“Quê hương là chùm khế ngọt.
Cho con trèo hái mỗi ngày”.
Thi sĩ Đỗ Trung Quân tài hoa của tôi đã “vẽ đường cho hươu chạy”. Vì là “khế ngọt” nên người ta cứ “hái” mỗi ngày cái quê hương còn lắm nỗi lo toan.
Đối với tôi, quê hương là khác. Khi xa đất nước dù đôi ba tháng, tôi vẫn thấy nhớ quê quay quắt. Cái quê đó là cuộc sống ồn ào sôi động của Sài Gòn đang vươn vai lớn mạnh. Khi về lại căn nhà nhỏ trong cái đô thành chen chúc người và người đó, tôi lại nhớ một cái quê khác, và những năm tháng sống gần bóng mát của những cánh rừng cao su xanh bát ngát, mênh mông. Rồi quê nhà, nơi còn giữ chiếc rốn nhỏ hơn bảy mươi năm trước, cái làng Trung Đạo lại canh cánh trong tôi.
Ảnh: Con sông quê.
Tôi có cảm giác Đỗ Trung Quân không đúng khi viết: “Quê hương mỗi người chỉ một. Như là chỉ một mẹ thôi”. Khi rời đất nước, quê tôi là Việt Nam. Khi ở Sài Gòn quê tôi là Đồng Nai. Và khi ở miền Nam quê tôi là miền Trung, rõ hơn là Quảng Nam, rõ thêm chút nữa, là làng Trung Đạo. Tôi có tới hai người mẹ, yêu thương hai bà như nhau, sinh dưỡng đạo đồng, tại sao lại “chỉ một mẹ thôi”?
Quê hương là nơi mồ mả tổ tiên, ông bà, cha mẹ, anh chị, các cháu tôi yên nghỉ. Quê hương là con đường lên xuống của ngôi làng. Quê hương là lối đi ra bờ sông, bến sông, ra ruộng đồng, cồn bãi, núi non. Rất giản dị. Không nhớ quê hương trong lúc vùi đầu sinh kế xứ người, vì lưu lạc phương xa; chẳng ai trách “Quê hương nếu ai không nhớ. Sẽ không lớn nổi thành người”
Mở ngoặc chỗ này: Hai câu thơ trên sai hoàn toàn. Không có một người VN nào mà quên quê hương, tôi xin khẳng định. “Không lớn nổi thành người “ là câu dạy dỗ trẻ con. Không nghe tao, mày sẽ chẳng nên người. Mọi người phải nhớ quê hương. Đứa mô không nhớ “sẽ không lớn nổi thành người”. Văn dĩ tải đạo không có nghĩa người sáng tác văn học phải răn dạy người khác: phải yêu cái này cái nọ. Yêu hay ghét là tình cảm tự nhiên. Kẻ nào dạy người khác yêu và ghét, kẻ đó là giả nhân giả nghĩa.
Trở lại quê hương. Ăn một món canh cải, món “rau sống” (rau ghém) món cá kho nghệ, món thịt heo luộc xắt lát(*) làm theo cung cách của những người thân trước nay không rời khỏi ngôi làng, hay rời thời gian ngắn, tôi cảm thấy trong ngần ấy thứ, cái hương vị đặc biệt, cái mà tôi từng ăn từ thuở mới tập ăn: hương vị quê hương, không phải trong từng trang sách vở, cái hương vị của tình thương gia đình, dòng tộc, làng trên xóm dưới; cái hương vị không phải một mình tôi cảm nhận, cái hương vị mà bất kỳ ai, trở về quê hương, đều cảm nhận như tôi. Món ăn ấy không phải thuộc hàng “cao lương mỹ vị”; nó là món ăn của quá khứ. Quá khứ là tài sản duy nhất của những người trở về quê hương khi chiến tranh thay đổi mọi thứ và hoà bình thay đổi mọi cái. Món ăn ấy có người cha, người mẹ, người anh, người chị…những người thân, từng ngồi bên nhau trong quá khứ, quá khứ đầy binh đao và biến loạn. Chiến tranh có thể giết chết con người, tàn phá xóm làng, nhưng chiến tranh không thể giết chết hình ảnh những người thân yêu và tàn phá kỷ niệm- những giây phút yên bình, rất hiếm đối với người VN khi đất nước bị loang lỗ bởi đạn bom.