Trước khi bàn đề tài này, tôi xin thưa, và muốn mở đề “lung khởi”, “rào trước đón sau” cũng rứa. Cho nó chắc. Nhưng thôi, nói cho mau: Mục đích bài viết không đào sâu chia rẽ Bắc-Nam.
Trước một thực tế có nhiều tên gọi khiến một số người Nam- thật ra là người Sài Gòn – không ưa. Ví dụ các tên gọi về các bảng (biển) báo hiệu giao thông. Cầu vượt hướng về bến xe Bình Triệu có chữ “Cầu vượt bằng thép”. Người Nam hay gọi sắt, không gọi thép, dù thép và sắt khác nhau. Bùng binh Bến Thành thành vòng xuyến (hay vòng xoay) Bến Thành. Giao lộ thay cho nút giao. Bịnh viện thành bệnh viện. Tân Sơn Nhứt thành Tân Sơn Nhất. Phi trường hay sân bay thành cảng hàng không. Ai là người “có quyền” gọi như thế? Có phải đây là tiếng miền Bắc?
Người miền Nam “mạnh miệng” bảo vệ “tiếng Miền Nam” nhiều nhất là ông Nguyễn Gia Việt. Ông viết: “Người Bắc lúc nào cũng nói văn học quốc ngữ của họ là chuẩn, lấy làm khuôn vàng thước ngọc, lấy Nam Phong tạp chí làm hình mẫu mặc dù Nam Phong tạp chí của xứ Bắc ra đời sau những tờ báo ở Nam Kỳ như Gia Định báo, Nông Cổ mín đàm, Lục tỉnh tân văn…và Nam Kỳ là nơi xiển dương chữ quốc ngữ đầu tiên ở VN”.
Ông viết tiếp: “Trong cuốn "Thi nhân Việt Nam" 1942, hai ông sĩ phu Bắc Hà Hoài Thanh, Hoài Chân liệt kê 45 thi sĩ VN hiện đại, duy nhứt ở Nam Kỳ có 2 vợ chồng Đông Hồ và Mộng Tuyết. Và kết luận: “Thi sĩ Đông Hồ là người Nam nhưng viết văn làm thơ theo cách thức kiểu Bắc”. Do đó: “Vì cùng chung "giọng văn" nên vợ chồng Đông Hồ và Mộng Tuyết được các nhà viết văn học sử gốc Bắc công nhận”.
Tôi chưa nghiên cứu về tác giả này. Nhưng đọc một số bài viết của ông trên facebook, tôi có nhận xét: Tri kiến của ông rất quảng bác về văn học, con người, đất đai, phong tục, tập quán Nam bộ (nhất là vùng lục tỉnh).
Nhưng cách nói về tiếng Việt như ông như thế sẽ gây sự chia rẽ nguy hiểm cho nền văn học nước nhà. Không thể vì: “Nam đọc "linh đinh", Bắc đọc "lênh đênh". Nam đọc "bịnh", Bắc đọc thành "bệnh", Nam đọc "gành", Bắc chuyển qua "ghềnh". Nam có "Cầu Kinh", Bắc tự đổi thành "Cầu Kênh" mà chúng ta coi Nam Bắc như hai nước khác nhau có ngôn ngữ ắt phải không giống nhau.
Có một sự thật là các nhà nghiên cứu, nhà văn, nhà thơ, họa sĩ, nhạc sĩ, trong lĩnh vực văn học, văn nghệ, nói chung là văn hóa, “người Bắc” chiếm đa số.
Trước đây, sau 1954, những trí thức miền Bắc di cư gầy dựng ở miền Nam một gia tài văn học, văn nghệ vô cùng phong phú và đa dạng.
Trong cuốn Hồi Ký của nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh nói về văn học, ngoại trừ Bùi Giáng loáng thoáng một vài câu nhận xét, kỳ dư tất cả những nhân vật nổi tiếng, có khen có chê, thuộc những người (ngày xưa chúng tôi gọi là) “bên kia vĩ tuyến”.
Tôi có hỏi (qua một comment) một nhà nghiên cứu, ông Lại Nguyên Ân, người có công rất lớn trong việc tìm tòi và khôi phục “tài sản” văn học đồ sộ của học giả người Quảng Nam ông Phan Khôi, đại ý, vì sao ông không có những tác phẩm nghiên cứu về nền văn học Miền Nam (sau 1954). Ông đáp, “tôi không có điều kiện tiếp cận đầy đủ tư liệu”. Nói ngay, ông đâu có thời giờ mà nghiên cứu văn học miền Nam. Trong chiến tranh, văn học chắc chắn bị chia làm hai. “Bên nào lo bên nấy”.
Và như thế, những nhà nghiên cứu hải ngoại đang làm công tác nhận định nền văn học đó. Tôi biết một vài người làm công việc vĩ đại ấy có Võ Phiến, Nguyễn Hưng Quốc…
Là người sống qua hai chế độ, ưa đọc sách, mến văn chương, tôi yêu các nhà văn nhà thơ sống (và chết) ở cả hai miền với hai chế độ khác nhau. Tiếc là không có điều kiện đọc các tác phẩm xuất bản sau 1975 của người Việt nước ngoài. Nhưng tôi vẫn yêu họ.
Tôi cũng tiếc là không có một công trình nghiên cứu đồ sộ nào bao quát tất cả tinh hoa văn học của nước Việt từ hai miền Nam, Bắc, và hải ngoại. Hay là đã có, đang có, và sắp có mà tôi không biết? Văn học nói chung, có được, và lưu giữ được là qua chữ viết, ngôn ngữ. Các nền văn học- vì hoàn cảnh lịch sử - không là của chung.
Là một người trình độ i-tờ về văn học, tôi muốn hai nền văn học Nam- Bắc trong chiến tranh trở nên một và cái một đó có cả nền văn học hải ngoại. Và tôi cũng rất buồn khi có người hô hào phải dùng “tiếng nói” của miền mình, không dùng tiếng nói của “miền kia”. Nếu có sự phân biệt vùng miền như thế trong ngôn ngữ thì sự phân biệt “vùng miền” sẽ còn mãi trong văn học. Ông Nguyễn Gia Việt, và tôi đoan chắc còn một số người miền Nam nữa, sẽ tán đồng câu nói này của ông; “Tại sao nhiều chữ của Miền Nam bị thủ tiêu và đưa chữ của Miền Bắc lên làm "chuẩn"?
Nhưng tôi không có trong số người Việt đó. Vì sao?
Tôi là người Quảng Nam “hay cãi”. Cãi (tranh biện) là lẽ sống của những người không chấp nhận suy nghĩ một chiều. Sau “ngày giải phóng”, tôi “vấp” ngay sự khác biệt ngôn ngữ mà ông Nguyễn Gia Việt nói tới.
Xem ti vi bị tắt, một chặp lâu, tôi thấy hiện ra chữ “sự cố kỹ thuật”. Hồi đó “sự cố” rất lạ mắt. Chúng tôi gọi là “trở ngại kỹ thuật”. Sinh viên chúng tôi tràn vào dinh Độc Lập, khi lễ kỷ niệm ngay sinh ông HCM,19.5.1975 kết thúc, để “coi” mấy ông lãnh đạo Việt Cộng như Trần Văn Trà, Huỳnh Tấn Phát, Nguyễn Hữu Thọ…ra sao. Họ ăn mặt tuềnh toàng, áo bỏ ra ngoài quần, mang dép râu, nhìn rất lè phè. Một giọng loa cực lớn phát ra: “Các em không được vào nhà lớn. Các em không được vào nhà lớn”. Nhà lớn là đại sảnh?
Rồi “đảm bảo” với “bảo đảm”; “chủ nghĩa xã hội” với “xã hội chủ nghĩa”. “Xây dựng gia đình” thay cho “lập gia đình”. “Quan hệ” thay cho “lấy nhau” (ăn ở, ngủ với nhau). “Đi lại” thay cho “di chuyển”. Chữ Thập Đỏ thay cho Hồng Thập Tự. “Lính thủy đánh bộ” thay cho “thủy quân lục chiến”. “Bộ đội” thay cho “quân đội”. “Mũ nồi xanh” để gọi binh sĩ gìn giữ hòa bình của Liên Hiệp Quốc. Đương nhiên, đế quốc Mỹ để gọi Hoa Kỳ (đúng ra là Hiệp Chúng quốc Hoa Kỳ). “Ngụy quân ngụy quyền” để chỉ quân đội và chính phủ Việt Nam Cộng hòa.
Ôi thôi, vừa thay đổi thể chế, gặp từ ngữ thay đổi, những người miền Nam chúng tôi cảm thấy “lộn tùng phèo” (hay lộn lòng phèo?). Trong tâm khảm, đa số họ có cảm giác “mất nước” là mất luôn ngôn ngữ. Nói như ông Nguyễn Văn Thiệu: Mất nước là mất tất cả.
Đâu phải vậy. Nước nào mà mất? Mất thể chế chứ làm sao mất nước.
Khi chính quyền bị “nắm” thì ngôn ngữ chắc chắn phải cũng phải bị “nắm” luôn. Đó là quy luật? Chưa hẳn đúng. Sau 1954, những người Bắc di cư có “nắm” chính quyền không, khi ngôn ngữ họ “mang theo” ảnh hướng rất lớn ngôn ngữ miền Nam. Họ mang một “loại” tiếng Việt vào Nam? Nhưng nếu loại tiếng Việt đó không được chấp nhận nơi đất mới, liệu những tác phẩm họ viết, là thứ tiếng Việt mà ông Nguyễn Gia Việt gọi là “tiếng Bắc” ấy, có được người miền Nam đón nhận không? Và những tác phẩm của các nhà văn nhà thơ tiền chiến và trước 1954 không được in và phổ biến rộng khắp trong giới học sinh, sinh viên, giới có học ở chế độ VNCH? Người miền Nam đều yêu mến và trân trọng cái “loại” tiếng Việt mang từ miền Bắc.
Tiếng Việt, như ông Nguyễn Gia Việt trích dẫn, là thứ tiếng Việt “Bắc kỳ”? “Ví dụ Nam đọc "linh đinh", Bắc đọc "lênh đênh". Nam đọc "bịnh", Bắc đọc thành "bệnh", Nam đọc "gành", Bắc chuyển qua "ghềnh". Nam có "Cầu Kinh", Bắc tự đổi thành "Cầu Kênh".
Nhưng tôi là người miền Nam (dù ở Trung) đâu thấy khó chịu khi đọc: “LÊNH ĐÊNH qua cửa thần phù/ Khéo tu thì nổi vụng tu thì chìm). “Huỳnh liên, huỳnh bá, huỳnh cầm (tên thuốc)/ BỆNH chưa được uống còn nằm mà rên/ Huỳnh cầm, huỳnh bá, huỳnh liên/ Uống vô nước nhứt BỆNH khiên ra gò”. Hay chữ Ghềnh trong: “Ví dầu cầu ván đóng đinh/Cầu tre lắc lẻo GẬP GHỀNH khó đi/ Khó đi mẹ dắt con đi/Con đi trường học, mẹ đi trường đời”. Hoặc chữ kênh trong câu: “Bao phen quạ nói với diều/ Ngã KÊNH Ông Hóng có nhiều vịt con”.
Đó là những từ “Bắc kỳ” mà người “Nam kỳ” đón nhận và đưa vào ca dao, thì có gọi là tiếng Bắc “khuất phục” tiếng Nam? Tiếng nào hai miền hiểu được thì đó là tiếng Việt. Tất nhiên khi đặt những tên gọi, nhà chức trách nên tôn trọng ngôn ngữ địa phương. Ví dụ không ai dám sửa tên (Trung tâm huấn luyện quốc gia) Nhổn. Nhổn là nghĩa gì? Nó có nghĩa lịch sử. Và như vậy, những tên gọi lịch sử ở miền Nam cũng cần ĐƯỢC ứng xử đúng mực- nghĩa là ứng xử có văn hóa. Không thể có quyền là có thể sửa tùy tiện bất cứ cái tên gì thuộc về lịch sử. Không thể bắt chước Stalin đặt lại Petersburg là Leningrad (Lịch sử xóa tên rồi, cái thành phố Lê Nin).
Ông Nguyễn Gia Việt bảo viết “hủ tiếu” là sai. Hủ tíu mới đúng. Ông dẫn chứng rất khoa học. Có từ nguyên hẳn hoi. Vì hủ tiếu là món ăn có từ lâu đời ở miền Nam. Hủ tiếu và hủ tíu cái nào sai, cái nào đúng. Tôi cũng ngọng luôn.
Ở Sài Gòn nhiều quán bán món này, thôi tha hồ hủ tiếu “chen chúc” với hủ tíu. Ngôn ngữ luôn luôn biến đổi. Hủ tíu gọi ra hủ tiếu hay ngược lại là do sự biến đổi nào đó.
Ngôn ngữ có hai thứ: Sinh ngữ và tử ngữ. Ngôn ngữ là sinh ngữ thì ngôn ngữ ấy mới sống. Có ai biết “chung cư” là sai; “chúng cư” mới đúng ngữ nguyên (Hán Việt). Nhưng bây giờ ai còn gọi chúng cư? Và cũng không thèm để ý chúng cư là chung cư. Như vậy, tiếng Việt cần có một viện Hàn Lâm để làm “chánh án” cho việc xử dụng đúng tiếng Việt. (Có người bảo là “sử dụng” mới đúng. Vậy tại sao không gọi “sử lý” mà gọi xử lý?)
Nguyễn Ngọc Bích là một trí thức hàng đầu VNCH (mất gần 10 năm ở Hoa Kỳ) nhận xét, khi có người hỏi có cần một viện hàn lâm như vậy không khi thấy tiếng Việt bây giờ nó “loạn cào cào” (chữ của tôi, không phải của ổng). Ông dứt khoát: “Không nên. Phải để ngôn ngữ hình thành và cải tiến một cách tự nhiên và linh động. Một Viện Hàn Lâm có thể là một bước tiến lúc ban đầu nhưng sau đó lại giam hãm ngôn ngữ trong một khuôn khổ cứng chắc khiến nó dần dần trở thành cằn cỗi.”
Ông Nguyễn Gia Kiểng một trí thức khác (tác giả cuốn sách nổi tiếng Tổ Quốc Ăn Năn): “Tôi không thể đồng ý hơn với anh. Tôi đang sống tại Pháp, nơi một Viện Hàn Lâm đã góp phần không nhỏ làm cho tiếng Pháp suy thoái dần”.
Do đó, có thể ngôn ngữ bị “áp đặt” trong hoàn cảnh lịch sử nhất định nào đó nhưng chắc chắn nó luôn luôn tự do sống với con người và cùng con người. Không có tiếng miền Nam. Không có tiếng miền Bắc. Chỉ có tiếng Việt Nam trong đó có tiếng của hai miền. Và bây giờ, đang có thêm tiếng Việt hải ngoại.