(Tổng thống Trần Văn Hương)
Có một luật sư tên tuổi trên Facebook, trích bốn câu của nhà thơ Nguyễn Bắc Sơn (1944-2015):
“Ta vốn ghét đàn bà như ghét cứt
Nhưng vì sao ta lại yêu em?
Ôi mắt em nhìn như là bẫy chuột
Ta quàng xiên nên đã sa chân”.
Luật sư cũng làm mấy câu, gọi là xướng họa, với nội dung giễu cợt:
Tôi vốn ghét nhà thơ như ghét cứt
Nhưng vì sao ta dẫm phải mỗi ngày?
Tâm trí họ mênh mông như nhà xí
Nhét cả thế giới qua đường hậu môn?
(Hay: Cứ đau đít lại rặn được chùm thơ?)
(Trong status của luật sư là THƠ NÔN).
Nếu cho rằng bốn câu thơ trích là tởm lợm thì mấy câu đối đáp của luật sư càng tởm lợm hơn: “ tâm trí” (nhà thơ) “như nhà xí”. “Nhét cả thế giới vào hậu môn”. “Cứ đau đít lại rặn” ra thơ.
Khi nhận xét một đoạn thơ, tối thiểu người đọc phải đọc nguyên bài thơ có đoạn trích; đó là nói những ai không đọc nhiều, một điều kiện quan trọng để bình thơ, chứ chưa nói phê bình thơ. Đằng này luật sư lại “chặt đôi câu thơ” rồi “bẻ đôi câu thơ” ra mà phê phán.
Nguyên bài thơ:
TRÊN ĐƯỜNG ĐẾN NHÀ XUÂN HỒNG
(tên người yêu của tác giả).
Khi qua cầu thấy từng chùm ánh sáng
Trên những chiếc lưng trần của lũ cá thu đen
Thấy ngôi nhà em soi mình trong bóng nước
Và thấy tình yêu đầy những nỗi bi hoan
Khi qua nghĩa trang thấy một bầy mả đá
Nghĩ đời mình đâu đến một trăm năm
Nên muốn suốt đời làm tên đãng tử
Trăng mọc đêm nay lạnh chỗ nằm
Trước khi đến nhà phải trèo lên dốc
Mối tình mình cay đắng biết bao
Và tình yêu phải chăng có thật
Hay chỉ là ảo vọng đâu đâu
Ta vốn ghét đàn bà như ghét cứt
Nhưng vì sao ta lại yêu em?
Ôi mắt em nhìn như là bẫy chuột
Ta quàng xiên nên đã sa chân.
Nguyễn Bắc Sơn.
Tả khung cảnh đi đến nhà người yêu, thi sĩ khiến ta hình dung, đây là mối tình khá trắc trở. Có thể chàng nghèo chăng, nhà người yêu “thấy từng chùm ánh sáng”. Những con cá thu sao lại “lưng trần”? Sao lại “đen”? Tội nghiệp cho cá hay tội nghiệp cho chàng? “Thấy ngôi nhà em soi mình trong bóng nước”. Tác giả mặc cảm “Thấy tình yêu đầy những nỗi bi hoan”. Mối tình vừa hạnh phúc mà lại vừa đau khổ (bi, hoan). Thi sĩ “muốn suốt đời làm tên đãng tử” vì thấy cuộc đời hữu hạn (Nghĩ đời mình đâu đến một trăm năm). Rồi ai cũng chết như những người nằm trong mả đá “một bầy” ở nghĩa trang chỗ tác giả đi qua. Mối tình đau khổ và khó khăn, chật vật. ("Trước khi đến nhà phải trèo lên con dốc". "Mối tình mình cay đắng biết bao"). Tác giả hồ nghi “hay chỉ là ảo vọng” rồi còn tư lự “Và tình yêu phải chăng là có thật”.
Đãng tử nhưng cũng sa vào tình nhi nữ. Để khẳng định mình là nam nhân “hải hồ sông núi”, trước mối tình “lận đận”, tác giả muốn văng tục “Ta vốn ghét đàn bà như ghét cứt”.
Luật sư Luân Lê (tôi xin gọi ra tên) ghét nhất có lẽ là câu này. Những fans nhà cũng hùa theo nhận xét của ông; thi sĩ gì đâu mà “làm thơ như nôn mửa”. Trọng tâm là “đàn bà” so sánh với “cứt”. Ghét như ghét cứt.
Nguyễn Bắc Sơn nổi tiếng với những câu thơ có tầm ngổ ngáo như thế. Chẳng hạn:
“Mai ta đụng trận ta còn sống
Về ghé Sông Mao phá phách chơi
Chia sớt nỗi sầu cùng gái điếm
Đốt tiền mua vội một ngày vui…
(trong bài Mật khu Lê Hồng Phong).
Người lính trong chiến tranh ở miền Nam coi việc uống rượu, đánh bạc, chơi bời... là chuyện bình thường. Chiến tranh đem lại cái chết, không biết lúc nào. Họ không như bộ đội miền Bắc có một lý tưởng “đánh Mỹ cứu nước”.
Tác giả mấy câu thơ “tởm lợm” này coi chiến tranh như trò đùa (tôi: có thể đoán, trò đùa của những nước lớn):
“Chiến tranh này cũng chỉ một trò chơi
Suy nghĩ làm gì lao tâm khổ trí
Lũ chúng ta sống một đời vô vị
nên chọn rừng sâu núi cả đánh nhau
(trong Chiến tranh VN và tôi)
“Ghét như ghét cứt” thật ra là “thương quá đỗi thương”. Chúng ta thường nghe mẹ mắng con: “Thằng chó đẻ, sao cả tháng trời không thăm mẹ”. Thằng chó đẻ “tởm lợm” lắm hay sao. Cứt xuất hiện khá nhiều trong tiếng Việt. Tục ngữ “cứt con mình thơm, cứt con người thúi”. Ca dao: “Em như cục cứt trôi sông. Anh như con chó chạy rông trên bờ”. Ngày xưa, không có cầu tiêu, phân người là nguồn sống cho chó. Cứt nuôi sống chó. Tôi nghe nói, ở miền Bắc thời bao cấp, có những năm làm con gà, con heo cũng phải xin phép nhưng làm thịt con chó thì không. “Ghét như ghét cứt” là tục ngữ dân dã dù cứt dùng làm phân bón, dùng làm thức ăn cho chó (khi cơm người không có mà ăn) như vậy cứt cũng không đến nổi tởm lợm khi soi xét trong sinh thái văn hóa của người Việt Nam chúng ta.
Ghét sao lại thương? Ghét là thương, đối với tình trai gái. “Anh đáng ghét lắm nha”. Cô gái ghét hay yêu chàng trai? “Nhưng vì sao ta lại yêu em?”. Tác giả thú nhận vì "đôi mắt người Sơn Tây”. Đôi mắt sắc, đôi mắt như chiếc bẫy, kẹp chặt đời anh “Ôi mắt em nhìn như là bẫy chuột”.
Có ai để ý bẫy chuột không? Chuột dính bẫy vì tham ăn. Và tác giả “dính bẫy” vì tham yêu. Thi sĩ gỡ gạc hay nói gượng cho đỡ sự tự ái của một “đãng tử” trên cõi đời ô trọc: “Ta quàng xiên nên đã sa chân”. Tác giả “nói zậy mà không phải zậy”. “Đôi mắt người Sơn Tây”, “chiều viễn xứ khôn khuây” đã trói chặt đôi chân chàng lãng tử, thực ra là, đãng tử.
Căn cứ vào chỉ một đoạn thơ để kết luận về tác giả là việc làm đáng xấu hổ nếu không nói là thiếu trách nhiệm với cả người đọc lẫn tác giả. Trích ngặt đoạn thơ để phỉ báng nếu là ở nước tiến bộ như Mỹ thì luật sư Luân Lê sẽ phải ra tòa không phải để cãi mà để nhận án phạt.
Thơ không có tục chỉ có người đọc thơ coi nó tục. Có ai nhớ bài thơ này của một vị từng là tổng thống nước VNCH?:
Lao Trung Lãnh Vận
(Thơ trong ngục tù lạnh lẽo).
Suốt ngày ăn ngủ, ngủ rồi ăn.
Chẳng thấy chuyện gì chuyện khó khăn.
Nằm khểnh sờ môi, râu tua tuả,
Ngồi rù gãi háng, dái lăn tăn.
Làm sang phe phẩy tay còn quạt,
Đi tắm trần truồng mổng (*) thiếu chăn.
Ăn, ngủ, ỉa xong đầy đủ cả.
Muốn chi chi nữa, biết mần răng.
(*) Có lẽ là mông.
Trần Văn Hương là giáo sư dạy học rất nhiều năm. Câu đặc sắc nhất của bài thơ chính là “Ngồi rù gãi háng dái lăn tăn” . Bài thơ làm trong khi ông là thân phận tù nhân, nhưng đầy kiêu bạc.
Rù y như trong chữ “gà rù”. Ngồi tù trong tư thế chán chường, bất lực. Nhưng khinh bạc ở chỗ “gãi háng”, rồi “dái lăn tăn”. Thái độ ngạo đời hết biết. Câu thơ này được trích dẫn trên một chuyên mục của tờ Con Ong thì phải (tôi không chắc). Ý tại ngôn ngoại chính là cách thi sĩ hay sử dụng trong các sáng tác của mình. Chỉ những người đầu óc thẩm thấu văn chương mới không cảm thấy bị khiêu dâm khi đọc thơ Hồ Xuân Hương. Kẻ phàm phu thường hí hửng “tự sướng” khi đọc những bài thơ tuyệt vời của nữ sĩ có một không hai trong văn học VN.




