Saturday, October 25, 2025

CHIẾC NÁ THUN

Sáng nay chạy xe qua ngã tư Bình Phước, Sài Gòn,  thấy có chiếc xe máy bán hàng, trong đó lủng lẳng những chiếc ná thun, với những cái gọng ná gỗ xinh xắn, bắt mắt. Ở thành phố sao cũng có bán ná thun. Có lẽ các vùng gần đó có cây cối và còn có chim chăng. Có người nói để bắn trộm. Chiếc ná thun nhắc nhớ những kỷ niệm thời thơ ấu vùng quê Thường Đức, Quảng Nam.

Tiểu học thời VNCH chỉ có 2 môn toán và văn, từ lớp 1 đến lớp 5 (tức lớp 5 đến lớp nhất). Thời gian đi bơi ở sông, bắn bi, hay lang thang từ làng này sang làng khác bắn chim là chính, học chỉ một buổi mỗi ngày. “Rảnh rỗi sinh nông nỗi”.
Chiếc ná lũ trẻ dây thun mỏng hơn, dễ kéo dãn  hơn, không như những chiếc ná mấy anh thanh niên có dây thun dày hơn, kéo nặng hơn, nên ba bốn ngày hay cả tuần không bắn được con chim nào là thông thường.

Những cây gạo cao vút, cành vươn ra xa khoảng trời xanh trong vắt, như thách thức các đám mây trắng đang “nghỉ nắng” trên cao, với những cánh hoa đỏ ối khắp cành; những cây gạo cao giữa những bãi đất bồi mênh mông dọc hai bờ sông chỉ dành nơi đáp cho chim cu, chim cưỡng, chim nhồng, chim sáo…những loài chim bay cao.

Thỉnh thoảng chúng hốt hoảng rập ràng bay lên khỏi những cành cây khi có đàn chim két xanh nguyên bầy bay tới mang theo đe dọa. Chúng quay trở lại khi lũ chim với những cặp mắt cú vọ, những chiếc mỏ nhọn hoắc kia bay đi.

 Chiếc ná thun cầm sẵn, “đạn” là những hòn sỏi tròn như viên bi lượm từ bờ cát ven sông, và chỉ làm cho một vài con chim trên cành cao, thảng thốt nhìn xuống, chả con nào sợ hãi mà bay đi: mấy tay ná “oắt con” lũ chúng tôi sao mà bắn cho tới nói chi cho trúng một con chim nào. Nhưng cũng nhiệt tình chăm chăm “nã đạn. Họa hoằn trúng một chú chim nào chăng. Chỉ khi hết “đạn” thì mới ngưng “nã ná”. Rồi lại rủ nhau chạy ra sông, lượm “đạn” tiếp. Và cứ thế những con đường làng lại in dấu những bàn chân bé nhỏ chúng tôi mỗi khi nghỉ học.


Chỉ những bụi tre mới là nơi “săn chim” của lũ trẻ chúng tôi, trồng đâu từ thời xửa thời xưa sát bãi ven sông chống xói mòn, bố tôi hơn 110 tuổi nếu còn sống, đã thấy bờ tre như thế khi còn năm sáu tuổi.

Chim trả (hay trảy, chim sả) màu xanh, kêu lét xét luôn mồm, lượn qua lượn lại như trêu chọc chúng tôi. Ná giương lên là chúng vụt bay ngay. Những con trâu nằm phơi trên bãi cát vàng óng ánh lấp xấp nước cũng có những chú chim nhỏ không rõ tên, vội vã đi qua lại trên người, hẳn để kiếm “mồi” là một vài con ve trên lớp da đen dày dính bùn của mình.

Tầm bắn rất gần nhưng chúng tôi không dám, đụng vào thân trâu không sao, nhỡ tay nghề quá thiện xạ, đạn trúng ngay vào mắt trâu thì tội nghiệp cho nó.
Nhưng cũng có khi “bắn” một vài “em dồng dộc” đang ríu ra ríu rít làm những chiếc tổ như những chiếc giày ống đong đưa trong gió. Nhưng thật ra thì chỉ thấy lông chim  bay lả tả, chim vừa kêu to vừa hốt hoảng bay.

Lúc đó chim nhiều hằng hà sa số, vô kể, một vài con số mạng đen đủi lắm mới thọ nạn dưới những chiếc ná thô sơ “hú họa” của chúng tôi.

Năm nay tôi ngoài lục tuần và những cây gạo không còn nữa; người ta đã cắt chúng  hầm lấy than, hay làm gì đó, để trống đất trồng bắp, trồng khoai những năm sau “giải phóng”, cái đói là thống soái. Những cây gạo có những bầy chim đậu, những chiếc hoa đỏ ối như mặt trời mùa hạ chẳng có ích lợi gì.

 Những bụi tre dọc bờ sông, gọi là tre làng vì là của tập thể dân làng trồng bao đời, không còn, trước, những mầm măng bị tha hồ bẻ, sau, thân tre người ta thi nhau chặt, cho bằng hết.

“Chống xói mòn chi bằng chống đói”, những gốc tre, những thân tre đã giúp dân làng kiếm chút tiền còm cõi, cho những ai “ra tay chặt trước”.
Những cây gạo, những bờ tre chỉ còn trong ký ức của những người con xa quê. Nói chi đến những chú chim, những bầy chim, những bông hoa gạo.

Súng săn xuất hiện, một phát là một sinh mạng rời cõi trần gian, và môi trường suy kiệt, những giống như chim trả, chim dồng dộc, chim cu, chim cưỡng, thậm chí đông dân như chim sẻ cũng không còn, hoặc còn rất ít, chúng đã lìa trần, chúng đã bỏ làng, bỏ quê hương, cả lũ con nít chúng tôi mà ra đi.

Tôi thấy người ta nhốt những con chim trong lồng bày bán ở trước cổng chùa mỗi khi có lễ lớn cho mục đích phóng sinh; để con người làm phước, để có dịp bày tỏ yêu thương, những con chim tội nghiệp trong lồng sẽ được sống nhờ tay họ trong khi số người khác, đồng loại của họ, đã ra tay tiêu diệt chúng ở những vùng như quê hương tôi.

Có những con chim bị bắt, bị giết chết, để có những con chim được thả, được sống là “văn hóa” của người Việt Nam chúng ta, và có phải là văn hóa của những dân tộc khác quanh ta không?

Những chiếc ná kia có lẽ cũng mang tội nhưng hẳn không nhiều bằng những khẩu súng, những hủy diệt con người đem lại cho môi trường sống của chính mình, đã giết lần mòn những cánh chim tự do ở quê hương tôi, trong tâm tưởng của những con người đau đáu hồn quê.