Nói đến trâm người ta thường nghĩ “trâm anh thế phiệt” hay “dòng dõi trâm anh”. Trâm ở đây, rất khác , là hạt trâm, hay hột trâm, nhưng thường là trái trâm. Nhìn ảnh, người ta tưởng trái trâm to như trái nho đen (của Mỹ). Nó chỉ to bằng đầu ngón út. Trâm có màu đen thẩm, vị ngọt, nhưng hơi chát. Ăn trâm, răng sẽ có màu tím, nhưng hết ăn, súc miệng, màu trắng của hàm răng đẹp sẽ như cũ.
Tôi chắc chắn hầu hết người Việt, kể cả lớn tuổi- thất thập trở lên- chưa bao giờ ăn trái trâm như chúng tôi ở vùng quê mà núi rừng là lẽ sống, là quê hương, là nơi chốn dung thân. Cây trâm to gấp mấy lần cây khế, có thể như cây xoài; cây ổi chỉ là đàn em của cây trâm. Trâm mọc tương đối nhiều ở các chân núi. Trâm ở rừng sâu sẽ cho gỗ, gỗ trâm. Trâm dọc triền núi thường cho trái. Chúng có thân không cao, không thẳng, nên chẳng ai muốn đốn để lấy gỗ làm nhà. Thế là trâm cho trái.
Ngày nay, kỹ thuật nông nghiệp phát triển, trái cây không là niềm ao ước và khao khát đối với trẻ con như chúng tôi 60 năm trước. Trâm là trái quý giá vô cùng. Sống với núi rừng, ông cha chúng tôi rất tôn trọng núi rừng. Chặt một cây to, quê Quảng Nam tôi, người đi rừng đều tỏ lòng thành kính, nếu có nhang (hương) thì thắp nhang, không có thì khấn vái, xin ông bà cho đốn cây. Trâm ở bìa rừng không ai được đốn nhưng chẳng ai muốn đốn: Trâm cho trái.
Ngần tuổi qua bảy mươi, tôi vẫn không nhớ trâm cho trái vào tháng mấy, mùa nào. Nhưng tôi nhớ hái hạt trâm vào những ngày đi bứt đót làm chổi quét nhà. Có lẽ là tháng giêng.
Ngày nay, trâm còn không? Dạ, không. “Núi rừng có điện thay sao” của ông Tố Hữu nhưng ở quê tôi, và có thể là mọi quê, tràm là sao, là “chủ đạo”. Tràm có cách phát âm như trâm nhưng tràm đau khổ hơn trâm. Trâm sống rất lâu và có lẽ mãi mãi trong ký ức của chúng tôi. Tràm thì ba hay bốn năm hóa kiếp một lần. Người ta đốt rừng để trồng tràm liên tục nhưng trâm thì không. Trâm chỉ đốn một lần và không còn hoá kiếp. Trâm chỉ sống trong ký ức mà thôi.



