Sunday, October 19, 2025

CHUYỆN CHIẾC CẦU ĐÃ GÃY

Tôi không định nói về bài hát của nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng, người cùng quê với tôi. Tôi chỉ nhắc đến  chiếc cầu đã gãy của quê hương Đại Lộc chúng tôi: Cầu Hà Tân.

Xây cầu là để kết nối bờ sông này với  bờ sông kia, chia cách sẽ không còn. Có thể những chiếc đò nhỏ sẽ làm nhiệm vụ đưa đón những người muốn qua lại dòng sông ngăn cách. Nhưng ghe đò không thể làm yên lòng những người đi qua dòng sông có khi dữ dội có lúc gầm gừ đe dọa vào những mùa  mưa lũ, nước trên nguồn đổ về cấp tập. Chiếc cầu là sự kết nối yên bình nhất. Và đáng yêu nhất, chiếc cầu có tên Hà Tân in đậm trong tâm khảm không những với những người già chúng tôi. Chiếc cầu kết nối hai bờ là kỷ niệm của những chàng trai, cô gái nhìn những bạn học của mình thong thả đi hocj qua cầu, tà áo trắng của những cô gái phất phơ sâu đậm nếu có những bạn trai qua cầu nhìn lại hay đi sau nhìn tới. Không phải “yêu nhau cởi áo cho nhau/ về nhà mẹ hỏi qua cầu gió bay”.

Cầu Hà Tân có lẽ xây dựng từ thời tôi chửa sinh ra. Khi lập đồn Hiên, người Pháp đã đi lại từ Hội An lên đồn bằng xe cam nhông. Họ không thể đi qua phà mà chưa chắc thời đó có phà. Như vậy cầu Hà Tân phải xây trước 1954 hàng chục năm.

Chiếc cầu trải qua bao thay đổi lịch sử. Năm 1958, học sinh chúng tôi tập trung bên kia đầu cầu hướng về Hội An để chào đón tổng thống Ngô Đình Diệm đi kinh lý từ Kon Tum về Quảng Nam, qua quốc lộ 14B. Tôi còn nhớ, hàng nghìn người tụ họp bên kia cầu Hà Tân, vị trí trống trải, rộng rãi để có dịp “chiêm ngưỡng” vị tổng thống đầu tiên đi qua xứ sở nửa rừng nửa đồng bằng của chúng tôi, có tên là Thường Đức – quận Thường Đức. (Nghe đâu, chính quyền sẽ phục hồi cái tên này để đặt cho đơn vị xã mới, nhưng vì bắt chước giọng nặng của những người tạo nên chiến thắng từ miền Bắc, mở màn cho cả miền Nam một đơn vị quận lỵ được “giải phóng” (1974), Thường Đức đổi thành Thượng Đức).

Chực chờ cả một buổi trưa nhưng chúng tôi- học sinh tiểu học – cũng chưa thấy dung nhan tổng thống. Quá trưa, trời nắng nóng, bỗng có tiếng la to “tổng thống, tổng thống tới”. Ở trên cao bên đầu cầu Hà Tân, những chiếc xe nhà binh nối đuôi nhau chạy. Đám đông náo loạn. Họ tràn ra đường chen nhau để nhìn cho được tổng thống. Nhưng hầu như không phải ai ai cũng có “diễm phúc” nhìn thấy ông Ngô Đình Diệm. Những người “may mắn” kể lại cho những người “không may mắn”: Tổng thống Ngô Đình Diệm ngồi trên một chiếc xe jeep mui trần, cầm mũ giơ lên, vẫy chào “thần dân” của ông  đứng hai bên đường bắt đầu từ cuối chiếc cầu Hà Tân. Mặt ông rất to, người ông rất lớn, dáng dấp oai nghi. Đó là lời kể của những người thấy trực tiếp. Những người khác ở xa bên đầu cầu (một dải đất rất rộng) không thấy được “Ngô tổng thống” trong sự tiếc nuối vì cả ngàn người chen chúc nhau và ông Ngô Đình Diệm đi trên xe qua đó không phải với tốc độ chậm rãi, có thể nguy hiểm cho an ninh đoàn kinh lý. Nghe đâu ông bị ám sát hụt ở Tây Nguyên trước đó.

Cầu Hà Tân còn chứng kiến sự kiện một linh mục bị giết chết trong chiến tranh, có lẽ là trước 1962. Người dân tụ tập bên đầu cầu để tiễn đưa vị linh mục yêu dấu của mình về lại quê nhà Bình Định bằng trực thăng của Mỹ. Chiếc cầu chứng kiến những giáo dân áo dài như xem lễ đi thẫn thơ qua cầu về nhà, những thôn làng bên kia, có nơi xa vài ba cây số. Họ vừa đi vừa lấy vạt áo dài ra để lau nước mắt: Vị minh mục kính yêu của họ ra đi không một lời trối trăng, từ biệt.

Khi chiến sự xảy ra, chiếc cầu chính là nơi ghi lại lịch sử. Đường đi lại từ quê tôi về Hội An, tỉnh lỵ của Quảng Nam, thì  “mất an ninh”. Mất an ninh là những từ diễn tả, trên con đường đi sẽ có mìn chống xe tăng hay xe chở lính hoặc sẽ có những chốt gác của Cách Mạng. Ca nô- là cách gọi của dân quê đối với thuyền gắn động cơ- là “xe đò”. Xe này chạy trên nước nhưng không nguy hiểm vì không cán lên mìn như trên bộ. Thế là cầu Hà Tân trở thành “bến xe”.

Nước cạn thì các chủ ca nô gác một tấm ván để khách bước xuống thuyền. Nước lớn thì khách chỉ cần đứng trên cầu để bước xuống ghe. Ca nô chở số lượng người không hạn chế nhưng theo tôi nhớ thì không quá hai chục khách đối với những chiếc lớn. Chiếc cầu vô tình là nơi chứng kiến những cuộc chia tay đầy nước mắt. Bà con tiễn thân nhân xuống thuyền ra phố để tỵ nạn chiến tranh. Tiễn con ra phố đi học. Chia tay lưu luyến; vợ, con ở thành phố lên thăm chồng nơi quận lỵ. Và tôi, năm 1964, khóc nức nở khi cha tôi ra tận “bến đò” cầm tay dặn dò bằng câu, “con đi học nghe”. Nghe tức là nha hay nhe hay nhé. Cha tôi quay đi, không rõ có giọt nước mắt nào không nhưng tôi thì tấm tức: Cả tuổi thơ sống bên cha, mẹ,  ở cùng ngôi nhà yêu dấu, ngôi làng có những lối đi quen thuộc, đường ra sông, đường đi học, những buổi tối chơi trò cút bắt trong những hàng rào chè tàu, những buổi trưa ngâm mình trên sông mát...làm sao tôi cầm được nước mắt khi từ chiếc cầu bước xuống ghe: chia tay.

Nhưng có một cuộc tiễn đưa đầy nước mắt không phải trong chiến tranh trên chiếc cầu Hà Tân. Đó là buổi đưa tiễn thanh niên đi bộ đội năm 1979 qua Campuchia. Lẽ đáng mọi người phải hăng hái vì nghĩa vụ thiêng liêng, đánh giặc giữ nước. Nhưng sau mấy năm hòa bình mà thanh niên (miền Nam) phải lên đường chiến đấu ở một nước xa xôi, gia đình nào có con em lên đường nhập ngũ mà không lo lắng trước một chiến trường khốc liệt không phải trên đất nước Việt Nam. Một người khóc và cả chục người khóc. Ban đầu là nhỏ, là ít nhưng sau đó tiếng khóc càng to, càng nhiều người khóc hơn.

Trên chiếc cầu quen thuộc, trước cảnh đưa tiễn, hay chia tay nhau, người ta mới nhớ đến câu thơ của Á Nam Trần Tuấn Khải: Thùng thùng tiếng trống ngũ liên (tức giục liên hồi). Bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa. Khóc vì đi lính cho Tây nhưng tại sao đi cho ta mà người ta lại khóc? Đó là lý do để một cán bộ xã tức giận quát la những người quá ủy mị không phấn khởi khi đưa tiễn con em lên đường. Chiếc cầu chứng kiến cảnh chia tay đầy cảm xúc. Những chiếc ca nô nổ máy chở anh em về huyện để nhập ngũ lên đường chiến đấu rời xa. Những cánh tay vẫy mạnh, người ta không còn nghe tiếng thút thít nữa. Những chàng trai đứng trên ca nô vẫy chào vui vẻ những thân nhân đứng chật trên chiếc cầu đã cũ.

Chiếc cầu nhỏ, thô sơ, thâm thấp, có những cục táp lô vuông nằm hai thành cầu để làm dấu khi nước chuẩn bị tràn qua và cầu sẽ ngập. Chiếc cầu cũ kỹ nối hai bờ từng là lối đi của những chiếc xe nhà binh, của lính (VNCH) lẫn của bộ đội giải phóng. Cầu không hề đổ sụp dù thỉnh thoảng cũng có những chiếc thiết giáp chạy qua thời chiến tranh.

Vậy mà, trong hòa bình, cầu đã “gãy” nhịp. Một phần vì cầu quá cũ, một phần vì nước lũ chảy quá mạnh. Nhịp cầu đưa lối cho hai bờ nối lại cuộc sinh hoạt bị đứt gãy. Người ta đi qua lại chiếc cầu này có thể là hai phần ba thế kỷ. Giờ đây đã không thể đi lại nữa rồi. Chiếc cầu mà năm mươi năm trước chứng kiến sự đổi thay  lịch sử “Giải phóng Thường Đức” đã mất đi nhịp nối.

Không biết khi hồi tưởng trong chiến tranh, những xác chết của "phía bên kia" lình bình trôi và mắc vào các vày cầu được người dân lấy sào đẩy vào cho giòng nước cuốn đi vô định, có ai còn nhớ cây cầu có nhiều ký ức đau thương này không? Hay là nó sẽ bị phá bỏ vì quá “già nua”. Người cũng phải bỏ đi huống hồ chiếc cầu đã gãy.

Tôi mong ước, hãy cố sửa lại chiếc cầu cũ. Chiếc cầu ghi nhớ quá khứ. Chiếc cầu nối hai bờ chia cách bên này bên kia. Chiếc cầu giữ biết bao nhiêu kỷ niệm của những người sống hai bên dòng sông hình thành từ bao thế hệ. Hãy giữ lại chiếc cầu. Nó là lịch sử. Nó là văn hóa. Nó là tình thương. Cầu Hà Tân ơi!.