Friday, October 24, 2025

TẤM HỌC BẠ CŨ

Mỗi lần soạn giấy tờ cũ ra xem là mỗi lần nhớ lại thời đi học. Cái học bạ giấy đã mềm được lấy ra đầu tiên. Năm đệ lục (lớp 7) học bạ không in thành cuốn mà thành tấm, trên giấy bản thô, màu vàng nhạt. Những ngày đi học ở trường Bồ Đề Hội An như lần lượt hiện về.

Năm 1965, quê tôi đã bắt đầu có tiếng súng. Những con đường làng, những cánh đồng xanh mướt, những bãi đất phù sa ven sông, đã bắt đầu in dấu chân của những người cầm súng. Ban ngày “quốc gia”, ban đêm “giải phóng”. Tôi phải rời khỏi làng quê nơi ông bà tổ tiên tôi từng sống hằng mấy trăm năm, sau một biến cố: bạn học cùng lớp nhất (lớp 5) đã bị bắn vào chân, máu me lênh láng ngay trước trường tiểu học nằm trong làng. Chiến tranh đã đến sân trường thân yêu của chúng tôi rồi.

Hội An, nơi tôi đặt chân đến, là một thành phố nhỏ, hiền hòa, tĩnh lặng. Những cư dân ở đây dù không biết hết tên nhau nhưng thấy nhau đều biết người kia ở chỗ nào. Nó “nhỏ” thế đó. Nhưng đó cũng là nơi rất lạ lẫm đối với tôi. Những ánh đèn điện, những con phố nhỏ, hai bên là những ngôi nhà thấp, be bé, rong rêu, những con hẻm hẹp dễ thương, nhưng cũng có những căn nhà dài, giáp đến 2 mặt tiền.Tôi hơi ngạc nhiên tại sao lại có những ao rau muống nằm xen kẽ các con đường nhựa, ngay trong thành phố.

“Học, con phải đi học, không thể bỏ dở”, cha tôi đã bảo như thế khi chia tay tôi trong một đêm tối trời,và khi sáng sớm tinh mơ hôm sau, mẹ tôi dắt tôi đi lặng lẽ trên con đường làng dẫn ra bến phà về Vĩnh Điện, rồi bắt xe đi Hội An, lúc này xe đò đã ngưng hoạt động một số đoạn vì mất an ninh.

“Ngôi trường” đầu tiên đón tôi là một hay hai phòng dừng vách bằng phên tre. Đó là những lớp học đầu tiên của trường Bồ Đề Hội An, nằm trong khuôn viên ngôi chùa lớn nhất tỉnh, chùa tỉnh hội (tức Pháp Bảo, ngày nay).

 Ngoài một số học sinh thi không đậu vào trường công lập, những lớp học trên, có lẽ tập hợp phần nhiều là những học sinh “tỵ nạn” từ các quận xa xôi, nơi đã bắt đầu có người chết vì bom, đạn. Họ là những cậu, cô gầy gò, đen sạm, ngỡ ngàng trước một “ngôi trường” dựng tạm mái tôn. Bên kia đường, xa một chút, ngôi trường chính đang cấp tập xây dựng trên nền ngôi chùa Bà Mụ  đã san bằng. Những giờ học đông nghẹt học sinh, ít nhất cũng trên  bảy  chục em nhưng không khí học hành không vì đông mà thiếu trật tự, có lẽ học trò chăm chỉ, hoặc có lẽ thầy cô dạy hay. Chắc là cả hai.

 Một thời gian không lâu, chúng tôi được chuyển về trường mới. Tại đây, các lớp học quy củ hơn. Trường có 3 tầng, một trệt và 2 lầu. Học sinh nam đi cầu thang bên phải, học sinh nữ đi cầu thang bên trái. Nhà trường sợ đi chung, các học sinh nam dễ chọc ghẹo học sinh nữ chăng? Trước khi vào lớp, học sinh phải xếp hàng, lần lượt đi theo thứ tự từng khối lớp. Thời đó mới chỉ có 4 cấp học từ đệ thất đến đệ tứ và chia làm 2 ban Anh văn, Pháp văn ở mỗi bậc học.

 Bồ Đề có lẽ là trường tư duy nhất được xây dựng đầu tiên và quy mô lớn nhất ở tỉnh lỵ (nay thành phố) Hội An thời đó. Lúc chiến tranh bắt đầu ác liệt, các vị sư ở chùa tỉnh hội đã nghĩ đến việc học của các em học sinh, vừa từ các quận lỵ đổ về, vừa giải quyết việc học cho một số học sinh không vào được trường trung học công lập duy nhất là Trần Quý Cáp. Các vị sư không nghĩ đến việc kinh doanh giáo dục lúc ấy. Nếu không có trường này, có lẽ nhiều học sinh tuổi chúng tôi lúc đó sẽ phải thất học, số phận thế nào khi bước vào đời với cái đầu không “chữ”. Những vị sư ấy bây giờ hầu hết đều đã thành người thiên cổ.

 Trên học bạ, hiệu trưởng ký tên là thầy Lê Ấm (có vợ là con cụ Phan Chu Trinh), cả bốn năm, chúng tôi không hề một lần thấy thầy, vậy mà thầy đứng ra lãnh nhận một trách nhiệm quan trọng là lãnh đạo một ngôi trường mấy trăm học sinh, mấy chục thầy cô giáo, và tin tưởng hoàn toàn vào sự điều hành, dẫn dắt về giáo dục của những vị trực tiếp làm “hiệu trưởng” như đại đức Thích Như Huệ, hay thay mặt hiệu trưởng như đại đức Thích Chơn Phát, hay thầy Nguyễn Đình Hiến thời tôi học. Các thầy đa phần từ trường Trần Quý Cáp danh tiếng qua dạy chúng tôi. Chương trình học nhẹ nhàng. Chúng tôi có nhiều thời gian đi chơi, tụ họp, dắt nhau đi ăn chè bắp, bánh tráng đập chấm mắm, đá banh, hay qua bên kia Cẩm Nam để tắm sông.

 Thầy cô thì nhiều, mấy chục năm không nhớ hết, nhưng những vị chúng tôi còn nhớ vì có những tiết học “đầy kỷ niệm”. Một trong số vị có thầy Lê Chương. Ông cao người, miệng rộng, mắt lé (con xin lỗi thầy), dạy môn Anh văn lớp đệ lục. Mỗi lần thầy vào lớp, học sinh chúng tôi lên ruột, nhiều trò than đau tim (như bạn tôi Mai Cúc, đã mất vì chiến tranh, hay Tôn Thất Chuẩn, bỏ mình trên biển cả, hay Đỗ Ngọc Thanh đang lưu lạc ở Úc châu thì cả lớp im phăng phắc, không nghe cả tiếng ruồi bay, một sự trọng đại sắp xảy ra: dò bài.

Thầy đi từ đầu lớp đến cuối lớp, mắt trừng trừng nhìn lũ chúng tôi, đang run rẩy như những con cừu sắp bị mổ thịt. Thầy nhìn bàn đầu nhưng chúng tôi cứ tưởng thầy nhìn bàn cuối. Thằng nào đây, chắc là mình quá, chúng tôi vô cùng sợ hãi, dù đã cố học thuộc những từ mới một ngày hôm trước.

A, em này. Thầy chỉ vào một học sinh đang hí hửng cười, hắn tưởng thầy đang nhìn chỗ khác. Nhìn hắn đi thất thểu thì biết tỏng cu cậu chả thuộc bài. “Zero, về chỗ ngồi”, thầy quát to. Sau này, khi tôi vào sư phạm, người ta có khuynh hướng không chọn sinh viên khuyết tật làm thầy giáo nhưng thuở đó thầy giáo rất hiếm, nhất là thầy dạy Anh văn. Thầy ơi, cũng nhờ thầy mà tụi con hiểu rằng, muốn học giỏi thì phải miệt mài đèn sách, không thể không học bài mà giỏi cho được.

Lớp chúng tôi còn có học với cô Tống Nữ Mộng Hoa, đúng như tên gọi, cô xinh đẹp, quý phái, cắt tóc mái, ngã qua một bên. Cô đi dạy bằng xe máy (thời đó, 1 chiếc Honda nữ cô đi khoảng 6 cây vàng). Cô phụ trách môn Anh văn, nhưng mỗi khi vào lớp, trước khi dò bài là màn kiểm tra vệ sinh…bàn tay chúng tôi. Em nào để móng dài kể cả nữ đều được răn đe “lần sau cô còn thấy sẽ đi ra khỏi lớp” (nhưng cô chẳng đuổi một ai vì chúng tôi đều chấp hành dù hồi đó rất hiếm có bấm móng tay, thường cắt bằng dao bén). Để móng tay dài cáu bẩn, vi trùng bám đầy, mất vệ sinh khi ăn uống. Cô nói như thế, có lẽ cô cũng biết chúng tôi, nhất là các bạn nữ, là chúa ăn vặt. Nghe đâu cô hiện giờ đang ở Mỹ với gia đình.

Về môn sử, thầy Ngô Văn Lạng có cách dạy hấp dẫn, liên hệ những gì trong sử ở quá khứ với những việc xảy ra hiện tại, làm môn này gần gũi cuộc sống học sinh. Chúng tôi thích môn sử cũng là nhờ thầy. Ông chỉ cho chúng tôi một bức ảnh không biết ở sách giáo khoa lớp nào, chụp chùa Bà Mụ, làm biểu tượng khi nói về Hội An, một thương cảng một thời sầm uất, chứ không phải Chùa Cầu. Cũng may hiện còn tam quan ngôi chùa, chứ không thì một biểu tượng lâu đời như thế không ai nhớ tới.

 Trong những năm về sau, được học nhiều thầy, cô, và nhờ học cũng được, tôi là một trong những học sinh làm “sơ- mi” cho lớp, tức sắp xếp bài tập đã có điểm thầy cho, lên danh sách, sắp xếp thứ tự từ học sinh có điểm nhiều xuống điểm ít.

Việc học hành không hề chú trọng thành tích, từ ban giám hiệu, đến thầy cô, và chúng tôi, không biết đến xếp hạng giỏi, khá, hay trung bình như bây giờ. Những học sinh giỏi từ hạng nhất đến hạng ba tháng nào đều được giảm, hoặc miễn học phí tháng đó. Cuối năm đệ tứ, những học sinh xuất sắc được chuyển qua trường Trần Quý Cáp tiếp tục cấp 3. Học có tranh đua nhưng không ganh đua, kèn cựa thứ bậc, hay cậy cha mẹ nhờ vả thầy cô cho điểm cao để được vinh danh trước lớp, trước trường. Điều tưởng đơn giản này đã giúp chúng tôi lớn lên vào đời luôn tâm niệm không lấy vinh hoa làm lý tưởng.

 Học sinh chúng tôi, ngoài giờ học, thỉnh thoảng được tham gia công tác xã hội: Khi có lụt lội, thầy, cô, nhất là các sư, chú tiểu ở chùa tỉnh hội và các chùa quanh Hội An, cùng chúng tôi đến những chỗ bà con “chạy lụt”, như giúp bồng trẻ, khuân phụ áo quần, hay phát thức ăn của nhà từ thiện cho những người rời khỏi vùng đang ở, đến thành phố để tránh lụt. Hoặc cá biệt cũng có bạn còn đi chỗ này, chỗ nọ xa hơn thành phố, trợ giúp những người trong vùng chiến sự, cũng có bạn vì vậy mà bị thương hay bỏ mạng vì “tên bay, đạn lạc”.

Cũng có những dịp vui, nhất là những buổi cắm trại nhân những ngày lễ như Phật đản, dù thành phố lúc ấy chiến tranh vẫn rình rập trên đầu người dân mỗi ngày. Thức cả đêm hò hát, tham gia các trò chơi của các anh trong “gia đình phật tử” hướng dẫn.

Ngoài dã ngoại, chúng tôi còn được học nhạc, vẽ, thể thao thể dục, và “giáo lý”(vì là trường của Phật giáo) từ rất sớm. Thầy La Gia Đinh tai điếc nhưng có tài thẩm âm rất tốt. Thầy kéo violon rất điệu nghệ. Thầy La Gia Ấm dạy nhạc, dạy cả vẽ. Tôi có một bức vẽ bằng bút chì đen về một cái ấm tích, được các bạn chọn dán vào tường trong lớp. Chính việc đó đã khuyến khích học sinh rất nhiều hơn cả những giấy khen.

Thầy Lê Viết Tú, mang kính cận rất nặng, dạy vạn vật. Thầy rất hiền, và vì cận nặng, những đứa học không thuộc bài ở cuối lớp thường cười nhìn chúng tôi ngồi ở những bàn đầu lớp, thường xuyên bị dò bài, có lẽ thầy chỉ nhìn thấy học sinh ở gần hay chăng?

Ấn tượng nhất về môn toán của thầy Võ Văn Kế (nghe đâu thầy còn khỏe), “mình hạc xương mai”, nước da rất trắng, miệng rộng, môi đỏ như con gái. Dạy học không cầm gì ngoài viên phấn. “Định  luật ‘vovanke’ đây, các em nên học thuộc để nhớ những công thức toán rắc rối nghe”. Thầy viết thành câu có vần, chẳng hạn, “sin đối huyền, cosin kề huyền. Tang đối huyền cô tang kề đối”, cho đến bây giờ tôi cũng không hiểu có phải đó là cách để tính cái gì đó với tam giác vuông, hay tam giác (quái) nào đó. Nhưng câu có vần về công thức toán của thầy tôi vẫn nhớ dù mấy chục năm sau, không rõ đúng sai. Chính sự hài hước, vui vẻ của thầy đã làm môn học khô khan như toán thành ra hấp dẫn.

 Một trong những vị thầy đức độ, hiền hòa, tôi không hề thấy quát tháo, la mắng dù bất kỳ học sinh nào trong 4 năm tôi được học lớp thầy, đó là thầy Võ Văn Mạo. Người thầy bị kiễng nhẹ ở chân, ăn mặc hơi tuềnh toàng, có phần luộm thuộm, áo lúc nào cũng bỏ vào thùng nhưng xốc xếch, tóc chải qua loa, miệng, mắt luôn cười, sau đôi kính. Kiến thức thầy uyên bác.

Bắt đầu lớp đệ lục (lớp 7) chúng tôi được hướng dẫn môn “thuyết trình”, tức là viết bài nhận định, đánh giá, trình bày trước lớp, trả lời các câu hỏi của lớp, của thầy nêu ra, về tác phẩm văn học như Hồn bướm mơ tiên, chẳng hạn. Chính cách hướng dẫn này, lần đầu tiên lũ học sinh viết câu văn chưa chỉnh, đã làm cái việc của một “nghiên cứu sinh” và nhất là dạn dĩ phát biểu trước đám đông. Thầy giảng môn văn thì rất thu hút, thỉnh thoảng pha trò, cả lớp cười vang. Lúc giảng về Thúy Kiều bị Sở Khanh dụ dỗ tước đi trinh tiết, thầy cười: “Thằng chả  đã ‘dớt cái nước nhứt’ đời con gái của cô Kiều”.

Có lần, thầy quên kéo phéc mơ tuya, lòi màu vải quần đùi bên trong, bệ vệ bước vào lớp. Chúng tôi cười ồ ngó vào chỗ đó. Thầy ngạc nhiên, ngó xuống, cũng cười, còn to hơn chúng tôi .“Thỉnh thoảng cũng cho ‘nó’ tự do chút đỉnh chứ đóng cửa mãi cũng tội”, rồi thầy vui vẻ kéo phẹt-mơ-tuya  lên, nụ cười hiền hòa.

Năm Mậu Thân, nhà thầy (gần Miễu ông Cọp) bị cháy sạch vì bom napalm; thầy tiếc nhất những cuốn sách tích cóp mấy chục năm dạy học đã biến thành tro. Lúc đi dạy sau thời gian nghỉ vì chiến trận, thầy vào trường, vừa cười vừa thông báo “các em tặng thiệp chúc tết (hình nổi rất hiếm thời đó) có 3 quả trứng đang nở ra 3 con gà con rất dễ thương đã cháy sạch rồi cùng với tủ sách của thầy. Năm đến, nhớ tặng thầy hình con gà lớn, lỡ cháy thầy còn có thịt mà ăn”, rồi thầy cười, không rõ trong lòng thầy có xót xa hay không.

Tính cách lạc quan của thầy đã dạy học sinh chúng tôi khi vào đời dẫu gặp đắng cay cũng nên nở một nụ cười chấp nhận, “đời là thế” (C’est la vie). Tôi kể nhiều về thầy bởi thầy đã đặt dấu ấn rất sâu trên tâm hồn một cậu bé như tôi, một tâm thế lạc quan, trước mọi hoàn cảnh. Và nay đã gần vào tuổi thất thập, tôi vẫn luôn lạc quan, luôn giữ nụ cười.

 Giáo dục là ở đó, là ở cốt cách của người thầy, không phải ở sách giáo khoa hay thành tích học tập.

Thưa các bạn học của tôi, những người còn sống hay những người đã mất, chúng ta cho đến ngày hôm nay, có người thành công, có người thất bại trong cuộc sống, tất cả đều đã có những hoài bão, những ước mơ, những kỷ niệm êm đẹp thời còn đi học, được các thầy dạy dỗ, theo mỗi bước đi trên cuộc đời này, đều có dấu ấn của các thầy để lại trong mỗi tâm hồn trong trắng của mỗi chúng ta từ ngày xưa còn cắp sách đến trường.

 Tôi cầm tấm học bạ ố vàng theo năm tháng mà lòng bồi hồi khôn xiết. Mãi mãi là niềm kiêu hãnh luôn nhắc về một ngôi nhà đầy ắp yêu thương: Trường trung học Bồ Đề Hội An.