Sunday, October 26, 2025

YÊN TĨNH


Một bản nhạc sẽ không hay nếu thiếu khoảng lặng. Cuộc sống chúng ta sẽ không hoàn toàn hạnh phúc nếu thiếu thời gian tĩnh lặng. Cuộc sống bộn bề lo toan ngày nay bị đe dọa hàng ngày với biết bao sự ầm ĩ, âm thanh đinh tai nhức óc tràn ngập phố phường cả thôn quê.

Loa " kẹo kéo" phát ra tiếng chào mời mua rau củ, áo quần, giầy dép ra rả các con phố ầm ầm tiếng xe qua lại. Những cửa hiệu lắp những chiếc loa công suất cao chơi những bản nhạc giật gân của nước ngoài, lôi kéo sự chú ý khách đi đường thương hiệu cửa hàng.

Mỗi sáng sớm, mỗi chiều tối, "đây là tiếng nói nhân dân..." oang oang phát ra từ những chiếc "loa phường" có tuổi thọ dường như niên viễn.

Trên xe buýt, trong nhà hát, ở các quán nhậu, sự ầm ĩ của của tiếng nói thả cửa như nơi đó là nhà của riêng mình, muốn la to, nói lớn, thế nào tùy thích.

Có những nơi giải trí khung cảnh hữu tình, những lều nhỏ nằm dọc trên lối đi lát sỏi, hai bên cây cỏ, xa bên ngoài là hồ nước tự nhiên, điểm tô những bông súng nhiều màu trên nền xanh rêu mặt hồ, những lồng chim treo trên một số cây che mát, cất lên những tiếng hót như hòa với niềm vui của những người đang ngồi trong những lều lợp lá, rôm rả bên mấy cốc bia, hồ hởi chuyện xưa sau.

Khung cảnh lẽ đáng êm đềm như thế sẽ kéo dài nếu không xuất hiện những đám thanh niên mặt mũi sáng láng, quần áo bảnh bao, lịch thiệp còn hơn công chức.
Và, tiếng loa kẹo kéo, âm thanh khủng bố vang lên, hòa quyện thi thoảng tiếng "dô dô trăm phần trăm" nhức óc. Liên tục sau đó là những giọng hát, còn tệ hơn giọng vịt đực của tôi, vang lên có lúc the thé, có lúc oang oang, trộn lẫn trong giọng hát là mùi bia, mùi rượu, mùi thuốc lá, có cả mùi ngả ngớn, tục tĩu, vô duyên của những lời bỡn cợt nhau phát ra trên loa công suất hết cỡ.  Hình ảnh, âm thanh  này không phải là cá biệt.
Các nơi ở bờ sông Sài Gòn và một số nơi tôi có dịp tới, đang nở rộ những nhóm thanh niên với "thùng kẹo kéo" mướn, ngặt nỗi, là sản phẩm của chủ cơ sở du lịch...muốn thu hút khách thanh niên, thích khẳng định sự có mặt của mình bằng âm thanh "cực hót".

Ưa thích âm thanh cực lớn nhưng không màng đến những người khác ưa thích sự tĩnh lặng bình yên. Chỉ biết có mình, không biết có người, đó là triết lý sống của một bộ phận thanh niên rường cột chúng ta ngày nay?

Ở Việt Nam, vào những chỗ đông người, như nhà hàng, sân bay...nghe có tiếng nói cười hô hố xì xồ, tôi đoán ngay là có các du khách “bốn tốt”.

Qua Singapore mà nghe âm thanh tương tự là đoan chắc có người VN. Âm thanh hổ lốn đã từng gây ra tai vạ, báo chí đã đăng. Một ông 60 tuổi bị đánh chấn thương đầu phải đi cấp cứu vì đã lên tiếng với đám thanh niên đang nhậu, đang ca hát qua loa kẹo kéo; ông năn nỉ xin được "giảm âm thanh" mà lãnh hậu quả thương tâm.

 Lâu rồi, đâu ở tỉnh nào ngoài trung, một người bị đâm chết vì lên tiếng rồi xảy ra xô xát với người hàng xóm đang hát karaoke quá to, quá ầm ĩ kéo dài.

 Khi ý thức chưa hình thành thói quen thì luật pháp, ở đây là nhà chức trách, nên can thiệp bằng những chế tài cần đủ mạnh, hễ ai vi phạm sẽ bị xử phạt, về việc gây tiếng ồn quá mức, quá lâu, ở quá nhiều nơi công cộng.

Việc cấm đốt pháo, buộc đội nón bảo hiểm, nhà nước làm rất hiệu quả, rất tốt. Kiểm soát âm thanh, tiếng ồn, là việc khó lắm hay sao?

Một nghiên cứu cho biết người Việt có chiều hướng mắc bệnh rối loạn tâm thần ngày càng cao, biết đâu âm thanh có cường độ quá mức không là một nguyên nhân chính. Nghe kể, văn hào Dostoevsky người Nga đã cho đào một cái hầm sâu, đầy đủ tiện nghi để ở đó sáng tác những tác phẩm nổi tiếng thế giới, và khi chết, trong di chúc ông ghi rõ trong đám tang mình không được có mặt của người vợ. Lý do thì nhiều nhưng một lý do chính bà vợ, liên tù tì, chì chiết ông cả đêm lẫn ngày, qua giọng nói the thé không khác chi giọng nói của những bà vợ ưa rủa sả chồng mỗi khi say xỉn. Âm thanh tác động thế đó. Ở Sài Gòn đào hầm đâu được, nếu đào, có khi bị hỏi thăm đào hầm bí mật sao? Sự tĩnh lặng, không bao giờ có hay sao?

 

Saturday, October 25, 2025

CHIẾC NÁ THUN

Sáng nay chạy xe qua ngã tư Bình Phước, Sài Gòn,  thấy có chiếc xe máy bán hàng, trong đó lủng lẳng những chiếc ná thun, với những cái gọng ná gỗ xinh xắn, bắt mắt. Ở thành phố sao cũng có bán ná thun. Có lẽ các vùng gần đó có cây cối và còn có chim chăng. Có người nói để bắn trộm. Chiếc ná thun nhắc nhớ những kỷ niệm thời thơ ấu vùng quê Thường Đức, Quảng Nam.

Tiểu học thời VNCH chỉ có 2 môn toán và văn, từ lớp 1 đến lớp 5 (tức lớp 5 đến lớp nhất). Thời gian đi bơi ở sông, bắn bi, hay lang thang từ làng này sang làng khác bắn chim là chính, học chỉ một buổi mỗi ngày. “Rảnh rỗi sinh nông nỗi”.
Chiếc ná lũ trẻ dây thun mỏng hơn, dễ kéo dãn  hơn, không như những chiếc ná mấy anh thanh niên có dây thun dày hơn, kéo nặng hơn, nên ba bốn ngày hay cả tuần không bắn được con chim nào là thông thường.

Những cây gạo cao vút, cành vươn ra xa khoảng trời xanh trong vắt, như thách thức các đám mây trắng đang “nghỉ nắng” trên cao, với những cánh hoa đỏ ối khắp cành; những cây gạo cao giữa những bãi đất bồi mênh mông dọc hai bờ sông chỉ dành nơi đáp cho chim cu, chim cưỡng, chim nhồng, chim sáo…những loài chim bay cao.

Thỉnh thoảng chúng hốt hoảng rập ràng bay lên khỏi những cành cây khi có đàn chim két xanh nguyên bầy bay tới mang theo đe dọa. Chúng quay trở lại khi lũ chim với những cặp mắt cú vọ, những chiếc mỏ nhọn hoắc kia bay đi.

 Chiếc ná thun cầm sẵn, “đạn” là những hòn sỏi tròn như viên bi lượm từ bờ cát ven sông, và chỉ làm cho một vài con chim trên cành cao, thảng thốt nhìn xuống, chả con nào sợ hãi mà bay đi: mấy tay ná “oắt con” lũ chúng tôi sao mà bắn cho tới nói chi cho trúng một con chim nào. Nhưng cũng nhiệt tình chăm chăm “nã đạn. Họa hoằn trúng một chú chim nào chăng. Chỉ khi hết “đạn” thì mới ngưng “nã ná”. Rồi lại rủ nhau chạy ra sông, lượm “đạn” tiếp. Và cứ thế những con đường làng lại in dấu những bàn chân bé nhỏ chúng tôi mỗi khi nghỉ học.


Chỉ những bụi tre mới là nơi “săn chim” của lũ trẻ chúng tôi, trồng đâu từ thời xửa thời xưa sát bãi ven sông chống xói mòn, bố tôi hơn 110 tuổi nếu còn sống, đã thấy bờ tre như thế khi còn năm sáu tuổi.

Chim trả (hay trảy, chim sả) màu xanh, kêu lét xét luôn mồm, lượn qua lượn lại như trêu chọc chúng tôi. Ná giương lên là chúng vụt bay ngay. Những con trâu nằm phơi trên bãi cát vàng óng ánh lấp xấp nước cũng có những chú chim nhỏ không rõ tên, vội vã đi qua lại trên người, hẳn để kiếm “mồi” là một vài con ve trên lớp da đen dày dính bùn của mình.

Tầm bắn rất gần nhưng chúng tôi không dám, đụng vào thân trâu không sao, nhỡ tay nghề quá thiện xạ, đạn trúng ngay vào mắt trâu thì tội nghiệp cho nó.
Nhưng cũng có khi “bắn” một vài “em dồng dộc” đang ríu ra ríu rít làm những chiếc tổ như những chiếc giày ống đong đưa trong gió. Nhưng thật ra thì chỉ thấy lông chim  bay lả tả, chim vừa kêu to vừa hốt hoảng bay.

Lúc đó chim nhiều hằng hà sa số, vô kể, một vài con số mạng đen đủi lắm mới thọ nạn dưới những chiếc ná thô sơ “hú họa” của chúng tôi.

Năm nay tôi ngoài lục tuần và những cây gạo không còn nữa; người ta đã cắt chúng  hầm lấy than, hay làm gì đó, để trống đất trồng bắp, trồng khoai những năm sau “giải phóng”, cái đói là thống soái. Những cây gạo có những bầy chim đậu, những chiếc hoa đỏ ối như mặt trời mùa hạ chẳng có ích lợi gì.

 Những bụi tre dọc bờ sông, gọi là tre làng vì là của tập thể dân làng trồng bao đời, không còn, trước, những mầm măng bị tha hồ bẻ, sau, thân tre người ta thi nhau chặt, cho bằng hết.

“Chống xói mòn chi bằng chống đói”, những gốc tre, những thân tre đã giúp dân làng kiếm chút tiền còm cõi, cho những ai “ra tay chặt trước”.
Những cây gạo, những bờ tre chỉ còn trong ký ức của những người con xa quê. Nói chi đến những chú chim, những bầy chim, những bông hoa gạo.

Súng săn xuất hiện, một phát là một sinh mạng rời cõi trần gian, và môi trường suy kiệt, những giống như chim trả, chim dồng dộc, chim cu, chim cưỡng, thậm chí đông dân như chim sẻ cũng không còn, hoặc còn rất ít, chúng đã lìa trần, chúng đã bỏ làng, bỏ quê hương, cả lũ con nít chúng tôi mà ra đi.

Tôi thấy người ta nhốt những con chim trong lồng bày bán ở trước cổng chùa mỗi khi có lễ lớn cho mục đích phóng sinh; để con người làm phước, để có dịp bày tỏ yêu thương, những con chim tội nghiệp trong lồng sẽ được sống nhờ tay họ trong khi số người khác, đồng loại của họ, đã ra tay tiêu diệt chúng ở những vùng như quê hương tôi.

Có những con chim bị bắt, bị giết chết, để có những con chim được thả, được sống là “văn hóa” của người Việt Nam chúng ta, và có phải là văn hóa của những dân tộc khác quanh ta không?

Những chiếc ná kia có lẽ cũng mang tội nhưng hẳn không nhiều bằng những khẩu súng, những hủy diệt con người đem lại cho môi trường sống của chính mình, đã giết lần mòn những cánh chim tự do ở quê hương tôi, trong tâm tưởng của những con người đau đáu hồn quê.

 

PHIM ĐẤT KHỔ, một ký ức về chiến tranh.

Thật may mắn cho con cháu chúng ta, không sống trong chiến tranh.  Ở lứa tuổi  tầm lục thập  như chúng tôi, chiến tranh vẫn còn là những ám ảnh khôn nguôi, mỗi dịp thấy lại, hay nghe lại những hình ảnh, những âm thanh của một cuộc chiến thảm khốc, đau thương trên quê hương nầy mấy chục năm trước.
 

Tình cờ xem được một phim (trên mạng) nói về chiến tranh, tên Đất Khổ, sản xuất năm 1972 ở miền Nam, (phụ đề tiếng Anh:Land of Sorrows) do đạo diễn Hà Thúc Cần dàn dựng với Trịnh Công Sơn đóng vai chính.
 

Ký ức chiến tranh lại hiện về, sâu nặng, và thật u hoài trong lòng tôi, một cậu bé rồi một thanh niên đã từng sống qua một thời gian ác liệt của đạn bom.
 

Trước nay, chúng ta, mỗi người VN thường nhìn cuộc chiến theo cái nhìn "địch, ta", "thắng, thua", "chính nghĩa, phi nghĩa", vân..vân..mà thường ít để ý chiến tranh là đau thương, là mất mát, là tàn phá, là chia rẽ, cho dân tộc, cho đất nước, cho mọi người VN chúng ta, trong quá khứ, hiện tại, và ngay cả tương lai.
 

Ở đây, tôi không nói đến nguyên do vì sao có chiến tranh mà chỉ nói đến đau khổ, tang thương, hủy diệt , chia rẽ  nó mang lại cho dân tộc này. Tâm thế đó mới giúp chúng ta xem bộ phim nầy bình tĩnh hơn, thấm thía hơn.
 

Cuốn phim rất hay. Nó không nói nói nhiều về bên nào nhưng chỉ nói về đau khổ, mất mát, về tình yêu gia đình, tình yêu trai gái, về sự khủng khiếp của chiến tranh Một  bà mẹ ôm đứa con chết quấn trong cái khăn, đã bốc mùi trên tay, vẫn nghĩ nó còn sống, vẫn ru cho nó ngủ trong một nhà thờ chứa đầy người hốt hoảng tránh đạn, bom.
 

Phim được chiếu ở thời VNCH chỉ 2 lần, và bị cấm lưu hành, vì nội dung bị cho là "phản chiến”. Nhưng phim cũng không được cho phổ biến ở VN hiện nay. Tôi không hiểu lý do vì sao.

 Cuốn phim rất sâu sắc, rất nhân văn, nói về một gia đình ở Huế, trong thảm trạng sắp đối mặt cận kề với cái chết, dưới họng súng của 2 bên tham chiến, có con cái người tham gia bên nầy, bên kia, và một số hình ảnh biểu tượng cảnh chiến tranh, có chỗ không phân biệt đâu là dàn dựng, đâu là sử dụng tư liệu thật của phóng viên chiến trường.
 

Phim có những người nổi tiếng đóng như Trịnh Công Sơn (vai chính), Bích Hợp, Kim Cương, Bạch Lý, nhà văn Sơn Nam và cả Thành Lộc (lúc đó chỉ 8 tuổi). Cảnh quay đa phần ở Huế, tình tiết phim xảy ra chầm chậm, hình ảnh tối , âm u, có chọn lọc, đẹp, phảng phất nhiều hình ảnh nên thơ của nông thôn đặc trưng của cố đô.
 

Chúng ta xem phim với tâm thế của người muốn biết về quá khứ đau thương của dân tộc, không xem phim để...oán trách, căm thù, hay để gây thêm chia rẽ.
 

Câu thoại cuối của người mẹ trong lúc chạy loạn, khi đứa con gái bị đạn chết, được chôn lấp sơ sài, nói với 2 con còn lại: "Về nhà, chúng ta không đi đâu cả, có chết, hãy về nhà mà chết".
 

Ngôi nhà quê hương, ngôi nhà của mẹ.  Ngôi nhà VN thật rộng mở, thật bao dung vững chãi, thật thấm đẫm tình người. Phim có đoạn làm cho chúng ta rơi nước mắt nhưng cuối cùng nó cũng làm chúng thở một hơi dài nhẹ nhõm: đã qua rồi chiến tranh.

 Một cảnh trong phim Đất Khổ.

NGÔN NGỮ GƯƠM GIÁO

Người dân Việt Nam vốn hiền hòa và thân thiện. Nhiều người nước ngoài du lịch tới VN đều có nhận xét chung như vậy. Nhưng nếu họ biết tiếng Việt và thỉnh thoảng vào mạng xã hội, có lẽ họ sẽ có thêm nhận xét quý giá  hơn.

Những hiện tượng “đặc biệt”, lâu lâu xảy ra trong xã hội, ta thấy bản chất hiền hòa và thân thiện lại “sứt mẻ” đôi chút, ví như mấy tháng trước, chuyện cải cách tiếng Việt hay mới đây, sự ra mặt của Hiệp hội nhà vệ sinh VN.

Trước một sự kiện, mọi người thể hiện quyền tự do ngôn luận là chính đáng.
Yêu hay ghét, tán đồng hay đả kích, chấp nhận hay phủ nhận, tất cả là đương nhiên. Nhưng khác biệt suy nghĩ, chưa nói đến khác biệt tư tưởng, đã gây ra khác biệt ngôn ngữ. Biểu đạt ý nghĩ con người thì ngôn ngữ nhận nhiệm vụ “thánh chiến” tha hồ “vung gươm chém giết” “đối phương”. Hình ảnh, cả thật lẫn giả (nhờ photoshop, AI) xuất hiện tràn lan, kèm theo những chú thích cay chua có sức bào mòn còn hơn axit.

“Ta” và “địch” xuất hiện, bắn vào nhau nếu vấn đề chia rẽ cư dân mạng thành 2 phe.  Hoặc với  nhà chức trách với những sơ sót điều hành hoặc non nớt ứng xử của một số quan chức luôn là “thớt bằm” cho sự chửi bới nồng độ cao, có khi thành phỉ báng.

Thay vì có những bài phân tích sâu sắc những khiếm khuyết, thậm chí sai trái của những quan chức như thế (và thật may là đã có những bài như vậy) thì cư dân thế giới ảo tuôn ra không biết bao nhiêu gạch đá và gươm giáo…Ví dụ có người tức tối một ông lãnh đạo mô đó đã “hạ” một câu : “cái thằng già đầu bạc”…thế nọ thế kia mà quên nghĩ rằng ông cố, ông nội, hoặc có khi ông cha của mình, tóc sẽ “xanh” mãi khi 100 tuổi sao, và bà nội bà ngoại của mình tóc không bao giờ bạc?

Cũng có kẻ chửi những người Việt “chống cộng” là bọn “ba que” hay /// khi tranh luận về vấn đề nào đó (có khi không phải của mình mà của người, chuyện “cuồng” Trump vừa qua, hay bầu cử giữa kỳ của đảng Cộng hòa và đảng Dân chủ ở Mỹ).
Người chửi hiểu rất rõ tiếng Việt có chữ “xỏ lá, ba que” và cũng rất rõ đó là cách gọi xách mé khinh bỉ lá cờ vàng ba vạch đỏ một thời của một chế độ, và cả triệu người chết vì lá cờ thiêng liêng đó của họ. Chỉ vì tức giận mà họ đã khơi dậy và khoét sâu một vết thương dân tộc cho đến bây giờ vẫn còn rỉ máu.

Quý vị có thấy như tôi thấy hay không: Qua ngôn ngữ, vẫn còn một cuộc “chiến tranh” thầm lặng diễn ra thường xuyên và muôn hình vạn trạng. Chiến tranh Nam  Bắc trong quá khứ (Trịnh Nguyễn) và vừa qua đã ảnh hưởng ngôn ngữ chúng ta rất nhiều.

Chúng ta sau ngày “giải phóng” đã từng nghe “bọn  biệt kích văn hóa” (một số nhà văn, nhà thơ ở chế độ VNCH), “bọn tư sản, mại bản”; “bọn Mỹ -Ngụy”, “bọn ngụy quân ngụy quyền” “liếm gót ngoại bang”…Thật may, trong bộ sử hai mươi mấy cuốn sắp phát hành ở Hà Nội, do cố giáo sư Phan Huy Lê chủ biên, những danh xưng “thù địch” như trên đã được xóa bỏ.

Ngôn ngữ đã được chính trị gắn cho nhiệm vụ như “chống cộng”, “chống ngoại xâm”, “đấu tranh giai cấp” quyết định “ai thắng ai” (Bâng khuâng đứng giữa hai dòng nước/Chọn một dòng hay để nước trôi - Tố Hữu).

Sau mấy mươi  năm im tiếng súng, sau mấy chục năm nhận ra không phải “đào mồ chôn” tư bản, mà phải để nó “đồng hành cùng dân tộc”, ngôn ngữ vẫn còn cõng trên vai nhiệm vụ chính trị lâu dài như vậy hay sao?

Đâu là ngôn ngữ hiền hòa, thân thiện vốn có của người Việt Nam? Kẻ thù chúng ta là dân trí kém. Kẻ thù chúng ta là làm mãi vẫn nghèo. Kẻ thù chúng ta là kẻ luôn luôn đe dọa chủ quyền dân tộc, lãnh thổ. Kẻ thù chúng ta không thể nào là người Việt Nam.

Vậy, tại sao mỗi ngày trên mạng chúng ta luôn sử dụng với nhau ngôn ngữ của gươm giáo mà không phải là ngôn ngữ của yêu thương? “Tình thương xóa bỏ hận thù”(Phật). “Ai chơi gươm sẽ chết vì gươm”(Chúa).

Hơn nửa thế kỷ trước, Phạm Duy viết “Tâm ca”, có điệp khúc “ Kẻ thù ta đâu có phải là người/ Giết người đi thì ta ở với ai?”. Không còn vang vọng đến ngày hôm nay trong lòng mỗi người chúng ta hay sao?

 

NHƯ CỨT và sự ra đời của Hiệp hội Nhà vệ sinh.

Lẽ đáng phải viết tắt từ trên thành “như c.”. nhưng sợ nhầm lẫn một từ cũng bắt đầu bằng "c," để gọi bộ phận truyền giống của quý ông, nên mạo muội ghi đủ ký tự như trên. Ngôn ngữ biểu tỏ tình cảm rất phong phú trong tiếng Việt. Hỉ, nộ, ái, ố, dục, lạc, bi…đủ thất tình.

Quay lại đề tài “như cứt”. Nếu để ý chúng ta sẽ thấy Bill Gates, tỷ phú giàu có nhất nhì thế giới, cầm một lọ đựng “cứt” trên tay khi giới thiệu bồn cầu không nước ở Trung Quốc mới đây. Tôi vừa đọc một chương (trên Viet-studies) có tựa đề cũng “chính trị” lắm “ Cuộc cách mạng cầu tiêu tự động” (The Robo-Toilet Revolution trong cuốn "The Big Necessity: The Unmentionable World of Human Waste and Why It Matters " ("Nhu cầu vĩ đại: Thế giới chất thải không được nhắc tới của con người và tại sao nó quan trọng") của nhà nghiên cứu người Anh Rose George).

Các hãng làm bồn cầu TOTO, Inax, Matsushita mang lại lợi nhuận khổng lồ cho nước Nhật. Riêng TOTO, năm 2006, thu về 4, 2 tỷ đô la Mỹ. (trên 96 ngàn tỷ tiền Việt). "Đại gia bồn cầu" Standard American Mỹ năm 2002, chả có lấy 1 tiến sĩ nghiên cứu bồn cầu (bây giờ có 5 vị) thì TOTO đã có 1500 kỹ sư và người nghiên cứu bồn cầu.

Bài viết có 1 sự kiện lý thú. Hơn sáu, bảy chục năm trước, Nhật là xứ sở đầy hố xí, thô sơ có lẽ hơn VN (cùng thời điểm, người Việt thường “giải quyết tâm sự” ngoài đồng không mông quạnh hay xuống sông vì đa số dân ở nông thôn. Tục ngữ: nhất quận công, nhì ỉa đồng).

Tác giả còn mô tả, người Nhật không dùng nước dội cầu, ngồi xổm, dùng giấy báo, đá cuội, hoặc gậy (papers, stone, sticks) để …lau sạch. Nhưng nay, họ xài bồn cầu cao cấp Washlet còn nhiều hơn máy vi tính (more Japanese households now have a Washlet than a computer).

Còn ở Việt Nam? Trừ những gia đình thành phố, ở nông thôn cầu tiêu có thống kê chưa? Bao nhiêu cầu tiêu đạt chuẩn vệ sinh? Bao nhiêu hộ chưa có nhà vệ sinh? Ở trường học đã có đủ nhà vệ sinh cho học sinh, sinh viên, đạt tiêu chuẩn vệ sinh? Hay là vào đó…nín thở giải quyết, vội vã chạy ra, tránh xa như tránh dịch?

Các bệnh viện thì sao? Tôi đã điều trị ở bịnh viện  Ung Bướu thành phố HCM  thời gian dài, cách đây nhiều năm. Đi vệ sinh, bệnh nhân phải xếp hàng, trên tay lủng lẳng những chai nước thuốc truyền mạch đưa cao, sợ vướng người xếp hàng chờ vào nhà vệ sinh. Cứt vung vãi, nước tiểu đọng vàng trên nền cầu…Thở cũng chết mà nín thở cũng chết.

Nhưng khi có một "hiệp hội nhà vệ sinh" ra đời là toàn dân…mạng xúm vào xỉa xói chửi bới cay độc.

Tôi có mấy suy nghĩ:
-Người dân vốn “ác cảm” với những hội nhà nước lập ra. Rất nhiều quan chức hưu trí đảm nhận chức vụ, điều hành. Hễ là…quan chức, dẫu cựu hay nguyên, cũng đều bị nghi ngờ “động cơ”, tại sao lại có thái độ như vậy?
-Hiệu quả hoạt động của các hội do nhà nước lập ra thế nào? Tại sao người dân lại thiếu niềm tin vào ý muốn tốt đẹp của chính quyền?
-Những hội như vậy có tốn tiền ngân sách không? Hay tự thu tự chi? Bộ máy có to lớn lắm không? Có lẽ không tốn mấy. Trước đây có ông nào ở hội nhà văn xin cho hội 1 chiếc xe hơi để đi lại thấy cũng tội nghiệp chớ.
- Những người “dân thường” có được quyền lập…hội hay chưa?

Và tại sao việc ra đời của hiệp hội nhà vệ sinh lại nhận búa rìu dư luận? Việc cải thiện cái ị của người dân không đáng được quan tâm như tỷ phú Bill Gates đã quan tâm đến "lọ cứt" ông ta cầm trên tay và chương trình nhân đạo phổ biến bồn cầu không dùng nước cho những người người nghèo trên thế giới?

 Có chỗ nào khác biệt giữa suy nghĩ của người Việt Nam và của người ngoại quốc (như Nhật, Mỹ) về cái “ỉa đái “(xin lỗi, gọi đúng tên) của người dân hay không? Hay tại vì niềm tin đã cạn kiệt nhiều nên sự ra đời của “hiệp hội nhà vệ sinh” với mục đích vốn “cao cả” lại bị bỉ bôi khinh rẻ? Không hiểu nổi.

THÌ GIỜ LÀ TIỀN BẠC?

Nhiều người nghĩ như vậy nhưng tôi thấy sai. Chung ta dễ dàng thấy người ta phung phí thời gian rất nhiều vì nó chẳng quý báu như tiền bạc. Quý như tiền bạc chả ai dại gì “xài” thời gian tha hồ như chúng ta.

Dân chúng than vãn khó khăn nhưng mỗi chiều, cả những nhà hàng sang trọng luôn đông khách, các quán cóc bên lề nhan nhản… người ăn nhậu từ thành phố nhỏ lớn cho chí một số thị trấn nhỏ ở nông thôn. Khỏi thống kê mệt xác, nhờ con số hơn 4  tỷ lít bia mỗi năm, VN xếp hạng tiêu thụ thứ 2 châu Á sau bác TQ vượt mặt chú Nhật Bản.

 Ra quán không phải chỉ nâng lên hạ xuống một vài lần mà chí ít cả trăm lần ly bia sủi bọt đầy sảng khoái. Mỗi bàn bao nhiêu người, một cuộc nhậu bao nhiêu giờ đồng hồ, bao nhiêu người tham gia mỗi ngày: thời gian ở đây không còn như thể “thoi đưa” nữa mà kéo dài lai rai chậm rãi như đồng hồ ngưng chạy…“Ngày vui ngắn chẳng tày gang”.

Dân thì vậy còn quan thì sao? Họ không “nhậu” như dân nhưng dành nhiều thì giờ cho họp. Để được công nhận ấp xóa đói giảm nghèo: họp. Để được trao danh hiệu ấp văn hóa, nông thôn mới: họp. Bão bùng mưa lũ, ban chỉ đạo phòng chống lụt bão: họp. Có chủ trương nghị quyết chính sách mới: họp. Học tập và làm theo phong cách đạo đức Hồ Chí Minh: họp. Giải quyết chuyện quốc gia đại sự của quốc hội: họp.

Những cán bộ cấp thấp nhất cho đến cấp cao nhất ai cũng phải họp, và họp dường như gắn bó cả cuộc đời làm quan chức của mình. Họp gần như là lẽ sống. Có ai thống kê bao nhiêu thời gian dành cho bao nhiêu cuộc họp, gồm bao nhiêu người tham dự cả nước mỗi ngày này hay không? Thời gian họp có ảnh hưởng gì đến công việc hằng ngày của những “công bộc quốc gia” từ cơ sở đến trung ương?

Tôi thấy những vị lãnh đạo đáng kính của chúng ta cặm cụi đọc văn bản dày cộp trên tay trong mỗi kỳ họp quốc hội mà hết sức ái ngại. Thời gian của các vị không phải quý báu… mà vô cùng quý báu, phải là ở văn phòng làm việc riêng của từng vị, không phải ở hội trường to lớn “xuân thu nhị kỳ” như thế.

Những việc ở quốc hội như bầu cử, soạn luật, thông qua luật, phát biểu, chất vấn…bề bộn có ảnh hưởng gì đến công việc của các vị ấy hay không? Thôi, không bàn nữa, tôi muốn nói chuyện khác liên quan thời gian, nhưng quý giá hơn nhiều:
Đánh mất thời gian, chúng ta đã “đánh mất” thời gian chứ không phải “lãng phí” thời gian.

Trước 1966, ở miền Bắc, “hiện tượng” Kim Ngọc đã làm bực mình những vị lãnh đạo thời ấy. Những “bứt phá” về khoán nông nghiệp đã làm cho dân trong tỉnh của ông no đủ, thừa thóc nộp ngân sách, nhưng lại làm tiêu tan sự nghiệp chính trị của mình. Những năm sau 1986,ông Kim Ngọc được phục hồi danh dự, nhận danh hiệu anh hùng lao động…nhờ tư tưởng “đột phá”, tư tưởng sau này đem lại cảm hứng cho những người “phá rào” như Võ Văn Kiệt (Sài Gòn) mở màn cho bước đầu đổi mới, giúp dân thoát đói, giảm nghèo, giã từ quá khứ “kiên định”, “lập trường”,“tiến nhanh tiến mạnh”.

Ông Kim Ngọc mở đầu cho khoán hộ.

Chúng ta đã đánh mất thời gian trên 20 năm để có được một nhận định thức thời.
Hơn 50 năm trước những người sở hữu trên năm bảy hectare đất bị khốn đốn vì đa phần thuộc thành phần…địa chủ bóc lột, có người mất cả mạng sống, và cả gia đình con cái điêu đứng vì thành phần xuất thân, bị rẻ khinh, bị nghi ngờ, bị phân biệt đối xử…“Bọn bóc lột” vì nhiều ruộng đất thời đó là “tội đồ”.

Hơn nửa thế kỷ sau, đất nước bình yên, những người bây giờ thủ đắt hàng trăm, hàng ngàn hecta, có vị được ngợi ca như những … “anh hùng thời đổi mới”.
Nơi đâu có anh V, có anh Q. chị M. nơi đó có cờ hoa, có “pháo nổ” rợp trời.
Tại sao phải mất hơn nửa thế kỷ mới nhận ra  “tích lũy ruộng đất", làm giàu bằng ruộng đất, vừa ích cho mình, vừa ích cho người, không mang tiếng bóc lột… là dạng “diễn biến”, “chuyển hóa” thuận lòng người, hợp lẽ trời?

Rồi chúng ta mất bao nhiêu năm để thí điểm cho những mô hình sản xuất, đánh mất bao nhiêu sức lực toàn dân vào những thí nghiệm cứ ngỡ là mang lại ấm no hạnh phúc cho chính đồng bào của đất nước mình?
Những thay đổi trong tư tưởng từ những hoàn cảnh như đã xảy ra trong lịch sử gần đây của nước ta luôn bị đối xử “mạnh tay”: lúc nào cũng bị xem xét bằng con mắt hồ nghi, lúc nào cũng cần phải ngăn chặn vì sợ chuyển biến, chuyển hóa …đi chệch hướng con đường những vị “tiền bối” đã chọn cho dân tộc này.

Hai mươi năm sau, năm mươi năm sau, liệu số phận tư tưởng “diễn biến”, “chuyển hóa” đang bị lên án hiện nay có hạnh phúc được như số phận của tư tưởng diễn biến, chuyển hóa của Kim Ngọc hay không?

Và nếu là như thế, chúng ta lại đánh mất thời gian vàng ngọc của chính chúng ta hay sao?

Chúng ta “giàu có” thời gian như vậy à ? Tôi mong những phê phán hiện nay về tư tưởng “diễn biến”, “chuyển hóa” sẽ mãi mãi là chân lý để người Việt chúng ta không mang tiếng xem thường “thì giờ là tiền bạc”.

ĐƯỜNG ĐI CỦA THÀNH TÍCH

Nhận hành vi cho nhiều học sinh tát vào mặt một học trò là sai trái, cô giáo thành tâm nhận lỗi: Vì áp lực thi đua, lớp cô bị xếp cuối bảng thành tích từ đầu năm đến nay. Lỗi của học sinh bị tát là chửi thề, các “sao đỏ” theo dõi ghi vào “sổ đỏ” (lưu ý, không phải sổ đen).

Thời gian một học sinh sống với gia đình nhiều hơn ở trường, ảnh hưởng từ nhà trường không nhiều bằng ảnh hưởng gia đình và xã hội. Chửi thề, hay vô lễ  với người khác không dễ gì không “theo” cổng trường rồi vào lớp. Đào tạo đạo đức cho học sinh không phải trách nhiệm chính của thầy cô.

Truyền đạt kiến thức cho học sinh đã đặt nặng lên đôi vai người thầy. Càng nặng hơn khi phải dạy dỗ đạo đức: “chửi thề” “vô lễ” phải là “tiêu chí” cho “thi đua thành tích”. Thành tích ai cũng thích nhưng lại gọi nó là…bệnh, “bệnh thành tích”.

Ông Nguyễn Thiện Nhân cũng đã lao tâm khổ tứ với khẩu hiệu “nói không với bệnh thành tích trong giáo dục” mười mấy năm trước. Từ đó đến nay, bệnh thành tí ông nguyên bộ trưởng thành công hay thất bại?

Bệnh này không riêng của ngành giáo dục. Bệnh rất phổ biến, rất “đại trà”vì nó dễ lây lan, trớ trêu là ai cũng muốn…mắc bệnh. Thành tích có đi đôi tiến bộ không?
Nếu thành tích cả nước đúng như các bản báo cáo hay báo chí ghi nhận mấy chục năm qua: VN chúng ta bây giờ phải nằm trong tốp cao của những nước phát triển, chứ không phải lúc nào cũng lo lắng chuyện mượn, chuyện vay.

Thành tích công nhận các ấp văn hóa, khu phố văn hóa, xã văn hóa, tỷ lệ nghịch hay tỷ lệ thuận với mức phát triển văn hóa của xã hội?

Ảnh của báo Tiền Phong.

Giáo sư, tiến sĩ, nhà giáo ưu tú, nhà giáo nhân dân, nghệ sĩ ưu tú, nghệ sĩ nhân dân... ngày càng "hằng hà", liệu văn minh, văn hóa, giáo dục nước nhà đã được nâng lên “tầm cao mới”?
Thành tích tưởng đóng góp cho xã hội nhưng thật ra đóng góp cho thăng tiến của các quan chức háo danh.Thành tích nhiều: lên. Thành tích ít: xuống.
Nhưng xã hội ta đang lên hay đang xuống ?

Cái hại của chạy theo thành tích là khiến cấp dưới phải nói dối, phải báo cáo những con số không thực, để có “con số đẹp”. Cái hại của chạy theo thành tích là cấp trên, qua con số đẹp được báo cáo, sẽ có cái nhìn không thật về thực tế, dẫn đến những quyết định sai lầm có khi gây tác hại rất lớn.

Xứ ta có thành tích nổi tiếng nhiều lần về “sửa sai” và “rút kinh nghiệm”. Nhưng cái hại to lớn của chạy theo thành tích không chỉ làm cho sai lệch thực trạng. Cái hại nó đã tạo ra là sự dối trá, không trung thực, mà trung thực là đức tính hết sức quý báu để xây dựng xã hội tốt đẹp.

Học sinh bị tát 231 cái vào mặt chỉ là nạn nhân cỏn con của phong trào chạy theo thành tích. Càng chạy theo thành tích càng khiến con người trong xã hội càng dối trá với nhau hơn, càng chịu áp lực nhiều hơn. Nhưng không thành tích lấy đâu thăng tiến công tác? Nan giải.