Hình bên dưới không rõ chụp đúng ngày 2 tháng 9 hay không, nhưng hình ảnh khiến tôi hình dung ra nỗi sợ hãi đã một thời đeo bám tuổi thơ mình.
Trước 1960, quê tôi không có điện. Bóng tối là nỗi sợ hãi bao trùm, không chỉ cho lũ trẻ, chẳng dám ra khỏi nhà ban đêm, mà cho cả người lớn, bằng những câu chuyện về...ma trong những đêm tối trời.
Làng tôi có một trạm xá, làm bằng tranh tre, phục vụ cho gần nửa số làng trong xã, xây trên nền ngôi chùa cũ bị đốt năm 1946 tiêu thổ kháng chiến. Ma hiện ra. Hàng trăm người hiếu kỳ đến xem. Có lần, mới mở cửa vào, mấy chị y tá thét lớn, khi phát hiện trên bàn làm việc là chiếc ghế dựa, trên có 1 khối đá to, trùm bên ngoài là chiếc áo blouse trắng và một nải chuối cùng nhang bên cạnh. Chính quyền địa phương cố gắng dẹp nhiều lần nhưng bà con vẫn nườm nượp đến xem. Có người đang chăm chăm nhìn lên nóc nhà tranh trạm xá xem có...con ma nào ở chỗ tôi tối đó không thì bị ngay một cục bùn ném vào mặt, hốt hoảng la toáng, những người khác ùn ùn bỏ chạy, cũng hốt hoảng không kém. Chung quanh trạm xá không có ao để lấy cục đất bùn mềm nhão màu đen xám, chỉ cách đó nửa cây số mới có loại đất này dưới bàu, dân làng gọi là bàu Nhuốc. Đích thị có ma rồi !
Chiến tranh nổ ra, câu chuyện "trạm xá có ma" vẫn được nhắc tới như nỗi kinh hoàng cho những người như tôi mỗi khi nói chuyện về quê nhà. Sau 1975, "trạm xá có ma" mới được giải mã: các bác du kích lão làng nói lại, họ đã biến trạm xá có ma để ít ai lai vãng ban đêm qua đó, nơi họ hoạt động, nơi họ hay hội họp để " làm cách mạng" giải phóng miền Nam. Nỗi sợ hãi không còn vì đã hiểu ra sự việc.
Xưa nói nay. Đất nước so với năm 1960 đã khác biệt rất nhiều. Không có "ma" nhưng nỗi sợ hãi vẫn còn. Dân chúng vẫn còn sợ hãi nhà chức trách.
Trước 1975, dân không sợ chính quyền, ở Sài Gòn và một số thành phố, thỉnh thoảng họ xuống đường, "đả đảo Thiệu- Kỳ - Có" (ba ông tam trụ, quyền hành như tứ trụ bây giờ),nhiều nhất ở tầng lớp sinh viên, hở chút là biểu tình, "Mỹ cút về nước", "đảo đảo Nguyễn Văn Thiệu độc diễn bầu cử"( ứng cử chỉ một người, không rõ hồi đó có ai...cơ cấu như bây giờ cho ổng không), " đả đảo luật tổng động viên 1972". "Phản động" thế nhưng cũng không ai, hoặc rất ít ai bị nhốt tù, trừ khi phát hiện là cộng sản.
Bây giờ trong các cuộc " tụ tập đông người trái phép" không thấy có mặt sinh viên, tầng lớp trí thức tương lai nước nhà. Có lẽ họ sợ hãi ...quá chăng? Nhưng cũng có vài phụ nữ không sợ hãi, tay không một tấc sắt, mà dám âm mưu " lật đổ chính quyền", và bị bỏ tù. Nhưng những người như họ rất ít.
Và nhà chức trách có..."sợ" dân không? Tôi cũng phải nghĩ ngợi nhiều. Có những biến động lớn, như hôm 10 tháng 6 (biểu tình phản đối thông qua luật đặc khu), nhà chức trách cũng bối rối trong đối phó lúc ban đầu. Hàng chục cảnh sát cơ động ở Phan Thiết đã "cởi giáp", không mạnh tay trấn áp biểu tình, tôi nghĩ không phải họ sợ dân, mà có thể đã...một phần hiểu dân, ngoài một số lợi dụng biểu tình để đập phá, còn những người họ muốn trấn áp, có thể là người thân, hoặc những đồng bào của mình, đã chất chứa những ẩn ức chưa tỏ bày, nhân cuộc phản ứng trước dự luật đặc khu, nên đã "bùng phát" theo.
Nỗi sợ hãi nhau từ hai phía, người dân và nhà chức trách đều không tốt, nếu không nói là rất có hại. Cần có sự cảm thông nhau, cần sự hiểu biết nhau, nhất là cần niềm tin vào nhau, đất nước sẽ vững mạnh, đoàn kết, một lòng một dạ, dốc toàn lực để đối phó những đe dọa từ bên ngoài trong thời điểm có thể nói đầy bất trắc hiện nay.
Khi đã hiểu, nghĩa là đã được "khai trí", cả dân lẫn quan, thì nỗi sợ hãi nhau không còn, cũng như tôi, khi được nghe kể " ma trạm xá" không có, tôi không còn sợ hãi nữa.
Đã hiểu thì hết sợ.




