Saturday, June 24, 2023

CHÌA KHOÁ TÌNH YÊU

Đây không phải là cẩm nang giữ gìn hạnh phúc. Mà là cái khoá biểu lộ tình yêu vững bền, cô dâu chú rể “trăm năm hạnh phúc “.

Một chiếc khóa phơi ngoài trời chừng mười năm là thành sắt gỉ. Vậy mà dân Tây dùng những ổ khóa, ghi tên hai vợ chồng, hoặc hai người đang yêu, rồi khóa vào hàng rào sắt dọc lối đi dẫn vào nhà thờ trên đồi Monmartre, Paris. Hàng rào sắt trở thành hàng rào ổ khóa, không biết cơ man nào kể.

Có lẽ không chỉ của dân Gaulois. Du khách là những đôi uyên ương đến từ khắp nơi trên thế giới chắc không thể bỏ qua tập tục hiện đại này: bấm ổ vào hàng rào rồi vất chìa xuống sông Seine. Ông Tơ bà Nguyệt có đổi ý, xe duyên lại, cũng phải bó tay: sức lực đâu mà lặn xuống con sông sâu mấy thước, tìm cho ra cái chìa mở ổ khóa, thay đổi tơ duyên.

Chi chít các ổ khóa ghi tên các cặp tình nhân, có lẽ khắp nơi trên thế giới về đây du lịch. Nhìn kỹ, quý vị sẽ thấy tên tôi và một người nữa, bí mật cả đời nằm trên ổ khóa.

Xem ra tục này chẳng xi- nhê gì với người Việt Nam. Không cần khoá, vợ chồng sau khi cưới, dẫu có gặp đắng cay, u đầu mẻ trán, vợ chồng khó mà tan vỡ; phần lớn, người phụ nữ cam lòng chịu đựng để được tiếng vợ hiền, dâu thuận. Trong khi ly dị của những người phương Tây, giữ tình yêu bằng ổ khóa mà chìa liệng mất xuống sông, có tỉ lệ cao chót vót.

Mới hay, người VN có một ổ khóa khác kèm giữ hôn nhân chặt chẽ mãn đời: sự hy sinh của người phụ nữ? Hèn chi ở VN không thấy có chỗ nào ổ khóa tình yêu lồ lộ, tràn tràn như ở Pháp. Mấy cô, mấy bà “giấu kỹ” quá chăng?

THƯƠNG CÂY TRÁI QUÊ NHÀ

Không phải đứng núi này trông núi nọ , nhưng khi qua quê người tôi mới thấy thương quê nhà: trái cây.

Một quả đu đủ hơn 1 ký giá 20 euro (500 ngàn). Quả bơ không đắt bằng nhưng không thể ai thích thì mua ngay mà không chút đắn đo.

Trong khi ở quê nhà điệp khúc xót xa: được mùa mất giá hay được giá mất mùa. Tây nhìn trái cây ta mà thèm thuồng nhỏ dãi. Ta thì xem trái cây như rơm như rác vì ngập tràn số lượng, và ê hề chủng loại. Ở Đồng Nai, tôi từng chứng kiến người ta cho heo ăn chuối chín.

Hầu hết dân ta ở vùng nông nghiệp. Công nghiệp hoá và hiện đại hoá đang thay đổi bộ mặt nông thôn. Nhưng để thanh niên kéo nhau ra phố tìm việc làm hay bỏ đại học đi lao động xuất khẩu là nỗi đau cho đất nước. Là nước nông nghiệp, người nông dân không khá hơn trên dải đất màu mỡ này hay sao?

Nghe nhiều tuyên bố “tầm nhìn” của nhà chức trách chúng ta tràn trề hy vọng. Nhưng có một cái, không thấy ai đưa vào tầm nhìn: biến sản phẩm nông nghiệp “thô” thành sản phẩm có giá trị cao nhờ chế biến.

Hạt điều là “đại gia “ của VN. Phần Lan là “tiểu tốt” về cây điều. Vậy mà tiểu tốt đem sản phẩm của đại gia vào siêu thị khắp nước; biến hạt điều rang, nước điều ép thành thực phẩm cao cấp, giá ngất ngưởng.

Đi Tây nhớ Ta

CỔNG TRỜI, ba năm trước

Đây là tên địa điểm du lịch sinh thái phía cực tây rừng núi Quảng Nam. Ngoài hang động có "cổng trời", nơi đây còn có thêm 10 thác nước rải rác, gần nhau, theo một lối đi lên đỉnh núi.

Cổng trời  là nơi cao nhất, lên đến đỉnh, người ta có thể lên luôn trời nếu có được một chiếc thang tre. Mây trắng la đà trên đỉnh núi.

Từ Đà Nẵng đi Cổng Trời khoảng 85 km. Nếu từ trung tâm cải tạo An Điềm mà đi thì khoảng 20 km. Đường lên Cổng Trời quanh co, uốn lượn, chân núi xếp chồng chân núi. Tuy xa nhưng đường lên này không nguy hiểm như đường lên Bà Nà hay Langbian, không có các đường "cùi chõ", dễ gây ra tai nạn giao thông.

Trên con đường vắng vẻ trong rừng ngày càng cao, du khách đi xe máy sẽ cảm thấy an tâm, chừng 10 cây số đồi dốc, họ sẽ bắt gặp các khung nhựa  đựng bia La Rue trước lề đường một hay hai ngôi nhà:người dân tộc ở vùng này đã biết uống bia, không hẳn mỗi rượu cần như xưa. Ngay cả xăng lẻ cũng có bán. Chạy xe máy không sợ thiếu xăng. Xin lưu ý: hơn 30 km đường rừng, chỉ có một chỗ bán xăng. Xe số tiện lợi hơn xe tay ga.

Nhiều khách yêu du lịch mạo hiểm sinh thái đều có đến Cổng Trời; họ thăm thú hang động và tắm suối nước nhiều gần như đoạn sông nhỏ. Mang thức ăn, bia rượu, bạt, võng...để có một picnic hiếm hoi ở rừng sâu, khí hậu mùa hè mát mẻ không kém Bà Nà là một may mắn.

Tôi và một người anh thạo đường rừng lại không may mắn như những du khách đi trước: Cổng Trời đang xây dựng, cấm người vào. Quy mô xây dựng các công trình như khách sạn, nhà ăn, chùa, các lối đi bậc thang đến các thác nước...thật hoành tráng. Chỉ thấy nhà ban quản lý như khách sạn 5, 6 tầng, người ta nghĩ ra tầm vóc khu du lịch ở rừng sâu trong tương lai, nghe nói có cả sân bay trực thăng, ở một vùng núi non từng là nơi đánh nhau ác liệt nhất, ngột ngạt bom đạn chiến tranh. Quê tôi tơi tả trong quá  khứ nay có được khu du lịch thế này cũng xứng đáng. Có những người phấn khích nói như thế. Nghe đâu công trình có thể kéo dài trên 10 năm và rất hoành tráng.

Mừng cho quê hương nhưng cũng rầu cho tôi, chẳng được vào Cổng Trời để tắm thác, thăm thú hang động, thiên nhiên.

Trong rủi có may, trong xui có hên; chúng tôi bắt gặp một con suối khá lớn, gần nơi định đến chừng 200 mét. Không thác thì khe, khe suối nước chảy xiết qua các tảng đá, nước trong như kính. Gởi xe trong 1 ngôi nhà làm quán duy nhất có sân khá rộng, đậu sẵn 1 chiếc xe con bóng lộn.

Nước suối mát chưa từng thấy giữa mùa hè miền Trung nóng nực. Dầm mình trong nước như khi còn 5, 6 tuổi ở quê, bắt chước người tiền sử, tôi thấy một cảm giác thú vị, thoát trần, tự do, không còn vướng bận nào trên cơ thể. Tôi nghĩ quý vị sẽ cảm thấy như chúng tôi nếu tắm như tôi nói giữa núi rừng mênh mông; không màng “quy chuẩn” đạo đức, truyền thống ràng buộc nào cả. Tắm tiên. Đắm mình trong dòng nước mát, leo lên ngồi trên tảng đá, cầm lon bia nhâm nhi từng ngụm, nghe tiếng róc rách của nước, thấy những bọt nước sưới trắng lăn tăn như bọt bia, nhìn bầy cá nhỏ vừa bơi vừa như quan sát, bắt đầu làm quen và thử mồi những mẩu bánh mì chúng tôi rứt nhỏ, thả xuống.

Chuyến du hành bỗng dưng trở nên thú vị, và thú vị hơn, chúng tôi may mắn gặp 1 cô gái tầm 26 tuổi chủ quán người Katu. Nếu không nghe giọng nói tiếng Việt chưa ngọt, tôi nghĩ cô ta là người Kinh, xinh xắn, có nụ cười duyên dáng. 16 tuổi bị mẹ ép lấy chồng, một thanh niên hơn 6 tuổi là trưởng thôn. Cô có hai con, đứa đầu 10 tuổi, đứa kế 6 tuổi. Nếu không "khai lý lịch", tôi nghĩ cô chưa có chồng.

Bắt ép lấy chồng, cô có yêu chồng không? Cô lưỡng lự không trả lời, mỉm cười e thẹn. "Làm cán bộ đi nhiều lắm, về nhà lúc nào cũng say vì giao tế với dân, với cấp trên. Tối về có khi ngủ luôn tới sáng" Cô gái Katu này chất phác.

Thấy buổi nói chuyện giữa 3 người kéo dài, có thể dẫn đến tình huống trên mức thân mật, có khi thành suồng sã, tôi chủ động đứng lên chào cô gái, dắt xe nổ máy, trở về nhà.

Nhìn kính chiếu hậu và qua khúc cua bên hông nhà, quay lại chào, tôi thấy cô gái đang dõi mắt nhìn theo chúng tôi.

Lúc nãy, cô ta nói, khi khu du lịch đang xây dựng, cả mấy năm, không thấy khách. Cô ta tâm sự có người nói chuyện đỡ buồn, nơi rừng sâu cô quạnh, nhất là người Kinh, họ ăn nói "hiểu biết" và "tình cảm".

Có lẽ cô không hiểu, thấy cô xinh xắn, ai cũng mong bắt chuyện, kể cả chúng tôi, những người trước đây hơn 40 năm là thanh niên, cùng mấp mếm tuổi nhau.

Trên đường về, tôi cảm thấy bâng khuâng, bỗng dưng nhớ mấy câu trong bài hát của Trần Hoàn:

"Có cô sơn nữ miệng cười khúc khích ngắm anh lữ khách rồi lòng bâng khuâng". Ngược đời, lữ khách lại bâng khuâng chứ không phải cô gái duyên dáng này. Anh lữ khách bây giờ thành "ông" lữ khách...ông nội, ông ngoại rồi.

BIA ĐỨC

Khi biết tôi đi du lịch châu Âu, một người khuyên, nếu có đến Berlin hãy thưởng thức bia Đức.

Không là người ghiền bia nhưng tôi có khiếu cảm nhận bia ngon, bia dở, có khi vì tửu lượng nằm dưới trung bình. Quả thật,lần đầu tiên trong lịch sử uống bia, tôi thấy lời giới thiệu của người quen là đúng đắn. Ngon quá.

Không biết tả thế nào để quý vị cảm nhận được hai chữ “ngon quá”. Trước khi ngụm một hớp bia, tôi ngửi ra cái mùi thơm của hoa bia (houblon) trong tâm trí, dù chưa từng trực tiếp thấy nó. Sự tưởng tượng bao giờ cũng phong phú. Mường tượng ra hoa houblon làm nên ly bia sủi bọt, vàng óng, thơm lừng, cái vị ngòn ngọt, đăng đắng, lâng lâng ở đầu lưỡi, để lại một cảm giác tê tái trước khi hớp bia nhẹ nhàng đi vào bao tử. Tiếng A sung sướng nho nhỏ kéo dài, không khác tiếng Um hạnh phúc của một thiền sư vừa đắc đạo.

Trà tam rượu tứ. Uống rượu cần phải có người đối ẩm, mà bia lại cần…khẩn thiết hơn. Lần đầu tiên uống bia tươi (draft) tại vương quốc bia với một người anh quen qua Facebook. Anh định cư trên 30 năm tại Đức. Gốc người Hà Nội, kỹ sư từng tu nghiệp ở Trung Quốc, trông anh rất lịch lãm, dù trước đây, anh từng là…hạt giống đỏ. Tôi quen một số trí thức miền Bắc. Anh là một trong những người cởi mở và tiến bộ nhất, trong suy nghĩ của tôi. Thích nghi trào lưu tiến bộ xã hội khi chủ nghĩa cộng sản chứng tỏ sai lầm không dễ có ở những người tôi quen khi biết họ trưởng thành dưới mái trường XHCN.

Khi tôi vừa đến phi trường Berlin, anh nhắn tin mời tôi cà phê. Tôi hăng hái nhận lời ngay. Sáng sớm 8 giờ, anh và chị, chạy chiếc Audi cáu cạnh đến khách sạn khi tôi chưa kịp mở cửa đón ông bà.

Sau cà phê, ông bà đưa vợ chồng chúng tôi thăm một số nơi nổi tiếng của Berlin. (Tôi sẽ hầu chuyện quý vị trong những ngày tới, cảm nghĩ của mình về nước Đức). Nào đài tự do, công viên rừng (chỗ Trịnh Xuân Thanh bị tó), khải hoàn môn Brandenburg, bức tường ô nhục…

Nhưng phần thưởng thức bia Đức, đối với tôi, mới là quan trọng. Bởi nơi uống là “quê hương” thứ hai của người Việt tại Đức. Chợ Đồng Xuân. Nó toạ lạc trên khu đất rất rộng hàng mấy mẫu tây. Vào chợ, ngôn ngữ giao tiếp là tiếng Việt không phải tiếng Đức bởi đa phần chủ tiệm là người miền Bắc đến từ Đông Đức cũ.

Ở nước ngoài, nghe ai nói tiếng Việt, dù không quen, bạn vẫn có ngay cảm tình, tình quê hương. Tất cả các loại rau quả bán ở đây đều có như ở VN; hoặc nhập qua, hoặc trồng tại chỗ.

Anh chị mới gặp mời vợ chồng tôi ăn trưa, phở. Thật buồn cười, đi Tây lại thích ăn Ta. Hơn 1 tháng xứ người, cái chúng tôi nhớ nhất là cơm, đôi đũa, ớt, nước mắm và cá khô. Đặc biệt là các loại rau thơm.

(Như) rượu Hồng Đào (Quảng Nam) chưa nhấm đà say

Phở Nam Định tại đây ngon còn hơn phở tôi ăn ở Sài Gòn. Thiên vị chăng? Không. Vị phở đúng Bắc, không pha như ở miền Nam. Nhưng thật ra không ngon bằng bia uống kèm.

Mỗi tối, tôi đều uống một lon bia, ngay cả khi du lịch nước ngoài; bia như ở Phần Lan khá đắt, 4 đồng/ lon (chừng hơn 100 ngàn. Nhưng chưa thưởng thức bia tươi. Và phải nói ngay, bia đóng chai, đóng lon, hương vị không bao giờ bằng bia tươi (draft). Cái nước có vị vừa nồng, vừa thơm, vừa ngọt, vừa đắng, có màu vàng đậm, sủi tăm, như bọt nước sông mùa lũ, lại vừa tê tái, khiến bia tươi hơn hẳn bia đóng chai, đóng lon. Tôi không hiểu vì sao.

Từ tốn nhâm nhi ly bia, anh chị chủ mời thêm ly nữa; trong bụng rất ưng nhưng tôi nhẹ nhàng thoái thác. Ở đời, cái gì thiếu mới quý. Thèm mà không uống nữa, bia nó mới ngon. Quý hồ tinh, không quý hồ đa. Huống hồ tinh hoa ẩm thực: bia Đức.

Anh Duong Gia còn nói, nếu tôi sắp xếp được, anh sẽ dẫn đến chỗ uống bia nấu trực tiếp. Ở đây phải chờ để uống. Và không phải uống ly mà phải uống “thước”, gọi là bia thước. Cô phục vụ lực lưỡng sẽ khênh một khung gỗ to dài chừng 1 mét chứa trên đó 10 hay 12 ly bia to đùng. Uống bia thước phải có bạn bè. Mỗi ly bia gần như một lít.

Uống bia như uống nước, tôi nghĩ, nước giải khát. Đó là lý do bia Đức rất rẻ. Ở Ý, ở Pháp bia rẻ hơn ở Phần Lan nhưng không rẻ bằng Đức. Vào siêu thị, thấy 1 lon (nửa lít) để giá 0,6 rồi 0,7 rồi cao nhất là 1 đồng, tôi sửa lại mục kỉnh để quan sát cho tường, có đúng vậy không. Và đúng thật. Ôi, cái xứ hạnh phúc nhất thế giới (Phần Lan) bia đắt như vàng trong khi ở Đức bia bán như cho. Của rẻ, của hôi. Không dám đâu. Rẻ mà ngon, chỉ có bia Đức.

LỢI ÍCH CỦA VIỆC UỐNG BIA (với vợ)

- Không bị ép uống vì tửu lượng nam nữ khác nhau. Hơn nữa, chồng thường ép vợ chứ vợ không ép chồng.

- Lỡ có quá lời khi tửu nhập ngôn xuất, chồng cũng không bị bắt bẻ như uống với bạn bè hay cấp nhớn.

- Ít tốn tiền bia vì vợ tiết kiệm, và quan trọng nhất là “bả” giữ túi tiền.

- Không thể uống quá nhiều khi vợ luôn luôn nhắc: uống nhiều sẽ hại sức khỏe “của ông”.

- Khi nhậu xong với vợ, chồng không bao giờ bị sa ngã, ví dụ, ngả vào chỗ “nhạy cảm” nào đó.

- Chỉ vợ với chồng, nhậu sẽ không to tiếng. Chồng muốn cao giọng cũng phải dè dặt. Mất lòng vợ sẽ dẫn đến chấm dứt uống bia khi chồng muốn “lì một lam” nữa khi bia quá ngon.

- Bia vào lời ra, hứng lên, lỡ chửi bới nhà nước, chẳng sợ ai nghe ngoài vợ, nên được tiếng không mất lập trường, nghĩ sai quan điểm.

- Uống với vợ lỡ có say cũng được chở về bằng taxi; phụ nữ không thể dìu người say là đàn ông.

- Và điều quan trọng nhất, chỗ bia ngon, mắc tiền, chồng tha hồ uống, vì vợ là người chi tiền. Hầu bao sẽ không lưng bằng uống với bạn bè.

- Và điều quan trọng nữa: Tôi muốn xiển dương phụ nữ bình quyền. Tui nhậu bà cũng nhậu.

- Uống bia với vợ sẽ có nhiều sức khỏe, không phải: One beer a day keeps doctor away. Mỗi ngày một ly bia, bác sĩ cũng phải đi hia. Huống hồ nhiều ly.

- Phụ nữ rất dễ bị dụ dỗ. Uống ngà ngà xong, chồng dễ dàng dụ dỗ hơn, chẳng hạn “em có nhớ lúc cưới nhau, mình uống rượu giao bôi không?”.

Rượu giao bôi sao bằng bia giao bôi. Nhớ chớ. Ở nhà làm sao bằng khách sạn ngoại, bia ngoại, và nhứt là bà ngoại. Xin ngưng, nói thêm dễ sinh chuyện lắm.

BỨC TƯỜNG BÁ LINH VÀ NỖI BUỒN CÒN ĐÓ

(Khá dài trên 4700 từ không dành cho đọc giả ít thì giờ).

Phần I

Trong chuyến đi du lịch châu Âu, nước tôi muốn đến là Ý, Pháp và Thụy Sĩ. Lý do nhiều người biết: Ý, Pháp có rất nhiều điểm du lịch nổi tiếng. Nào là Đấu trường cổ La Mã hàng ngàn năm tuổi còn như nguyên vẹn. Vatican có đức Giáo hoàng, với nhà thờ thánh Phê-rô kỳ vĩ, lấy tên vì tông đồ tin cẩn của Jesus, thi hài chôn ở đó (Ý). Nào tháp Effeil ngạo nghễ, bảo tàng Louvre vĩ đại, đồi Monmartre lãng mạn rồi con sông Seine thơ mộng (Pháp). Thụy Sĩ thì khỏi chê. Người ta hay kháo “Đẹp như Thụy Sĩ”. Một đất nước mà mọi túi tiền quý giá trên thế giới đều muốn đem về đó để gởi, chưa kể cái nổi tiếng nhất hành tinh “đồng hồ Thụy Sĩ”.

Nhưng tôi chọn Đức thay vì Thụy Sĩ”. Đó là vì Bức Tường Bá Linh, dấu vết của một thời đen tối trong lịch sử chia cắt bởi chiến tranh. Đặc biệt, ở đó có nhiều người Việt từ hai miền Nam – Bắc, do hoàn cảnh chiến tranh, sinh sống và học tập ở hai miền Đông và Tây nước Đức.

Nghe thì buồn cười nhưng đó là sự thật tự đáy lòng.Tôi muốn biết một đất nước có hoàn cảnh như đất nước tôi: từng bị chia cắt và chữa lành vết thương chiến tranh như thế nào.

Lý do chia cắt thì nhiều, nhưng hàng đầu, phải kể là ý muốn của các cường quốc, dưới hình thái “ý thức hệ”, một bên gọi là khối cộng sản và một bên là khối tự do (thật ra là tư bản).

Sự chia cắt giống nhau nhưng hoàn cảnh chia cắt khác nhau. Đức của Hitler là nước bại trận. Bên thua cuộc phải chịu khuất phục bởi bên thắng cuộc. Chia để trị. Những nước thắng trận phân làm 2 phe, một đứng đầu là Liên Xô và bên kia là Mỹ và các đồng minh Anh, Pháp (thực sự ông này chỉ “ăn có” mà thôi). Đông Đức theo cộng sản và Tây Đức theo tư bản, cũng giông giống Nam- Bắc Triều Tiên và Việt Nam (VNCH và VNDCCH).

Lằn ranh chia cắt, thay vì con sông, lại là bức tường; trước 1975, chúng tôi hay nghe báo chí phương Tây gọi là Bức Tường Ô Nhục (vì làm theo lệnh của Liên Xô, nước chiếm đóng). Tuy xây năm 1961 nhưng bức tường Berlin là biểu tượng chia cắt đất nước khi Đức bị tách làm đôi năm 1945.

Việt Nam không bị chia cắt như Triều Tiên hay Đức bởi sự áp đặt trực tiếp của các cường quốc thắng trận đệ nhị thế chiến. Nhưng hiệp định Geneve năm 1954, theo một số tư liệu lịch sử, cũng không phải là ý muốn của người Việt Nam, mà là của Pháp ( phía sau là Mỹ) và Trung Cộng. Có dư luận cho rằng, phía Việt Minh bị Chu Ân Lai “hù dọa”, đại để, “nếu không ký hiệp định, Mỹ nó nhảy vào như ở Triều Tiên, các đồng chí sẽ không có chỗ dung thân”. Một số người suy nghĩ, sự lật lọng của Mỹ và ông Ngô Đình Diệm, không tổ chức tổng tuyển cử toàn quốc, dẫn đến chia đôi đất nước, tạo cớ cho người Mỹ và “chư hầu” đem quân vào, cuộc chiến tranh đẫm máu diễn ra sau đó.

Một người bình thường như tôi cũng thấy điều ấy chưa thỏa đáng. Lý do, nếu không rắp tâm chia cắt Việt Nam thì sự tranh luận về “biên giới” - tức là vĩ tuyến nào - sẽ không quyết liệt trong thương nghị giữa Pháp và Việt Minh, đồng thời Mỹ và Bảo Đại (lãnh đạo chính phủ Quốc gia Việt Nam) đã ký vào hiệp định Geneve 1954. Lý do không ký: Mỹ tham dự hội nghị với tư cách là quan sát viên; họ không đồng ý các điều khoản của hiệp định vì sẽ nó gây nguy cơ cho lợi ích chiến lược của mình ở Đông Nam Á và sẽ tạo điều kiện cho sự lan rộng của chủ nghĩa cộng sản. Quốc gia Việt Nam của Bảo Đại cũng không ký vào hiệp định vì cho rằng nó sẽ gây chia cắt Việt Nam và đẩy quốc gia này vào thế nguy hiểm. Quốc gia Việt Nam ủy quyền cho Pháp tham gia trực tiếp đàm phán với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhưng không đồng ý với kết quả cuối cùng. Đó cũng là lý do khiến gần một triệu người bỏ nhà cửa, ruộng vườn, mồ mả cha ông, gánh gồng nhau vào Nam để mong có cuộc đời mới. Họ trốn chạy chính phủ Việt Minh (thực ra là cộng sản).

Nếu chia cắt tạm thời để tổ chức tổng tuyển cử theo điều khoản hiệp định hòa bình, thì chẳng người dân nào muốn rời bỏ quê hương bổn xứ với số lượng khổng lồ như vậy đối với một đất nước lúc đó chỉ có khoảng 27, 5 triệu người.

Như vậy, việc chia cắt đăt nước của Đức và Việt Nam đều đi ngược lại nguyện vọng của nhân dân hai nước. (Tôi chắc chắnTriều Tiên cũng vậy. Các nước nhược tiểu, bại trận là trò chơi trên bàn cờ quốc tế).

Đến Đức  để du lịch, tôi muốn “tai nghe mắt thấy” bức tường Berlin, để lý giải tại sao, chỉ cần xô ngã nó, một nước từng là nạn nhân của các cường  quốc, như nước tôi, trở thành một nước hoàn toàn thống nhất, hoàn toàn hòa giải và hòa hợp dân tộc, rồi trở thành nước hùng mạnh nhất châu Âu. Họ không phải đánh nhau chí tử hàng thập kỷ, hàng triệu người bỏ mạng, đất nước hứng hàng triệu tấn đạn bom, hàng trăm ngàn lít hóa chất khai quang…và điều quan trọng nhất, người Đức ngày nay có còn thù hằn nhau, cay cú nhau, chửi bới nhau, chì chiết nhau, chia rẽ nhau, mỗi lần có một sự kiện nào đó liên quan đến sự chia cắt đất nước họ trong quá khứ hay không?

Qua tìm hiểu, tôi thấy ra một điều tréo ngoe và ngộ nghĩnh. Tréo ngoe ở chỗ: Nếu Tây Đức được Đông Đức giải phóng, liệu nước xã hội chủ nghĩa này có bỏ ra 2000 tỷ Mỹ kim để giúp đồng bào mình nâng cao cuộc sống vật chất và tinh thần như Tây Đức đã làm? Bởi họ quá nghèo và chưa chắc họ muốn. Tây Đức tư bản cần phải bị trừng phạt theo quan điểm đấu tranh giai cấp.  Và ngộ nghĩnh ở chỗ: Đó là tiền đóng góp (chủ yếu) của dân Tây Đức  gọi là “thuế đoàn kết” (Solidaritätszuschlag). Đến năm 2021, thuế này chỉ đóng đối với ai có thu nhập trên 109.000 euros/năm.

Vì sao “nước” tư bản bóc lột Tây Đức lại hào phóng như vậy?

Có mấy lý do: Đức là một dân tộc thực sự gắn bó nhau, ý thức hệ - nói trắng ra, chủ nghĩa cộng sản -  không chia cắt được họ. Họ có chung một quá khứ, oai hùng, với ngọn cờ “dân tộc thượng đẳng” dưới sự khởi xướng và khích động bởi trùm phát xít Hitler. Nước Đức sẽ hùng mạnh hơn nếu họ không gây chiến tranh xâm lược, bị đồng minh và Liên Xô đánh bại. Sau khi chia rẽ họ dễ dàng đoàn kết. Là dân châu Âu nhưng  họ “học Việt Nam” rất giỏi câu ca dao: “Bầu ơi thương lấy bí cùng. Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”.

Chứng kiến sự xây dựng kỳ vĩ của người Đức tại Berlin, tôi thật sự nể phục. Nghe nói các thành phố khác quy mô xây dựng, có chỗ, còn bỏ xa thủ đô Berlin như Frankfurt am Main hoặc München. Chưa đi Mỹ, tôi không hình dung, có đại lộ nào người ta trồng hai hàng cây to ở giữa những làn xe xuôi ngược? Đến thủ đô, theo lời một người bạn tôi, vấn đề đau đầu nhất là chỗ đỗ xe. Pháp, Ý, Phần Lan xe hơi rất nhiều nhưng chả bõ bèn gì nước Đức, xe hơi nhiều như kiến. Đường sá thênh thang, vậy mà, người ta lại còn cải tạo đại lộ cho …hẹp hơn để… dành đường cho người đi bộ và đi xe đạp!

Từ chỗ, lúc bức tường sụp đổ, mỗi người Đông Đức được phép đổi một mác của mình để lấy một mác của Tây Đức, đối với ai có dưới 4000 đồng; người có trên 4000 đồng phải đổi hai đồng để lấy một. Họ chẳng “khôn” “như người VN, nhờ  đổi giùm ăn huê hổng lúc đổi tiền sau ngày “giải phóng”.

Giờ đây, mức sống của hai miền chưa hẳn như nhau nhưng đời sống tinh thần của họ đều hưởng thụ các phúc lợi công cộng không khác nhau.

Chuyện nhỏ nhưng giá trị không nhỏ; nó chứng tỏ người ta chăm lo tận tình đời sống tinh thần của người nghèo Đông Đức. Tôi không đề cập chuyện cấp nhà cho người vô gia cư, đối xử với phụ nữ và trẻ con, chuyện trợ cấp xã hội, chuyện y tế, giáo dục…Những biểu hiện của một nước giàu có và văn minh, ai ai cũng biết. Bạn quen của tôi, anh Dương Già, ở Berlin  trên 30 năm, kể chuyện vui nhưng có thật.

Anh có sở thích nuôi nhiều loại chim vẹt (ở Quảng Nam gọi là chim két). Nay không được phép vì có luật bảo vệ chim muông. Chỉ được phép nuôi chim vẹt Hồng Công vì nó không nằm trong danh sách bảo tồn. Nhưng người nuôi phải có giấy chứng nhận của thú y. Và chỉ được nuôi một con. Một ví dụ khác. Nếu nhà có chuột, chính quyền cấm bắt chúng bằng kẹp, tức bẫy chuột. Người dân chỉ được phép diệt chuột bằng thuốc…độc. Vì sao? Để chuột không dãy giụa đau đớn trên bẫy có hàng răng nhọn hoắc. Chuột phải có quyền chết không đau đớn. Nó giống thuốc độc dành cho tù nhân chịu án tử hình. Chuột cũng như người cần bị giết một cách êm thấm. Thế mới nhân đạo, thế mới văn minh!

Một thành phố lớn như Berlin lại có một công viên rừng như rừng. Trong đó có suối, có khe như sông nhỏ, có bãi cỏ, có thú rừng, có chim muông.

Chỗ rừng chạy dọc theo những đại lộ được rào bằng thép không gắn gai nhọn để ngăn thú hoang có thể gặp tai nạn như xe…cán lên người.

Đi khắp thành phố, tôi không thấy nơi nào dựng tượng Helmut Kohl, có thể ví như vị cha già dân tộc, với công trạng thống nhất nước Đức và có chính sách rõ ràng trong vấn đề hòa giải và hòa hợp dân tộc; không rõ chính phủ Đức có ban thành luật hay không, một chính sách cụ thể, như vụ đổi tiền, một ăn một cho người nghèo, hay cấp tiền cho dân Đông Đức qua Tây Đức mua hàng hóa tư bản giãy chết khi bức tường mới bị đập phá đang thu dọn.

Ở một chỗ quan trọng trên một đại lộ, tôi thấy có tượng Karl Marx- và Friedrich Engels (ông đứng, ông ngồi. Phải chi  họ “đứng” hết thì hay) ở quận Mitte trung tâm thủ đô. Nó được xây dựng bởi chính quyền Cộng hòa Dân chủ Đức (GDR) vào năm 1986, bằng tiền tặng của Trung Quốc.

Ở một số nước, khi lên cầm quyền, giai cấp cai trị mới thường hay đập phá những thành quả hay những biểu tượng tinh thần của giai cấp cai trị trước, nhất là các tượng đài, gọi là “hành động cách mạng”. Nếu đã là cách mạng thì tượng hai ông tổ cộng sản, người gián tiếp chia rẽ nước Đức này cần nên…hạ bệ. Nhưng ở Đức thời thống nhất, tôi thấy là không. Bạn tôi chỉ một nhà máy sát chợ Đồng Xuân (ở thủ đô) rất cũ kỹ có cột thoát khoái cao tận trời xanh đang bỏ hoang. Tại sao không đập để xây cái khác, bạn tôi nói, người Đức muốn giữ lại kỷ niệm một thời rất tự hào của những công nhân Đông Đức.

Ở phần Đông Berlin, anh chỉ cho tôi những tòa chung cư cao ngất, trông rất cổ lỗ và thô kệch, chúng vẫn còn đươc sử dụng. Anh nói, nhiều người Đức còn tưởng nhớ công lao ông bí thư trị vì lâu nhất, người hăng hái ủng hộ việc xây lên bức tường ô nhục, Erich Honecker. Chính nhờ ông, dân lao động Đóng Đức không phải ở nhà mướn, chật vật như công nhân ta ở Việt Nam.

Sự hòa giải nằm sâu trong tâm trí của mỗi người dân Đức chứ không phải chỉ ở chủ trương hay chính sách.Trong khi một tướng lĩnh chế độ VNCH ở tù tới 17 năm trời không xét xử (Lê Minh Đảo) thì ở một nước “lệ thuộc” đế quốc Mỹ cọp beo, Erich Honecker, cựu lãnh đạo Đông Đức, và Erich Mielke, cựu trưởng cơ quan an ninh Stasi chuyen đi đàn áp nhân dân, bị đưa ra xét xử vì tội ác chống nhân loại và giết người. Tuy nhiên, họ không bao giờ phải chịu án phạt vì lý do sức khỏe hoặc được tha bổng.

Có thể nước Đức không trải qua cuộc chiến tranh khốc liệt và đẫm máu, kéo dài quá lâu như ở VN nên họ có lòng bao dung hơn chăng? Nhưng để một nửa nước Đức nghèo khổ, thiếu dân chủ tự do, sai lầm trong kinh tế, quản trị xã hội một cách toàn trị, theo hùa Liên Xô (ủng hộ xây bức tường chia cắt đất nước), rồi ra lệnh bắn chết những ai vượt tường qua Tây Đức (171 người chưa kể hàng tram số khác không ai hay biết) để đoàn tụ gia đình hay tìm kiếm tự do, thủ tiêu người chóng đối, lại không lãnh án một ngày tù nào trong song sắt? Ở phòng triển lãm di tích lịch sử bức tường Bá Linh có một bàn chông sắt (duy nhất trưng bày trong các dụng cụ dã man của sự chia cắt). Tên của bàn chông ấy được người Đức gọi là Stalin’s Lawn, luống cỏ của Stalin.

Tại sao họ không đặt tên bàn chông theo danh tính vị bí thư cộng sản hàng đầu của Đông Đức mà là của Liên Xô? Bởi họ nghĩ, có “ông anh cả” là có “chông” có “gai”. Dân Đức bội ơn quá. Không như ở VN:

“Xta-lin ơi!

Hỡi ôi Ông mất, đất trời có không?

Thương cha, thương mẹ, thương chồng

Thương mình thương một, thương Ông thương mười”.

Tại sao người Đức lại “chỉ tay” về Stalin người đứng đầu phe xã hội chủ nghĩa, lừng danh một thuở? Đó cũng là lý do, tôi trộm nghĩ, giải thích tại sao người Tây Đức xử sự rất nhân bản đối với người Đông Đức, ngay cả đối với người “đã rước” chủ nghĩa cộng sản về áp đặt cho đồng bào mình ở một nửa đất nước.

Có thể người Đức là chủng tộc nằm ở châu Âu, văn minh cao, có nền văn hóa lâu đời, nên sự hành xử của họ đối với “kẻ thù” rất là nhân ái? Không hẳn. Ở châu Á, có một nước bé nhỏ sát nách chúng ta. Thái độ đối xử với một chính quyền diệt chủng của chính quyền sau đó còn nhân bản hơn nước Đức thống nhất. Xét xử mấy đao phủ giết hang triệu đồng bào, người ta cũng nấn ná, cho đến khi tay trùm giết người bị chết. Lẽ ra phải xử bắn họ tức thì để cho nạn nhân bị đập đầu đến chết mỉm cười nơi chin suối. Những người tham gia chính quyền Khmer đỏ hầu hết đều được lưu dung.

Lịch sử trong nhà trường Campuchia nhắc rât ít tội ác của bọn khát máu nhất hành tinh, nghe đâu, chỉ mấy dòng bên ảnh của Polpot, đại khái “người này chịu trách nhiệm hằng triệu cái chết của đồng bào Khmer”.

Tầm nhìn chứ không hẳn là lòng bao dung nhân ái của những vị lãnh đạo quốc gia như ở Đức, ở Miên, làm cho quốc gia họ ngày càng phát triển nhờ sớm xóa bỏ hận thù và đoàn kết dân tộc.

Hận thù gác lại để dân tộc vươn lên. Không phải quên đi quá khứ nhưng đừng để nó cản trở tương lai. Đức, Miên có lẽ may mắn có những vị nguyên thủ quốc gia có tầm nhìn vĩ đại. Nếu gặm nhấm quá khứ, khơi gợi mãi thương đau, Campuchia đã không đoàn kết dân tộc dễ dàng. Thân thiết với Trung Cộng nhưng cho con du học Mỹ, trường quân sự West Point hàng đầu thế giới, Hunsen là lãnh đạo có trí tuệ.

Khi quan sát những hình ảnh vẽ trên những đoạn bức tường Berlin còn chừa lại, tôi thấy nhận định của tôi có cơ sở: không có hình ảnh nào gợi lại quá khứ chia cắt đau thương. Toàn là những bức vẽ nghệ thuật, nghe đâu, có dành một đoạn cho các họa sĩ Nhật Bản, một đất nước vừa là kẻ gây ra chiến tranh vừa là nạn nhân chiến tranh (của bom nguyên tử).

Trong tòa nhà trưng bày chứng tích bức tường chia cắt, những hình ảnh, lời thuyết minh (tiếng Anh cũng có), tôi cảm nhận, sự thật lịch sử nhắc lại, nỗi ân oán gác vào một chỗ để tút ra bài học cho thế hệ tương lai, hiểu rõ giá trị của một đất nước không có bức tường chia cắt nào.

Phần II

Đông Đức và Tây Đức nhắc tôi nhớ đến miền Bắc và miền Nam. Nước tôi bị các cường quốc đối nghịch ý thức hệ cố tình chia cắt, mặc kệ mong muốn chân chính “Nước VN là một, dân tộc VN là một; sông có thể cạn, núi có thể mòn song chân lý ấy không bao giờ thay đổi” (Hồ Chí Minh thì phải).

Nước Đức thống nhất trong hòa bình nên không có sự mâu thuẫn giữa con người Đông và Tây (Đức)? Không. Mâu thuẫn của họ rõ rệt ở các điểm:

•  Về kinh tế: Người Đông Đức có thu nhập thấp hơn, thất nghiệp cao hơn và năng suất kém hơn so với người Tây Đức. Nhiều người phía Đông phải di cư sang phía Tây để tìm việc làm, trong khi nhiều công ty lớn đặt trụ sở ở phía Tây. Nhiều người Tây Đức cho rằng người Đông Đức lười biếng, không thích ứng với kinh tế thị trường, trong khi người Đông Đức lại nói người Tây Đức tham lam và muốn phá hỏng văn hóa và giá trị của mình.

•  Về chính trị: Người Đông Đức có xu hướng ủng hộ các đảng cánh tả hoặc cánh hữu cực đoan hơn so với người Tây Đức. Nhiều người Đông Đức cảm thấy bị bỏ rơi và bất bình đẳng bởi chính quyền liên bang và các cơ quan nhà nước, trong khi người Tây Đức lo ngại về sự gia tăng của chủ nghĩa quốc gia và chủ nghĩa xã hội ở nước Đức thống nhất.

•  Về nhận thức: Người Đông Đức và người Tây Đức vẫn có những khác biệt về lịch sử, giáo dục, văn hóa và giá trị xã hội.  Người Đông Đức tự hào về mình và mặc cảm họ là những công dân hạng hai, trong khi nhiều người Tây Đức lại coi mình là chuẩn mực và không quan tâm đến cuộc sống của người Đông Đức.

Mâu thuẫn ấy có giống như mâu thuẫn của những người ở miền Bắc và miền Nam sau 1975? Hay sự mâu thuẫn còn sâu sắc hơn và cay đắng hơn?

Tôi không dám so sánh ở từng phương diện. Việc ấy ngoài tầm hiểu biết cá nhân. Quan trọng hơn, mọi sự so sánh đều “nguy hiểm”. So sánh giữa một bên thắng cuộc và một bên thua cuộc không bao giờ có được sự đồng thuận dẫu cho sự so sánh ấy có khoa học đi chăng nữa. Mà tôi cũng không thể là nhà khoa học xã hội có thể đưa nhận định đúng đắn và vô tư.

Tôi chỉ thấy một điểm này. Nước Đức thống nhất trong mâu thuẫn (như nêu ở trên) nhưng mâu thuẫn ấy không có tính chất “một mất, một còn”. Ví dụ: Không một con em nào của những tướng tá hay quan chức VNCH nằm trong guồng máy điều hành cấp trung, cao của chế độ từ năm 1975 cho đến nay. Nhưng ở Đức, một người trong lò đào tạo thanh niên cộng sản, bà Angela Merkel, lại làm đến chức thủ tướng, chính trị gia có công đưa kinh tế Đức vào tốp đầu cộng đồng các nước châu Âu và hùng mạnh trên thế giới.

Vì sao sự đóng góp của một cá nhân vào sự phát triển của đất nước không căn cứ vào lý lịch quá khứ của bản thân người đó? Nếu Đông Đức giải phóng Tây Đức, liệu một người ở Bonn (thủ đô Cộng hòa Liên bang Đức) có thể đảm nhiệm vai trò thủ tướng? Và, để câu hỏi thêm rốt ráo, tôi có thể nêu ra, nếu VNCH giải phóng VNDCCH thì một người xuất thân là đoàn viên thanh niên cộng sản HCM có được ứng cử vào cương vị tổng thống một nước VN thống nhất không?

Không có câu trả lời, tôi chắc thế, vì chuyện đó không xảy ra. Chế độ Sài Gòn bị sụp đổ chứ không phải chế độ ở Hà Nội.

Đôi khi tôi nghĩ người Đức bao dung hơn người Việt. Nhưng nghĩ kỹ, không phải chỉ là bao dung. Chính trí tuệ của họ. Nếu ở VN một ông Việt mang dòng máu Tây có thể làm được bí thư xã hay không (tôi không nói cỡ thủ tướng)? Không bao giờ. Nhưng ở Đức thì có; một ông Tây gốc Việt (Philip Rosler) sinh ở Bạc Liêu (nay là Sóc Trăng) làm đến chức phó thủ tướng, chủ tịch của một đảng phái mạnh, người quyền lực thứ hai của một đất nước hung mạnh nhất châu Âu. Ông Tây gốc Việt này làm lớn nhờ lòng bao dung và nhân ái của người Đức chăng? Không. Tài năng chính là nấc thang dẫn ông lên đỉnh cao danh dự. Và trí tuệ người Đức.

Lãnh đạo có tầm nhìn hòa giải quốc tế. Thủ tướng Tây Đức Willy Brandt tự nguyện quỳ gối xin lỗi nhân dân Ba Lan năm 1970, trước tượng đài ghi dấu 5 triệu người (có 3 triệu người Do Thái) bị Đức quốc xã giết chết.

Nước Việt Nam thống nhất; những tinh hoa nước Việt trên khắp thế giới xuất thân là con em những người trưởng thành dưới chế độ VNCH có ai được trọng dụng trong chính quyền, kể cả trong xã hội? Có nhưng rất ít, và hầu như không đáng kể. Có một ông giáo sư Việt kiều nào được bổ nhiệm làm hiệu trưởng một trường trung học, tôi chưa nói một trường đại học cấp quốc gia. Tôi muốn nói trọng dụng một cách chân thành.

Chắc quý vị đều biết một số người tôi nêu ra đây.

- Về quân sự, người Mỹ gốc Việt đang hoạt động trong quân đội Mỹ. Họ là:

• Thiếu Tướng Viet Xuan Luong, chỉ huy quân đội Mỹ tại Nhật Bản.

•  Thiếu Tướng Lapthe Flora, chỉ huy lực lượng liên quân chống khủng bố ở Châu Phi.

• Thiếu Tướng William H. Seely III, giám đốc tình báo của Thủy Quân Lục Chiến Mỹ; (cha Mỹ/mẹ Việt)

•  Đô Đốc Binh T. Nguyen, chỉ huy lực lượng hải quân Mỹ tại châu Âu và châu Phi, chỉ huy lực lượng hải quân NATO tại Nam Âu.

- Về khoa học:

Bà Nguyễn Thị Kim Oanh đã tham gia vào dự án chế tạo hàng không mẫu hạm USS Gerald R. Ford, lớp tàu sân bay mới nhất và hiện đại nhất của hải quân Hoa Kỳ.

Bà Dương Nguyệt Anh chế tạo ra hơn 11 loại vũ khí cung cấp cho hải quân Mỹ; từng lãnh đạo một nhóm gần 100 nhà khoa học, kỹ sư để phát triển và triển khai loại bom nhiệt phân tử đầu tiên của Mỹ trong một thời gian kỷ lục chỉ 67 ngày, kể từ khi quyết định can thiệp vào Afghanistan sau vụ khủng bố ngày 11/9/2001.

Đỉnh cao khoa học mà người Việt nắm giữ ở cơ quan NASA là (cựu tư lịnh không quân VNCH) ông Nguyễn Xuân Vinh. Ông đã nghiên cứu về các quỹ đạo tối ưu cho các phi thuyền vũ trụ và các phương pháp điều khiển tối ưu cho phép bay vào không gian. Ông cũng đã tham gia vào các chương trình Apollo (từng đáp xuống mặt trăng), Skylab và Voyager.

Đó là tôi chưa nói người Việt (xuất phát từ miền Nam) thành công trong các lĩnh vực khác, ví dụ thi ca thì có Ocean Vương (triển vọng chiếm Nobel văn chương), tiểu thuyết có Nguyễn Thanh Việt, điện ảnh có Trần Anh Hùng…

Nói chung hầu hết “núm ruột” từ VN rất thành công trong mọi lĩnh vực ở những nước cưu mang họ, đứng đầu là Mỹ, nước đón nhận nhiều nhất người từ VNCH (rồi con em họ), cũng là nước bị Việt Công “đánh” cho tơi tả.

Tôi viết dông dài không ngoài mục đích: Tinh hoa nước Việt có bị phân biệt đối xử không? Có một dòng chia buồn nào trên truyền thông dành cho nhà khoa học nằm trong tốp đầu thế giới khi ông qua đời? Vì lý lịch xuất thân của ông hay sao?

Cuộc chiến chấm dứt gần nửa thế kỷ, sự chia cắt trong lòng người Việt vẫn còn. Đó là một sự thật xót xa. Tôi không đào bới quá khứ để khoét sâu chia rẽ, khơi lại hận thù dân tộc. Mỗi năm mỗi nhức nhối với ngày 30 tháng 4. Nhức nhối đến nỗi một lãnh tụ nổi tiếng của cách mạng cũng phải tán thán “hàng triệu người vui, hàng triệu người buồn”. Ai vui, ai buồn? Ai ai cũng biết.

Bức tường Bá Linh sụp đổ nhưng tinh thần đoàn kết của dân tộc Đức không hề sụp đổ. Con sông Bến Hải nối liền một dải sợn hà nhưng liệu lòng người có chảy cùng một dòng sông? Nước Đức thống nhất và nước Đức hùng mạnh. Đông Đức “cộng sản” và Tây Đức “quốc gia” xem bức tường chia cắt hai nước là kỷ niệm buồn, một bài học lịch sử. Còn chúng ta, những người Việt Nam, trong nước và ngoài nước, có còn bức tường nào sừng sững hơn bức tường một thuở ấy không?

Có một ngày nào đó, những người Việt trước ở Đông Đức (học hành, lao động) sẽ cùng những người Việt ở Tây Đức (vượt biên, du học) sẽ có mặt chung trong một sự kiện lịch sử của nước nhà? Ở nước Đức thống nhất có khi nào một cái tết truyền thống có sự tham dự chan hòa của những người Việt ra đi từ hai miền Nam-Bắc?

Khi đi thăm bức tường Bá Linh và tìm hiểu người Việt tại Đức (đồng bào ở các nước khác như Mỹ, Canada, Úc…, tôi chưa có dịp tiếp xúc) tôi rất buồn khi thấy nó, dù chỉ còn lại một phần. Nỗi buồn còn đó, nỗi buồn cho dân tộc tôi, biết khi nào Nam Bắc mới thực “một nhà”, không còn bức tường nào chia cắt, ở Đức cũng như ở Việt Nam và trên toàn thế giới?

Và đến khi nào, tinh hoa nước Việt ở bất cứ đâu trên trái đất này dù gốc gác là “quốc gia” hay “cộng sản” đều được trân quý như nhau. Khi người Việt trở thành bó đũa (trí tuệ) không thể tách rời, khi ấy nước Việt mới trở nênhùng mạnh.

Lịch sử không thể đổi thay nhưng chúng ta không thể mở ra một thời đại mới với một trang sử mới hay sao?