộc tấn công mới đây ở Arabia Saudi cho thấy, có thể sẽ có đáp trả qua lại máy bay tự hành (drone), tên lửa hành trình cũng như tên lửa đạn đạo tầm trung, từ sự có mặt của TQ trên những quần đảo tranh chấp và từ bãi biển của Việt Nam.
Và khi chiến tranh kết thúc điều quan trọng sẽ là thiết lập những điều kiện cho một nền hòa bình lâu dài. Trước hết, Hoa Kỳ phải chiếm lấy những đảo nhân tạo của TQ ở biển Đông. Không bên nào được tham gia. Thứ hai, TQ phải thu hẹp trở vào theo biên giới của họ năm 1949 trước khi họ xâm lăng Tây Tạng và chiếm giữ một số vùng của Ấn Độ. Thứ ba, tất cả tài sản ngoài nước, kể cả những gì của công dân TQ ở nước ngoài, phải bị thu giữ để bồi thường chiến tranh. Thứ tư, tất cả những bẫy nợ của những nước trong kế hoạch Một vành đai một con đường phải bị hủy bỏ. Chiến tranh thương mại TQ thời hậu chiến nên được giảm thiểu. Người Trung Quốc chỉ sử dụng thương mại để tạo thành một “Đế chế quốc xã thứ ba” và lên kế hoạch một cuộc chinh phục khác. Trung Quốc có thể trở nên một khối sục sôi oán hờn nhưng đó là chuyện của họ. Họ phải được thức tỉnh không còn có ý niệm khởi động bất kỳ một cuộc chiến tranh nào lần nữa.
Chúng ta có thể nào biết chắc cuộc chiến tranh sắp tới đang hiển hiện, gạt qua chuyện cuộc chiến tranh tiếp đó? Bởi vì TQ đang miệt mài chọc tức Nhật Bản, như ghi nhận của bộ Ngoại giao Nhật trong biểu đồ bên dưới.
Các cuộc xâm phạm của TQ vào vùng biển Nhật Bản đã dần đi vào ổn định, đều đều, ở mức 12 lần mỗi tháng. Đây là biểu đồ nhịp đập của sự oán ghét và thù hận từ TQ. Cho tới khi những cuộc xâm phạm này giảm xuống zero, châu Á có chiến tranh rồi đó.
Bài của David Archibald trên American Thinker (ngày 27-9-19)