Thursday, October 23, 2025

CÔ GIÁO CỦA TÔI

Thực cũng đại ngôn một chút. Tôi không phải là học trò duy nhất được cô yêu mến lúc còn đi học tiếng Anh thời trung học, Trần Quý Cáp Hội An từ năm 1969.
Tôi chỉ đáng là học trò của học trò cô. Sau này vào Sài Gòn cô giảng dạy tiếng Anh cho các vị sư bằng cấp đầy mình.

Cô viết sách tiếng Anh như cuốn Buddhism through English reading, Phật giáo qua bài đọc tiếng Anh, và dịch nhiều sách Phật từ tiếng Anh sang tiếng Việt. Nhưng tôi vẫn coi là cô giáo của tôi vì tôi luôn kính trọng, yêu quý cô: cô đã cho tôi những bước chân vững chãi chuẩn bị vào đời.

 Hình ảnh của cô đối với học sinh chúng tôi đều ấn tượng như nhau. Cô xinh đẹp, cao ráo, quý phái, thông minh, đặc biệt là nghiêm nghị. Cô rất ít cười khi vào lớp nhưng khi cô cười chắc phải có cái gì đó vui lắm, cả lớp cũng phải cười. Nghiêm nghị nhưng không hề khắt khe. Chẳng bao giờ chúng tôi nghe cô to tiếng chứ đừng nói quát tháo học sinh dù không thiếu những thằng quậy phá. Giờ học của cô trôi qua rất nhanh, cô dạy rất hay. Mỗi tuần ba bận, chúng tôi luôn mong đến giờ dạy của cô.

Tại cô đẹp, quý phái nên bọn con trai vừa qua tuổi dậy thì luôn mong muốn được nhìn thấy một hình mẫu phụ nữ tuyệt vời như cô chúng tôi chăng? Suy nghĩ đường đột nhưng e có phần tha thứ được. Cạnh tôi có một bạn, tôi không tiện nêu tên, trên vở hắn toàn ghi tên Phương Lan, Phương Lan chi chít, đến nỗi tôi ái ngại nhắc nó chớ để cô thấy và đừng có nhìn cô chằm chặp như một kẻ si tình, cô biết thì chết. Mà nó chẳng chịu nghe. Trò yêu thầy, học sinh yêu cô giáo là có nhưng đối với đa phần chúng tôi, tình cảm " mông lung" đó chắc không có với cô, một con người cao quý chúng tôi luôn quý trọng.

 Chúng tôi yêu mến cô còn vì cô có hoàn cảnh mà lúc đó chúng tôi nghe phong thanh chứ không nghe đích thân cô kể. Cuộc sống tình cảm của cô chỉ còn dành cho mỗi cô con gái, nghe đâu cô ly thân, thỉnh thoảng cô dắt đến trường, tung tăng với bím tóc cài hoa vải đỏ, trong bộ đầm màu hồng nhạt, xinh xắn. Chồng cô là một bác sĩ giám đốc bệnh viện, tài năng bậc nhất về y tế lúc đó tại tỉnh Quảng Nam.

Nghĩ cô chúng tôi và vị bác sĩ đẹp trai, hào hoa kia sống ly thân, nên chúng tôi thấy...ghét ổng quá, "dám" làm cô chúng tôi đau khổ. Đến nỗi, mỗi lần có pháo kích ban đêm vào thành phố, người ta thấy ông bác sĩ " đáng ghét" kia lái xe jeep chạy khắp ngả đường chở người bị chết, bị thương về bệnh viện cấp cứu. Chúng tôi nghĩ: à, ông ta chắc theo...Việt cộng ( lúc đó chúng tôi rất sợ), chạy xe để chỉ điểm cho họ pháo kích đây. Yêu quý cô mà đâm ra ghét chồng cô, thiệt là suy nghĩ trẻ con. Ai mà đi dưới làn pháo đang nã bao giờ, chỉ vì lòng nhân đạo, muốn cứu người bị nạn kịp đến bệnh viện trong khi mọi cư dân thành phố đã yên vị dưới những bao cát chất thành hầm tránh đạn. Một hành động nghĩa hiệp hiếm có của một bác sĩ thời chiến tranh.

Lòng yêu mến cô càng sâu đậm khi sau này, chúng tôi biết thêm người con gái duy nhất của cô, đã về cùng cát bụi khi tuổi còn quá đỗi thanh xuân , nắm tro cốt gởi về một ngôi chùa xa xôi, vắng vẻ.

 Tôi áy náy đã nói đến đời tư của cô nhưng không thể không thương cảm khi nghĩ đến những nghịch cảnh cô phải trải qua.  Riêng tôi, tôi yêu mến cô còn một lẽ hoàn toàn cá nhân. Cô khuyên tôi trong 1 dịp, rất may được cô nói chuyện, vì cô hầu như không tiếp xúc với ai. Khi thấy tôi và một bạn học khá môn tiếng Anh, cô đã dặn tôi mấy điều, có lẽ cô nghĩ tôi và bạn ấy có thể theo nghiệp của cô sau này: sư phạm.  Và đúng là như vậy. Bạn tôi ra Huế còn tôi vào Sài Gòn, cả 2 đều đậu sư phạm " ngành huấn luyện giáo sư trung học đệ nhị cấp" (giáo viên cấp 3, dạy cấp nầy gọi là " giáo sư", lương tương đương phó quận trưởng thời đó).

Cô bảo tôi cố gắng tập nghe radio tiếng Anh( chương trình VOA Special English), và tập đọc sách tiếng Anh. Trời, tôi than thầm, mới lớp 10 mà nghe đài, đọc sách sao nổi. Radio thì có sẵn, (máy cassette rất hiếm, không dễ gì mua để luyện nghe) tôi lõm bõm tập nghe, rất mệt mỏi nhưng nghe cô khuyên cũng cố, dù tốc độ phát thanh chậm, và câu cú ngắn.

 Cô còn chỉ cho tôi cuốn The old man and the sea, (Ngư ông và biển cả) trong thư viện của trường. Tôi nghiền ngẫm cả tháng chưa xong, vì vừa đọc vừa đối chiếu bản dịch tiếng Việt chỗ nào không hiểu.

Mà thật, lúc vào đại học Sài Gòn, một học sinh tỉnh như tôi thi đậu vào cái lớp tiếng Anh duy nhất, non 40 người, toàn sinh viên ưu tú miền Nam thời đó, đa phần xuất thân từ trường Pháp, nói tiếng Anh cũng như gió như tiếng Pháp.

 Nhờ cô định hướng mà tôi có chút vốn vào lớp học, cả ngày không được nói tiếng Việt, học với các thầy tốt nghiệp tiến sĩ ở Mỹ, ở Anh, và ngay cả thầy người nước ngoài.  Các bạn tha thứ cho tôi hơi khoác lác chỗ này vì tôi muốn ghi nhớ một cô giáo mấy chục năm trước, đã dạy tôi một điều quý giá: tự học, làm một cái việc không hề dễ dàng cho 1 học sinh lớp 10" nghe đài, đọc sách" trong một thành phố " nhà quê" so với " đô thành Sài Gòn" dù bây giờ học sinh mẫu giáo cũng nghe và nói tiếng Anh trôi chảy, một việc rất hiếm thời đó, học sinh, thầy giáo chỉ "học chay", "dạy chay" vì chiến tranh.

Tôi không thành công như một số bạn, có đứa tiến sĩ, đứa hiệu phó đại học, đứa làm giám đốc sở, tỉnh ủy viên...Tôi thành công ở chỗ dù không phải "phó tiến sĩ" chỉ là "phó thường dân", luôn luôn tự học, suốt mấy chục năm rời trường, già vẫn học, đến con cháu cũng ngạc nhiên, cái môn mà cô giáo của tôi cô Trần Phương Lan đã động viên hơn nửa thế kỷ trước.

Đôi khi tôi tự hỏi: có phải vì yêu mến cô mà tôi yêu mến môn tiếng Anh hay không?  Chắc là cả hai.