Thursday, October 23, 2025

QUẢNG NAM HAY CÃI

Đây hình như là tên một cuốn sách hay bài báo,  tôi không rõ tác giả và cũng chưa được đọc vì vài lần vào tiệm sách hỏi mua mà không có. Tác giả không rõ là người Quảng Nam hay là người am hiểu Quảng Nam.  Đã thành cuốn sách hay bài nghiên cứu, chắc hẳn “hay cãi” cũng nổi tiếng ngang hàng hoặc hơn sự nổi tiếng của món Mỳ Quảng, ở Sài Gòn cũng như cả nước đều có bán.

 Hay cãi, đó là đặc điểm nổi bật của Quảng Nam mà tôi là người có nhau, có rốn đã chôn sâu ngoài đó. Hay cãi, bản chất nó xấu hay tốt, bàn sau, giờ chỉ nói qua lịch sử của nó, những danh nhân có “bản chất hay cãi” của Quảng Nam.

 Mọi người đều biết cụ Phan Châu Trinh là nhà chí sĩ Quảng Nam. Lúc hoạt động cách mạng chống thực dân Pháp, cụ là bạn chí thân với cụ Phan Bội Châu, người Nghệ An. Hai đường lối đấu tranh khác nhau; cụ Phan (Quảng Nam), chủ trương bất bạo động, cụ Phan (Nghệ An) chủ trương bạo động (lúc đầu), và chủ trương đánh Pháp dựa vào Nhật, lúc đó là “anh cả lùn” ở châu Á. Cụ Phan Châu Trinh viết bài “đả kích” quan điểm của cụ Phan Bội Châu dù biết bạn mình tất cả đều vì độc lập nước nhà. “ Bất vọng ngoại, vọng ngoại tắc ngu; bất bạo động, bạo động tắc tử” (không ỷ ngoại, ngu mới dựa nước ngoài; không bạo động, bạo động sẽ chết).

Cùng “đồng chí” mà không “nhất trí 100%” (như các đại hội chúng ta) mà đi “cãi” nhau. Phan Bội Châu không vì bị phê phán như “mạt sát”, tìm cách “chơi lại” Phan Châu Trinh, nhưng khi đồng chí mình mất, cụ khóc lóc thương tiếc khôn cùng, không vì tính “hay cãi” của bạn mà oán trách. Cụ thấy bạn mình “cãi quá đúng”, đến bây giờ cả 100 năm vẫn đúng, còn “thời sự”: ngu mới “dựa” nước ngoài, bạo động sẽ đổ máu.

 Về văn học, mọi người đều biết cụ Phan Khôi, nổi tiếng không phải bài thơ “Tình già” mở đầu phong trào thơ mới, mà những nghiên cứu học thuật, những bài báo có cái nhìn sắc sảo về mọi vấn đề, và là người đầu tiên tại Việt Nam dịch Kinh Thánh cho đạo Kitô.

Tính “hay cãi” của cụ như là đặc trưng thế mạnh cộng với đầu óc quãng bác khi phải sống với ngòi bút không mấy tự do dưới thời thực dân Pháp. Người bị cụ phê phán mạnh mẽ nhất là Phạm Quỳnh (bị thủ tiêu sau 1945, một lần với Ngô Đình Khôi anh ruột Ngô Đình Diệm, có con trai là nhạc sĩ Phạm Tuyên). Học giả Phạm Quỳnh là người rất uyên bác, nổi tiếng với câu “ Truyện Kiều còn, tiếng nước ta còn, tiếng nước ta còn thì nước ta còn” nhưng khi tranh luận (cãi, nôm na rứa) về những vấn đề học thuật, cụ cũng “chào thua” ông già Quảng Nam "hay cãi". Phan Khôi không gọi Phạm Quỳnh là học giả mà là học phiệt, vì ngoài làm báo, Phạm Quỳnh còn được người Pháp nể trọng, sau còn làm đến chức như thủ tướng chính phủ Bảo Đại.

“Hay cãi” là đức tính nếu “hay cãi” đó được soi sáng bởi trí tuệ, nhưng “hay cãi” vì tự ái, vì đố kỵ sẽ thành “cãi chày, cãi cối”.

Người Quảng nổi tiếng hiếu học, thông minh, có lẽ nhờ hay cãi, hay tìm tòi cái mới, không cam chịu cái cũ, cái lỗi thời chăng?

Hay cãi  còn là cách bảo vệ “ý muốn mình là chân lý” của người Quảng. Họ không tin bất cứ cái gì nếu họ chưa được tranh luận, hoặc tranh cãi, bắt bẻ vấn đề đó thấu đáo. Có “chết cũng cãi”. Tôi kể  một câu chuyện bạn bè người Nam hay diễu tôi khi có dịp, nhất là lúc bù khú, rượu vào lời ra. Họ hỏi tôi. “Mầy có biết vì sao quê mầy có nhiều liệt sĩ, nhiều bà mẹ VN anh hùng không?”.  Chưa kịp hiểu, họ nói tiếp: “Vì hay cãi, đó nghe mậy. Trong hầm bí mật có  ba chiến sĩ du kích núp tránh xe tăng Mỹ đang đi càn bên trên. Một người nhận xét: xe bọc thép. Người thứ hai cãi: xe thiết giáp. Người thứ 3 không chịu thua, cãi tiếp: xe tăng. Cả 3 tranh cãi bất phân thắng bại. Một người đề xuất: chi bằng mở nắp hầm, xem tận mắt, ai đúng ai sai. Và cả ba hy sinh khi Mỹ phát hiện và nã đạn”.

Họ kể xong rồi cười, dù câu chuyện này tôi dư biết, họ bịa ra để châm chọc tính hay cãi của tôi, người Quảng Nam. Họ đùa nhưng tôi suy nghĩ: Người Quảng Nam chúng tôi có truyền thống: vì sự thật, mạng sống cũng không màng.

 Hay cãi còn do có đầu óc nhận xét nhạy bén sự việc dưới nhiều cái nhìn của người đang nói chuyện. Mỗi người có tư duy riêng, khi có ai kết luận sự việc mà họ không thuận, mà đa phần là vậy, họ bắt đầu bày tỏ quan điểm của mình, vậy là “cãi bá cháy, cãi banh-ta-lông”. Nhưng người Quảng rất kiên định. Ít khi họ dung hòa quan điểm khi tranh cãi. Họ chỉ dừng tranh cãi khi có chuyện gì đó quan trọng như vợ họ gọi về để đi dự tiệc khác có dịp “cãi” đã hơn.

 Trong tất cả các buổi tiệc đông người, các bạn sẽ không được nghe hát, ngâm thơ, hay kể chuyện hề, chuyện tiếu lâm; các bạn sẽ được thưởng thức mỗi một thứ, đó là tiếng tranh luận, được gia cố cường độ cao vút, nhờ hơi men phò trợ, những đề tài trên trời dưới đất, trong nước thế giới, trong nhà ngoài phố, nghĩa là đủ mọi đề tài, nếu buổi tiệc đó chỉ có toàn người Quảng chúng tôi. Tuy không đến nỗi phải đôi co dẫn đến đánh nhau như những ông nghị Đài Loan bạn hay thấy trên TV, họ làm buổi tiệc hào hứng sôi nổi qua những đề tài đề cập tới với những màn tranh cãi không thôi. Tôi cũng là người Quảng Nam điển hình như thế.

Tuy nhiên, cái tốt nào cũng có giới hạn, nếu hay cãi là một tính tốt. “Cãi vừa phải” để buổi nói chuyện với bạn bè vui vẻ hòa nhã; “cãi đúng người”, không cãi lại cấp trên khi làm việc, có thể cản trở thăng tiến bản thân dù mình có tài năng; “cãi đúng việc” để công việc tốt hơn sau bàn luận; “cãi trí tuệ” nghĩa là phải chấp nhận người “cãi đúng”, không vì tự ái, (tau đâu thua mày), cãi tới bến, thiếu lòng khoan dung, và sự can đảm chấp nhận khác biệt tư tưởng. Không nên nghĩ rằng chỉ mình là chân lý, thiên hạ thì không, “mục hạ vô nhân”. Rồi tự mãn tính hay cãi của người Quảng mà hô khẩu hiệu “Tính hay cãi, vô địch, muôn năm”.

 Cãi để tìm chân lý. Cãi để chấp nhận khác biệt. Cãi để gia đình, xã hội, ngày một tôt hơn, thế nên: Quảng Nam hay cãi, không cãi không phải Quảng Nam.