Sunday, August 28, 2022

THƯỜNG ĐỨC HAY THƯỢNG ĐỨC?

 Hai cái tên cùng địa danh này có lẽ xa lạ với quý vị nhưng rất gần gũi với tôi. Cũng có thể không xa lạ mấy nếu quý vị từng theo dõi tình hình chiến sự Việt Nam trước 1975. Cộng sản Bắc Việt rất khôn ngoan. Không khôn ngoan làm sao họ buộc de Castries phải đầu hàng ở Điện Biên Phủ với hơn 18 ngàn quân. Trận Thường Đức (cấp quận) sau đó là trận Phước Long (cấp tỉnh) là cách quân Giải Phóng trắc nghiệm sự cam kết của Hoa Kỳ đối với VNCH sau hiệp định Paris 1973. Cả hai trận đánh, cộng sản Hà Nội mới nhận thấy Hoa Kỳ thực sự muốn rút khỏi miền Nam Việt Nam “trong danh dự”, họ không còn e ngại Mỹ, nghĩa là đối với Hoa Kỳ, số phận Sài Gòn “sống chết mặc bay”. “Bay” ở đây là VNCH và những người miền Nam chống cộng sản.

Thường Đức là một “trận đánh điểm” như thế. Ai từng sống dưới chế độ CHXHCNVN đều hiểu “điểm” là thế nào. Điểm nghĩa là thí nghiệm. Thí nghiệm có thể đúng, sai. Đúng thì tốt; sai thì sửa. Sửa sai hay sai thì sửa chẳng có hại gì. Người bị thí nghiệm mới bị hại. Người làm thí nghiệmsẽ thí nghiệm tiếp cho đến khi không còn sai. Nghĩa là thí điểm thành công. Thường Đức là trận đánh thí điểm hay thí nghiệm thành công. Đây là một quận lỵ chỉ một hay hai chục ngàn dân. Dân sống trong các “khu dồn” (theo suy nghĩ của Cách mạng) hay “trại tạm cư” (theo suy nghĩ của ‘Ngụy’).
Quân đội Bắc Việt đánh vào quận lỵ này ở cấp sư đoàn. (Nếu tôi không lầm, đấy là sư đoàn 320). Sau 11 hay 12 ngày cầm cự, quận lỵ Thường Đức thất thủ. Viên quận trưởng bị thương ở mắt quyết định tự tử, dung súng bắn vào đầu, không chịu để thuộc hạ cáng trên võng để đi theo quân rã ngũ tán loạn bỏ chạy. Vì là trận đánh ác liệt, số chiến sĩ Bắc Việt bị chết non 1000 người (bia hiện còn ghi tên trên tượng đài chiến thắng ở xã Đại Lãnh – trước là quận Thường Đức) những binh sĩ của quận bị bắt đều phải “học tập cải tạo” hơn 12 tháng cho đến ngày ‘giải phóng’, kể cả lính nghĩa quân (lính tuyển tại đại địa phương không thuộc biên chế chính quy quân đôi VNCH).
Đây là khai sinh của tôi. Thường Đức chứ không phải Thượng Đức. Sau 1975, Thường thành Thượng. Đau lòng.


Khi nhắc đến tên Thường Đức, không những đau lòng, mà tôi còn cảm thấy bùi ngùi; quê hương một thời của tôi bị mất tên; bị đổi tên cũng vậy. Thường Đức bỗng thành Thượng Đức. Quá đau lòng. Tên đã mất vì nó bị thay đổi. Thay đổi do sự cưỡng bức ngôn từ.
Thường Đức xuất xứ từ hai chữ tổng Đức Thượng. Sau này Đức Thượng đổi thành (xã) Thượng Quý. Lúc ông Ngô Đình Diệm ký tên thành lập quận mới, tách khỏi quận Đại Lộc cũ, Đức Thượng được gọi là Thượng Đức. Thời đó, Thượng là tên gọi người miền thượng; Kinh là tên gọi người miền xuôi (đồng bằng). Có những chợ phiên Kinh -Thượng ở quê tôi thời ông Diệm và cũng có khẩu hiệu do guồng máy của ông chỉ ra “Kinh-Thượng một nhà”, ý nói người Thượng, người Kinh đoàn kết. Khi đặt bút ký, theo một số nguồn tin sau này, Ngô Đình Diệm không muốn để chữ Thượng trong tên gọi mà cho sửa thành Thường, Thượng Đức thành Thường Đức (hiểu nôm na cái đức thường hằng).
Ông Diệm là người ích kỷ, có tinh thần dân tộc hẹp hòi. Ông ta không muốn quê tôi có Thượng chung sống. Thượng Đức phải là Thường Đức. Giống một suy nghĩ hẹp hòi khác của ông khi đặt tên Bảo Lộc. Bảo Lộc nguyên là B’lao. Tên gọi của dân tộc thiểu số vùng nổi tiếng trồng chè miền Nam. Khi đi kinh lý đến B’lao, ông hỏi tên địa danh, các tùy viên đáp lại tên theo cách gọi người dân tộc địa phương. Ông đam chiêu một chút rồi nói Bảo Lộc nên thay cho B’lao, “mọi” quá. Thế là B’lao biến thành Bảo Lộc. Giữ cái lộc của trời ban? Ngô Đình Diệm quả quá hẹp hòi về dân tộc. Ông muốn tất cả phải là Việt Nam. Hạnh phúc thay, Thượng Đức của quê tôi được ông cho sửa thành Thường Đức, một miền quê không có người Thượng (sau này gọi là dân tộc) sinh sống.
Thượng Đức có lẽ rất quen thuộc với cái sư đoàn Bắc Việt đã hy sinh gần một ngàn người để đánh chiếm nó năm 1974. Cái tên lại lạ lẫm và xa lạ đối với tôi một trong số những người con sinh ra tại vùng quê mà giấy khai sinh ghi là Thường Đức. Thượng Đức lai là tên gọi với hầu hết dân chúng vùng quê từng có tên gọi Thường Đức. Tên quận lỵ Thường Đức sinh ra tôi và một số người lại không phải là tên địa danh ghi trong giấy khai sinh của hầu hết những công dân sinh sau năm 1975. Thường Đức mất đi, mất đi vĩnh viễn, khi cái tên Thượng Đức đắp trên tượng đài chiến thắng rất hoành tráng trên ngọn đồi có trụ sở của một quận lỵ hiện ra uy nghi trước mắt của con dân một địa phương trước đây là Thường Đức.
Vì sao như vậy? Vì tên ấy do những người thuộc “bên thắng cuộc” đặt ra. Có người lý giải, những người còn sống trong đơn vị đánh chiếm quận lỵ Thường Đức không phân biệt dấu huyền với dấu nặng. “Dù” phát âm thành “dụ”. “Đù” phát âm thành “đ.”. Thường Đức thành Thượng Đức là chuyện thường tình. Tôi không tin lý giải này. Những người miền Bắc hầu hết đều thông thạo cách nói, cách phát âm. Giọng Hà Nội là giọng chuẩn cơ mà. Thượng Đức thay cho Thường Đức là ý muốn của họ.
Ngay cả điêu khắc gia hang đầu VN hiện đại, tác giả hai tượng đài chiến thắng quê tôi (nay là xã Đại Lãnh) , ông PVH cũng phải chấp nhận Thượng Đức chứ không phải Thường Đức khi đặt tên trên sáng tao hai biểu tượng chiến thắng đẫm máu của tỉnh Quảng Nam. Trí thức như thế huống hồ dân thường. Thường thành Thượng là lẽ đương nhiên. Thường Đức phải biến thành Thượng Đức. Lý kẻ mạnh bào giờ cũng nhất ?(La raison du plus fort est toujours la meilleure). Giả dụ, là kẻ mạnh, đánh chiếm Hà Nội, có người muốn xóa (mẹ nó cái tên quê mùa) Nhổn (trung tâm huấn luyện quốc gia Nhổn), được không?
Và có công bằng không, khi quý vị đánh chiếm quận Thường Đức, biến quê hương quen thuộc, nơi tôi chôn nhau cắt rún thành Thượng Đức, một cái tên xa lạ, vô tình, và hãnh tiến. Viết đến đây lòng tôi vẫn còn ấm ức. Tên quê hương tôi mất đi vì nó là tên của “bên thua cuộc” (chữ của Huy Đức)?

Friday, August 26, 2022

NGHĨ VĨ ĐẠI



Nhưng ít làm vĩ đại. Ngoại trừ đánh Mỹ, đánh Pháp, người Việt chẳng làm cái gì vĩ đại. Trong đầu lãnh đạo, VN sẽ là nước vĩ đại. Ví dụ: Hà Nội sẽ là thành phố của lương tri nhân loại hãy thành phố Hồ Chí Minh sẽ là “hòn ngọc Viễn Đông” trong tương lai (dù trong quá khứ Sài Gòn có tên như vậy). Vĩ đại nhất là VN sẽ cơ bản là nước công nghiệp vào năm 2020. Tương lai luôn luôn là niềm hy vọng của hiện tại. Nhờ lạc quan như thế nên dân lẫn quan luôn nằm trong top các nước hạnh phúc nhất thế giới dù mức sống hãy còn thuộc dạng “đang nghèo”.

Tôi mạnh dạn nhận xét như thế là có cái lý của mình. Nhìn vào cách quản lý vỉa hè ở cách đô thị tiêu biểu, quý vị sẽ thấy: nhếch nhác là cơ bản.
Khi du lịch qua Singapore, tôi thấy con cháu ông Lý Quang Diệu đáng nể hơn nhiều hậu duệ của cụ Hồ Chí Minh, cả hai vị đều được hai nước coi như hai anh hùng lập quốc.
Không phải họ sạch sẽ. Họ đáng nể ở tầm nhìn: làm đường, dù ở vùng xa trung tâm, họ luôn nghĩ đến người đi bộ. Họ dành hẳn lề đường cho người đi bộ. Có những lối cho người đi bộ khiếm thị nữa kia: những con đường lát gạch có gờ để những người mù có thể dùng gậy dò lối đi. Hầu như ở mỗi trạm xe điện đều có.
Khi khen đảo quốc nhỏ như Phú Quốc “văn minh”, tôi cũng áy náy và cảm thông cho VN chưa “văn minh” ( ở chỗ dành lề đường cho người đi bộ). Ở thành phố ta, lề đường không có ai …đi bộ. Đó là sự thật. Hoạ hoằn lắm, buổi sáng tinh mơ, có các bác lớn tuổi đi bộ thể dục. Cái này là nguyên do cho cái kia. Không có hệ thống xe buýt phủ khắp thì việc đi bộ không có là lẽ đương nhiên. Đường phố VN ồn ào, khói bụi, đầy người buôn bán, có chỗ tràn xuống lòng đường, thử hỏi, có ai đi “bách bộ “ thư giãn đâu mà cần lề đường? Chiếm dụng lề đường là lẽ đương nhiên. Nhưng nhà mặt tiền, chiếm lề đường để kinh doanh, buôn bán (để xe, đặt quầy) các chủ hộ coi lề đường là của họ. Có những chiếc xe hơi, hai bánh bị tạt sơn, đâm thủng lốp vì “dám” đỗ trước cửa tiệm, dù là trên mặt đường. Đã không dành lề đường cho khách bộ hành thì người sử dụng hay chiếm dụng lề đường, có ai phải trả phí “lề đường” cho chính quyền không? Hay xài chùa lề đường?
Nếu vì xe buýt chưa phổ cập, nếu vì ít hay không có người sử dụng lề đường thì ai chiếm dụng hay sử dụng chúng cần có nghĩa vụ phải đóng góp vào ngân sách quốc gia chớ.
Có ai thống kê bao nhiêu km lề đường được sử dụng ở các thành phố VN và số tiền nếu có đóng vào ngân sách nhà nước là bao nhiêu không?
Hay là mạnh ai nấy tính? Mạnh ai nấy chiếm. Và các bác đừng có ta thán về lề đường đấy nhá. Vì lề đường không phải là chuyện phù hợp cho “nghĩ vĩ đại”?

Tuesday, August 23, 2022

THẾ THƯỢNG PHONG CỦA BẮC KINH Ở BIỂN ĐÔNG (Beijing’s Upper Hand in the South China Sea)

 Bài của GREGORY POLING trên FOREIGN AFFAIRS (Mỹ) tháng 8 năm 2022.

Ông là nghiên cứu viên cao cấp về Đông Nam Á, giám đốc tổ chức Sáng kiến Minh bạch hàng hải châu Á tại trung tâm nghiên cứu chiến lược và quốc tế. Ông là tác giả cuốn “Trên vùng đất hiểm nguy: Thế kỷ Mỹ tại biển Đông” (On Dangerous Ground: America’s Century in the South China Sea). Bài tiểu luận này tóm tắt cuốn sách trên. Xin quý vị lưu ý, nó khác với bài báo, chỉ để đọc qua.
Từ thập niên 1980, hải quân giải phóng nhân dân (TQ) tìm cách trở thành lực lượng muốn chiếm cứ biển Đông. Họ chưa hoàn tất mục tiêu, nhưng gần hơn Hoa Kỳ, phải thừa nhận như vậy. Bồi đắp đảo nhân tao, mở rộng khả năng quân sự trong vùng, cộng với chương trình hiện đại hóa hải quân, không quân quy mô, gợi ra vấn đề nghiêm trọng cho khả năng quân đội Hoa Kỳ duy trì thế dẫn đầu trong khu vực. Đô đốc Davidson, cựu tư lịnh bộ chỉ huy Ấn Độ-Thái Bình Dương, điều trần trước thượng viện Mỹ năm 2018: Trung Quốc “ngày nay có khả năng kiểm soát biển Đông trong mọi tình huống nếu xảy ra chiến tranh với Hoa Kỳ”. Thực tế thì cán cân còn nghiêng về họ nhiều hơn nữa. Thực sự, Hoa Kỳ không còn nhiều lựa chọn ngoài việc nhượng bộ biển Đông trong giai đoạn mở màn nếu xung đột với TQ.
Nhưng TQ lại không mong đánh nhau với hải quân Hoa Kỳ. Ngay cả TQ thắng, Bắc Kinh phải trả giá, thua nhiều hơn được. Điều TQ muốn thật sự là thuyết phục các nước ở châu Á thấy ra sự tranh giành vị trí dẫn đầu đã kết thúc. Mối nguy lớn nhất đối với sức mạnh quân sự của Hoa Kỳ ở Biển Đông không phải là việc Trung Quốc chuẩn bị chiến tranh mà là các âm mưu thời bình của họ. Bằng cách sử dụng cảnh sát và dân quân biển — các lực lượng bán quân sự do nhà nước tài trợ, kiểm soát từ các tàu cá —từng bước khiến các nước láng giềng khó tiếp cận vùng biển của mình, TQ hạ thấp giá trị Hoa Kỳ là nước đỡ đầu an ninh khu vực.
Chiến lược “Đang ở phía trước” (“forward presence”) của Hoa Kỳ, thường xuyên triển khai lực lượng Mỹ ra nước ngoài, làm an tâm đồng minh và ngăn chặn kẻ thù, dựa vào sự đón tiếp từ các các đối tác. Ở biển Đông, đó là Singapore và Phillippines. Các nước này ngày càng tự hỏi, họ nhận được gì từ Hoa Kỳ để đổi lấy sự đón tiếp đó. Hải quân Mỹ có thể tự do đi lại ở biển Đông nhưng các nước Đông Nam Á thì bị loại khỏi vùng biển của mình bởi sự cản phá không ngừng của lực lượng TQ vào thời bình. TQ càng thúc ép, càng cậy dựa vào Mỹ dường như là canh bạc tồi – lợi cho Washington nhưng các đối tác thì không.
THẾ THƯỢNG PHONG
Nếu xảy ra một cuộc đối đầu quân sự ở biển Đông, các lực lượng Trung Quốc sẽ có lợi thế rõ rệt, những lợi thế mà họ đã gầy dựng nhiều năm. Hoa Kỳ có thể vô hiệu hóa các căn cứ không quân và hải quân của Trung Quốc xây dựng trên các đảo nhân tạo ở Trường Sa, một chuỗi đảo tranh chấp. Nhưng nỗ lực này sẽ tốn kém, mất nhiều thời gian và không chắc chắn vì lực lượng Hoa Kỳ ở quá xa khu vực và khả năng quân sự Trung Quốc xây dựng trên các đảo đã làm thay đổi cán cân quyền lực đang nghiêng về Trung Quốc. Các máy bay chiến đấu gần nhất của Mỹ đóng tại Okinawa, Guam, cách Trường Sa lần lượt là 1300, 1500 hải lý. Trung Quốc có 4 căn cứ không quân ở Biển Đông, không tính các cơ sở nhỏ hơn hoặc các căn cứ dọc theo bờ biển của họ. Họ có thể triển khai máy bay chiến đấu đến các hòn đảo trong các phi vụ chỉ trong nháy mắt. Với cơ cấu lực lượng hiện tại, Trung Quốc có quyền kiểm soát vùng trời phía trên biển Đông trong giai đoạn đầu của bất kỳ cuộc xung đột nào. Và lợi thế đáng kể của họ về lực lượng tên lửa sẽ biến biển Đông thành bia bắn súng. Rõ ràng, Hoa Kỳ khó có thể bảo vệ các tàu chiến của hải quân Mỹ hoạt động trong khu vực.
Khả năng theo dõi tín hiệu và ra đa của TQ ở trên các đảo là rộng khắp, quan trọng nhứt, rất dày đặc. Lực lượng quân sự Hoa Kỳ khó che mắt chúng, nghĩa là, TQ sẽ nhìn thấy Hoa Kỳ từ xa. Và nhờ vào hệ thống vũ khí đất đối không, chống tàu, gây nhiễu, các đảo ấy có khả năng phòng thủ nhiều hơn người ta nghĩ.
Quy mô tuyệt đối cũng gây ra cảnh phức tạp: Căn cứ hải quân Trân Châu Cảng có thể lọt thỏm trong vũng bãi đá ngầm Subi, một căn cứ lớn thứ hai trong số các căn cứ của Trung Quốc ở quần đảo Trường Sa. Căn cứ lớn nhất của họ, Đá Vành Khăn, gần bằng kích thước của Vành đai I-495 xung quanh Washington, D.C. Thêm vào đó, phần lớn cơ sở hạ tầng quân sự của Trung Quốc được ngụy trang hoặc kiên cố hóa để chống lại cuộc tấn công. Sự kết hợp giữa quy mô và công sự này có nghĩa là, vô hiệu hóa các căn cứ phải cần tới hàng trăm tên lửa. Và Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dường của Hoa Kỳ không có vũ khí dự phòng, đặc biệt khi bất kỳ cuộc xung đột nào giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, không chỉ giới hạn ở biển Đông. Bất cứ thứ gì dành cho Trường Sa sẽ phải lấy ra khỏi sự phòng thủ dành cho Tokyo hoặc Đài Bắc. Bài toán vốn hóc búa ngày càng trở nên hóc búa hơn: Vị thế của Trung Quốc càng mạnh, khó hình dung lực lượng Hoa Kỳ hoạt động thế nào ở Biển Đông nếu xảy ra xung đột.
Không bên nào muốn một cuộc chiến như vậy, nhưng điều đó không có nghĩa là không xảy ra. Tháng trước, trợ lý bộ trưởng quốc phòng Hoa Kỳ, Ely Ratner và phó trợ lý bộ trưởng ngoại giao Hoa Kỳ, Jung Pak, cho biết Washington ngày càng lo lắng về sự gia tăng mạnh mẽ trong các vụ cản đầu nguy hiểm máy bay quân sự Mỹ và Úc của máy bay quân đội TQ trên biển Đông. Một tàu của hải quân Trung Quốc lao tới trong vòng 45 mét suýt va vào tàu khu trục có tên lửa dẫn đường USS Decatur (của Mỹ), trong hoạt động tự do hàng hải năm 2018. Các tàu dân quân Trung Quốc còn hành xử hung hăng hơn. Những tính toán sai lầm là có thể xảy ra. Và mặc dù có các cơ chế ngăn chặn các sự cố, giảm thiểu leo thang , nhưng các tàu Trung Quốc hiếm khi tuân theo các quy trình cầu nối nhằm ngăn chặn hiểu lầm trên biển, và việc liên lạc trên các đường dây nóng quân sự nhằm giảm thiểu leo thang khủng hoảng thường không được trả lời.
Một rủi ro tiềm ẩn khác có thể xảy ra sự cố trong nhiều trường hợp các tàu chiến Trung Quốc chơi kiểu ‘rung cây nhát khỉ’ (play chicken) với các nước khác trong khu vực. Vào tháng 4 năm 2020, một tàu cảnh sát biển Trung Quốc đâm chìm một tàu đánh cá Việt Nam ở Hoàng Sa, một chuỗi đảo tranh chấp khác trên biển Đông. Một con tàu thuộc lực lượng dân quân biển Trung Quốc cũng đã đâm chìm một tàu đánh cá của Philippines vào tháng 10 năm 2019, khiến các thuyền viên lâm nạn cho đến khi được cứu bởi một tàu Việt Nam đi qua. Nhiều trường hợp khác, đặc biệt là khi tàu Trung Quốc hà hiếp các tàu của chính phủ Philippines đang vận chuyển hàng tiếp tế cho các tiền đồn ở Trường Sa, các vụ va chạm suýt đã xảy ra. Với số lượng tàu Trung Quốc triển khai đến vùng biển của các nước láng giềng và chính quyền Trung Quốc khuyến khích chúng hành xử bạt mạng, thiệt hại nhân mạng là khó tránh khỏi. Nếu điều đó liên quan đến Philippines, Hoa Kỳ có thể được yêu cầu đáp trả, theo Hiệp ước phòng thủ hỗ tương Mỹ-Phi. Không làm như vậy sẽ chỉ đẩy nhanh việc mở rộng quyền kiểm soát của Trung Quốc trên biển Đông. Nhưng sự can thiệp vũ trang đòi hỏi Hoa Kỳ phải đẩy mạnh leo thang, đưa nước này tiến gần hơn chiến tranh với Trung Quốc. Và nếu cả hai bên cảm thấy buộc phải giữ thể diện thay vì giảm leo thang, mọi thứ có thể vượt khỏi tầm kiểm soát. Cho dù cuộc xung đột kết thúc ra sao, mỗi bên đều mất nhiều hơn được.
CÂU GIỜ CHỜ THẮNG
Bên cạnh một cuộc xung đột quân sự có thể “từ chết tới bị thương”, còn có hai kết quả khác có thể xảy ra. Đầu tiên là cái đích Bắc Kinh muốn nhắm tới. Theo tình huống này, Trung Quốc o ép liên tục, tăng thêm rủi ro cho nước láng giềng đang hoạt động bình thường trên vùng biển của họ. Các nước không thể thu hút đầu tư nước ngoài vào thăm dò dầu khí ngoài khơi và các hoạt động thương mại khác. Ngư dân mất kế sinh nhai; vì lực lượng dân quân và lực lượng bảo vệ bờ biển Trung Quốc khiến cuộc sống của họ cơ cực hoặc vì (TQ ) đánh bắt quá mức và hủy hoại san hô làm cạn đi nguồn dự trữ (hải sản).
Hầu hết các nước tranh chấp chủ quyền ở biển Đông cuối cùng cũng phải cam chịu và buộc phải chấp nhận những điều khoản Bắc Kinh đưa ra. Liên minh Mỹ-Phi có thể chấm hết khi Manila đúc kết chẳng mấy lợi ích khi chọc giận Bắc Kinh. Khả năng Hoa Kỳ triển khai sức mạnh ở biển Đông sẽ yếu dần đi khi TQ lớn mạnh. Các nước khác sẽ mạnh mẽ hơn khi tuyên bố quá mức chủ quyền hàng hải, càng làm hại thêm Công ước Liên Hiệp Quốc về luật biển. Điều này sẽ bắt đầu với các tác nhân xấu như Nga hoặc Iran, nhưng rốt cuộc sẽ lan rộng khi các quốc gia tôn trọng luật lệ cảm thấy thua thiệt vì những tuyên bố quá mức của những nước láng giềng. Và TQ, tin vào sự đi xuống không tránh khỏi của Mỹ, sẽ thách thức luật lệ và các định chế, đăc biệt là ở châu Á. Ảnh hưởng thực sự sẽ là trật tự khu vực và quốc tế lung lay hơn, đe dọa hơn quyền lợi Hoa Kỳ và các đồng minh còn lại.
Một kết quả thay thế phù hợp sẽ bảo đảm lợi ích Hoa Kỳ ở mức độ hợp lý bằng cách thúc đẩy TQ đi đến một thỏa hiệp mà các nước láng giềng và cộng đồng quốc tế có thể sống chung. Như các quan chức Mỹ tuyên bố từ thập niên 1990, bất cứ thỏa ước nào giữa các bên liên quan đều phải chiếu theo công ước Liên Hiệp Quốc về luật biển. Điều này có nghĩa là TQ phải công nhận tự do hàng hải: Không cản trở việc tàu bè đi lại với mục đích buôn bán, tạo điều kiện đi lại cho hải quân nước ngoài, và quyền tài nguyên đối với các nước cùng vùng biển. Bất cứ thỏa thuận nào như thế giữa TQ và các nước tuyên bố chủ quyền ở biển Đông đạt được đều không bị o ép hay đi kèm vũ lực. May mắn là công ước đem lại nhiều cơ hội hòa giải nếu các bên thực lòng thực thi nghiêm túc.
Chi tiết của những thỏa thuận giữa TQ với các nước láng giềng không quan trọng đối với Hoa Kỳ. Mục tiêu chính sách của Hoa Kỳ là khuyến khích TQ tìm kiếm thỏa hiệp rồi ủng hộ các đồng minh và đối tác của Washington trong các quyết định của họ miễn là hợp lý và hòa bình. Làm như thế đòi hỏi cần nỗ lực lâu dài để đặt ra cái giá để thúc đẩy TQ. Hoa Kỳ không thể làm một mình: Họ cần liên minh với các nước châu Á, châu Âu. Liên minh đó phải áp cái giá phải trả về ngoại giao và kinh tế cũng như tăng cường khả năng quân sự cho các nước Đông Nam Á, giúp ngăn chặn cuộc xâm lược toàn diện của TQ. Từ 2016, Bắc Kinh đã ra tay trước và chẳng có lý gì mà chịu thỏa thuận. Nhưng điều đó sẽ thay đổi nếu một số quốc gia quan trọng hành xử với TQ theo cách họ từng hành xử với các tác nhân xấu khác - chẳng hạn như với Nga. Rõ ràng điều đó sẽ làm hỏng chủ trương của TQ ở biển Đông. Nó còn cho thấy TQ hoặc là nước lãnh đạo thế giới hoặc là nước chuyên bắt nạt trong vùng, nhưng không thể cả hai.
Không có giải pháp quân sự nào ở biển Đông nhưng sự cứng rắn của Hoa Kỳ sẽ đóng vai trò thiết yếu trong bất kỳ kế sách thành công nào. Một chiến dịch đa phương nhằm thay đổi toan tính của TQ qua sức ép ngoại giao, kinh tế, và pháp lý cần phải nhiều thời gian. Và trong khi đó, khả năng quân sự của TQ tiếp tục lớn mạnh. Áp lực lên các nước láng giềng mở rộng. Một điều duy nhất giúp các nước ấy có không gian và thời gian cần để thấy rõ chiến lược lâu dài là sự giúp đỡ quân sự của Hoa Kỳ.
Hoa Kỳ và các đối tác an ninh phải tiếp tục giúp đỡ xây dựng tiềm lực cho khu vực. Nhưng vai trò quan trọng nhất mà quân đội Mỹ thực hiện là trực tiếp ngăn chặn trên danh nghĩa (bảo vệ) Phillippines, bố trí lực lượng đủ gần để đe dọa hữu hiệu việc đánh trả TQ nếu nước này dùng vũ lực tấn công Manila. Khi TQ mạnh họ sẽ trắc nghiệm sự gắn kết của liên minh Mỹ-Phi. Và nếu không có cách luân chuyển khí tài qua Phillippines, Hoa Kỳ ngày càng gặp khó khăn trong việc đáp trả hiệu quả các hoạt động khiêu khích. Lấy ví dụ, nếu TQ sử dụng sức mạnh để loại bỏ tàu chiến mà Phi sử dụng như một tiền đồn ở bãi cạn Thomas Đệ Nhị trong vùng đảo Trường Sa thì sức mạnh quân sự của Hoa Kỳ ở Guam và Okynawa chẳng còn ý nghĩa. Hoa Kỳ chỉ cần một lực lượng nhỏ phòng không và thiết bị tên lửa ở Phi đủ để đe dọa các tàu bè của TQ và đáp trả kịp thời các hoạt động khiêu khích nhỏ lẻ trước khi chúng leo thang. Manila và Washington gần đây đã nỗ lực tối tân hóa liên minh từng có của nhau, nhưng thời gian thì không còn.
Biển Đông chưa phải mất đối với Hoa kỳ và các đối tác. Nhưng không có quốc gia nào chấp nhận cách lý giải luật biển của TQ; cũng không quốc gia nào công nhận tuyên bố chủ quyền lãnh thổ của Bắc Kinh. Hoa Kỳ vẫn đóng vai trò an ninh được trông cậy trong khu vực. Liên minh Mỹ-Phi còn đó và rõ ràng, ai cũng thấy. Vẫn còn đó con đường bảo đảm lợi ích của Hoa Kỳ ở mức chấp nhận được. Nó hẹp hơn, bất trắc hơn một vài năm trước. Nhưng đó là lý do để khẩn trương chứ không để thoái thác.
Nguyễn Long Chiến dịch từ https://www.foreignaffairs.com/china/beijing-upper-hand-south-china-sea

Saturday, August 20, 2022

“THƯA CÔ, Trò ni đánh em. Thưa thầy, trò A giựt bút chì của em”



Hồi học tiểu học rồi lên đệ thất (lớp 6), lũ học sinh chúng tôi thường trông cậy vào thầy, cô để phân xử những hành vi của bạn học mỗi khi có mâu thuẫn hay có gì đó ”bất công”. Học sinh cũng có thể “tự xử “ như thụi nhau thậm chí vật nhau nếu không có thầy hay cô khi ở ngoài trường, ngoài lớp. Bạo hành đến nỗi bạn học quỳ xuống xin tha nhưng vẫn bị đánh tiếp là điều cả đời đi học tôi chưa từng biết, chứ chưa nói từng thấy. Việc này vừa xảy ra hôm qua ở Hà Nội, thủ đô nước CHXHCN Việt Nam, chốn kinh kỳ nổi tiếng thanh lịch từ ngàn xưa.

Điều đáng buồn hơn, em học sinh bị đánh không được bạn bè can ngăn. Có em quay clip tung lên trên mạng. Ở lứa tuổi lớp 5 vừa qua lớp 6, các em đã ý thức việc làm tàn nhẫn ấy chưa? Chắc chắn là có. Có, nhưng các em vẫn làm. Tuy là chuyện “cá biệt” nhưng “dĩ nhứt suy chi” (lấy một suy ra ) chúng ta- những người lớn- có thấy cái gì đó xót xa không? Một em bé quỳ xuống đất xin tha. Em khác đánh tới tấp. Người Việt nổi tiếng có truyền thống đánh nhau suốt chiều dài lịch sử lập nước và giữ nước. Đánh nhau từng có lúc là…lý tưởng. Đánh Tàu, đánh Pháp, đánh Mỹ, đánh ‘Nguỵ’ , Bắc đánh Nam, Nam đánh Bắc (Trịnh Nguyễn phân tranh)…
Trẻ như Lê Văn Tám tự tẩm xăng đốt kho nhiên liệu địch. Cũng có em dùng dầu Nhị Thiên Đường bôi vào mắt thằng Mỹ rồi giựt lấy súng khi thằng xâm lược đang lấy tay dụi mắt vì cay… Cũng có em vào đồn Mỹ giả bộ chơi với chúng rồi nhân sơ hở, lén lấy súng đem về cho cách mạng… Những câu chuyện lịch sử ấy ảnh hưởng đến tâm hồn trẻ em qua sách giáo khoa, có hay không, tôi không rõ lắm. Nhưng đánh bạn , một cách tàn nhẫn, trong trường học, trước thái độ bàng quan của các bạn học khác, với trẻ em hơn 9,10 tuổi, là vấn đề đau lòng cho người lớn. ”Giữa đường thấy chuyện bất bình chẳng tha” của Nguyễn Đình Chiểu không còn là tiêu chí đạo đức ? Lục Vân Tiên không là gì so với Lê Văn Tám?
Chuyện xảy ra ở Hà Nội chỉ là chuyện nhỏ? Nhưng có thực sự nhỏ không khi đạo đức, khởi đầu từ giáo dục, lại xảy ra ở lứa tuổi còn quá nhỏ thế này.
Buổi sáng tôi chẳng thấy bình an khi đọc tin như thế. Buồn vô hạn.

Friday, August 19, 2022

CHÚ XE BUÝT

 Ở Singapore, xe buýt được gọi bằng bác vì xe buýt là người quán xuyến việc đi lại hầu hết cư dân xứ sở Sư tử này. Ở VN, xe buýt được gọi bằng chú vì chú thì đâu uy vũ bằng bác, chứng minh, sau đít xe buýt thấy có có câu: “Xin lỗi đã làm phiền khi phải ra vào trạm”, trong khi ở đất nước nhỏ như đảo Phú Quốc kia, trên lề đường có bảng nhắc nhở “đây là quãng đường dành cho xe buýt vào ra đón trả khách, đề nghị không được đỗ xe”.

Ở Sài Gòn, xe buýt như những đứa con nghèo, chỉ những người nghèo mới gần gũi nó. Hành khách xe buýt hoặc không sở hữu một chiếc xe máy, hoặc không bao giờ có xe hơi, và xe buýt với giá rẻ hợp với túi tiền eo hẹp của họ.
Những tuyến xe buýt ngoài nội thành, tức các tỉnh, cũng là những cứu tinh cho những người nghèo hay những người không có phương tiện đi lại khác.Nếu không tin, anh chị hãy thử đi xe buýt các tỉnh: những chiếc xe cà tàng có những cửa kính đẩy qua lại, phải là những người có sức khỏe mới đẩy nổi, những cánh cửa cũ hay nhưng cánh của cổ cũng không khác nhau, nhưng thật diệu kỳ, hầu như xe lúc nào cũng chen chúc khách.
Xe có máy lạnh nhưng chúng đã ngừng hoạt động lúc Bảo Đại về nước. Không khí bên ngoài là nguồn cung cấp dưỡng khí cho những hành khách nghèo trung thành với xe buýt chen chúc trên xe.
Khác với ở Sài Gòn, xe buýt ở tỉnh - có một số - sẽ không dừng trả hay đón khách ở những trạm xe buýt quy định. Không khác một bác nông dân nhà quê, hứng thì ra đồng, không hứng thì về nhà rủ năm ba anh em làm một vài xị lai rai: xe buýt có ai đón thì ngừng, có ai xuống cũng ngừng, đáp ứng linh hoạt nhu cầu của những thượng đế nghèo khó.
Nhưng khi ngồi trên xe buýt ngoại tỉnh, quý vị sẽ thấy những thượng đế nghèo này thật dễ thương (tôi ít đi xe buýt thành phố). Những ông cụ, những bà cụ, tay xách nách mang những túi hành lý, chắc là áo quần cũ hay một ít quà của ai đó, khi cày cục bước lên cửa xe, những thượng đế dễ thương đang ngồi, là các cô các chú trẻ như học sinh, sinh viên, người nắm tay, kẻ xách giỏ, nếu phụ xe không kịp giúp những hành khách lọm khọm này. Sẽ có một hay hai em học sinh hay thanh niên, thanh nữ công nhân đứng lên, nhường chỗ ngồi, việc mà một thế hệ, chừng 30 năm trước, sau những năm “giải phóng”, rất ít hay không hề xảy ra vì nguyên tắc: tiêu chuẩn ai cũng như nhau, vé xe buýt đâu có ghi người già được người trẻ nhường ghế.
Ở miền Bắc thời xưa có nhiều người đi xe buýt không, tôi không rõ, nhưng nếu có, chắc chắn, trong xe buýt cũng như trong xã hội, mọi người đều bình đẳng, mọi người đều như nhau, ai cũng 19 cân hay 13 cân gạo ăn, để duy trì mạng sống, thì không có lý do gì, tôi suy luận, có chuyện người 19 cân gạo nhường chỗ ngồi cho người 13 cân, người 13 cân nhường cho người không có cân nào tem phiếu.
Tôi thỉnh thoảng đi xe buýt ở tỉnh và nhận thấy rằng, trên xe đã hình thành trở lại một nét văn hóa, trước 1975 đã có, nhường ghế cho người già, người tàn tật, phụ nữ có thai, phụ nữ dắt trẻ hay bồng con. Cũng có cảnh "lên trước ngồi trước" không san sẻ cho người già yếu lên sau nhưng tôi ít gặp hay tôi chưa gặp trên xe buýt vùng quê. Cũng may, những người có tinh thần tương thân tương ái, ngày càng nhiều theo tôi nhận xét, nhường nhịn chỗ ngồi cho nhau, dù hành trình trên một chiếc xe buýt không lâu, chưa tới đôi ba tiếng đồng hồ trong một lộ trình từ tỉnh về trung tâm thành phố.
Văn hóa, phải nói là văn hóa, trên xe buýt đang được hình thành. Những người miền Nam sống với tem phiếu không được lâu như những đồng bào miền Bắc; họ không hình thành cố định một "nếp văn hóa tiêu chuẩn": “Bắt ở trần phải ở trần. Cho may ô mới được phần may ô (áo lót)”. (Nhại thơ Nguyễn Du: Bắt phong trần phải phong trần. Cho thanh cao mới được phần thanh cao).
Ông tổ Các Mác nói rất đúng: vật chất quyết định tinh thần. Nhưng trong xe buýt hay trong “văn hóa xe buýt”, không thấy vật chất quyết định tinh thần. Những người đi trên xe buýt đều cư xử với nhau rất đẹp: nhường chỗ tốt nhất cho những người “yếu thế nhất” như đã nói ở trên. Có người nói giá vé xe buýt quá rẻ, người ta không nề hà chuyện nhường nhịn, chia sẻ cho nhau. Vật chất chỗ này không quyết định tinh thần. Không đâu, tôi nói tinh thần quyết định vật chất: tinh thần của những người có cha ông họ, hay bản thân họ đã đi xe buýt từ lúc VNCH mới thành lập (thời Ngô Đình Diệm, học sinh đi xe buýt không mất tiền), cái tinh thần đó vẫn duy trì, và trở lại mạnh mẽ trong những năm gần đây, khi xe buýt đang ngày càng góp mặt đáng kể trong các phương tiện giao thông.
Người trẻ nông thôn miền Nam, bây giờ đâu hẳn ai cũng vô tâm, không phải nhờ được nhường ghế trên xe buýt, tôi đề cao họ. Bất cứ trong môi trường nào cái tốt đẹp sẽ nổi trội nếu môi trường đó thấm đẫm một văn hóa, đã được gầy dựng lâu dài trước đó, cho dẫu đó chỉ là văn hóa đi xe buýt.
Xe buýt phải là và sẽ là phương tiện giao thông chủ yếu trong tương lai, nếu người ta quan tâm đến việc xây dựng một văn hóa san sẻ, nhường nhịn, ngoài chuyện giải quyết nạn kẹt xe chứ không phải chăm chăm xây dựng "văn hóa thành tích" với những cổng chào bề thế, ở những chữ “khu phố văn hóa”, hầu mong cả thành phố văn hóa khi con đường nào cũng chực chờ kẹt xe và kẹt xe.
Chú sẽ thành bác, bác xe buýt.

Monday, August 15, 2022

Vĩnh biệt thầy PHẠM PHÚ LỢI


 

Lớp thanh niên thi tú tài trước năm 1975, ở Hội An, không học sinh nào không học thầy Phạm Phú Lợi. Là người dạy môn triết hay nhất của trường Trần Quý Cáp, thầy tạo dấu ấn sâu sắc với học sinh chúng tôi. Dấu ấn ấy không phải là sự xuất thân của thầy, trong một gia đình dòng dõi nổi tiếng khoa bảng, bố là giáo sư, cụ cố là Phạm Phú Thứ, danh nhân của đất Quảng nổi tiếng với Ngũ Phụng Tề Phi (*). Anh ruột thầy công tác lãnh đạo ở bộ giáo dục VNCH. Con trai thầy là trưởng ban Việt ngữ đài VOA, Hoa Kỳ. Hình ảnh ghi nhớ mãi trong long học sinh chúng tôi: nét tinh anh cộng với tài hoa của một ông thầy dạy triết đẹp trai, có vầng trán rộng, nụ cười luôn luôn nở trên đôi môi đỏ, và nước da trắng như còn phảng phất nét thư sinh.

Môn triết là môn quan trọng nhất đối với ban C lớp 12 (đệ nhất), sau đó mới là ngoại ngữ (Anh hoặc Pháp). Các môn thi tùy theo ban mà có hệ số điểm từng môn khác nhau. Ví dụ, triết ban C có hệ số 4, nghĩa là 10 điểm sẽ thành 40 chục điểm. Môn toán, lý, vạn vật (sinh) có hệ số 1. Ngoại trừ điểm không (zero), nếu môn triết đạt 15 điểm (hệ số trên 20 không như 10 như hiện nay) mà các môn kia mỗi môn chỉ một điểm thì tổng cộng bốn môn bằng 64 điểm. Điểm trung bình (64/4) là 16, việc thi đậu tú tài sẽ rất dễ dàng gấp nhiều lần nếu môn chính có điểm cao.
Sự quan trọng của môn chính (như triết ban C) nên có thầy dạy giỏi thì kết quả thi của học sinh sẽ rất khả quan. Học sinh thường giỏi ở những môn có người dạy giỏi. Thầy Phạm Phú Lợi của chúng tôi không những “dạy giỏi” mà còn dạy “hấp dẫn”. Tiết học gần 120 phút của thầy trôi đi nhanh chóng. Thầy cười chào chúng tôi để ra khỏi lớp nhưng chúng tôi vẫn còn tiếc ngẩn tiếc ngơ.
Lứa tuổi mới biết yêu lại được thầy dạy Tâm lý học thì tuổi thanh xuân "thăng hoa" biết mấy. Ở lớp 12, chúng tôi phân biệt "thời gian" khác với “kỳ gian”. Thời gian có thể là 60 phút nhưng kỳ gian có thể là 6 phút hoặc 600 phút, tùy tâm trạng mỗi người. Ngồi nói chuyện bên người yêu 60 phút ngắn còn hơn 6 phút. Lúc chuẩn bị lên bảng trả bài, 6 phút dài hơn 600 phút. Thời gian tâm lý khác với thời gian vật lý, thầy dạy đó là “kỳ gian”. Các câu chuyện minh họa cho các tiết dạy triết làm cho buổi học thêm khởi sắc. Những câu chuyện thường ngày nằm trong nôi dung bài giảng tưởng khô khan nhưng sinh động: ai cũng thấy chuyện "triết học" như chuyện "đời thường".
Tôi nhớ câu chuyện thầy kể (có lẽ bây giờ đã nhiều người nghe nhưng thuở ấy rất ít). Có hai vị sư trẻ chuẩn bị lội qua một con suối khá rộng, khá sâu để về chùa. Cùng lúc có một cô gái trẻ đẹp cũng muốn lội qua nhưng khá do dự, ngần ngừ vì sợ nước chảy xiết. Thấy thế một vị sư trẻ cúi xuống bảo cô gái leo lên lưng cho thầy cõng qua suối. Cô gái cám ơn và mỉm cười chấp nhận. Về đến chùa khá xa, hơn mấy tiếng đồng hồ sau, vị sư đồng hành cất tiếng trách móc bạn mình: “Người tu hành không nên chạm vào da thịt phụ nữ huống hồ gì thầy lại cõng cô gái trên lưng”. Vị sư trẻ đáp lại: “Tôi bỏ cô gái bên bờ suối ngay lúc đó. Sao thầy còn ‘mang’ cô ấy cho đến bây giờ”. Thầy mỉm cười ý nhị. Ở lứa tuổi chớm 18, nghe câu chuyện triết lý ấy chúng tôi hiểu thầy muốn gởi gắm trong đó một khái niệm bên nhà Phật: chánh niệm là lẽ tu hành.
Cũng ở lớp 12, chúng tôi còn được thầy dạy các môn “triết” khác như Luận lý học, Siêu hình học, Đạo đức học (mỗi môn có riêng một cuốn sách dày độ trên 200 trang). Chưa vào đại học chúng tôi hiểu thế nào là Tam đoạn luận, với ví dụ phổ biến: Mọi người ai cũng chết. Socrate là người. Ông ta cũng phải chết. Với trí óc non nớt của học sinh, nhưng bằng kiến thức thâm sâu, kinh nghiệm sư phạm nhiều năm, thầy giới thiệu cho chúng tôi hiểu rõ những khái niệm cơ bản trình bày trong các cuốn sách giáo khoa môn triết lớp 12.
Chúng tôi ham học môn triết vì thầy dạy rất sinh động và hấp dẫn. Khái niệm trừu tượng trở nên rõ ràng. Môn triết “đi vào đời sống” học sinh chúng tôi. Lên đại học, kiến thức cơ bản chúng tôi tích lũy được, mở rộng ra hơn, nhờ những tiếp thu thầy dạy hồi trung học. Thầy dạy giỏi nên chúng tôi nhớ lâu.
Nhưng những ký ức về thầy không phải hạn chế trong môn học hấp dẫn của thầy về triết. Hình ảnh của thầy chính là ký ức – không dễ gì phai. Thầy có thói quen hút thuốc Craven A con mèo đen (không đầu lọc). Hình như thầy nối điếu này sang điếu khác mỗi khi vào“cao trào” giảng dạy, chúng tôi đang há ngoác mồm bên dưới nhìn chăm chăm vào thầy. Thầy cười sau câu chuyện kể là chúng tôi cười theo như vỡ trận. Mỗi ánh mắt, mỗi cử chỉ, mỗi lời nói của thầy như cuốn hút chúng tôi bằng sức hấp dẫn, không phải cách diễn đạt đề tài, mà bởi kiến thức uyên bác của thầy. Chúng tôi có được cái nhìn “triết lý” về đời sống cũng bắt nguồn tư những bài giảng của thầy. Ngồi trong lớp, đôi lần tiếng còi báo động có pháo kích của VC vào thành phố, chúng tôi chẳng buồn để ý nếu đang nghe thầy giảng bài.
Tôi là học sinh không giỏi môn triết cho lắm nhưng được thầy “tin dùng” nhờ có giọng to khỏe. Sau mỗi bài dạy, thầy đọc bản tóm tắt của thầy nghĩ ra (hay soạn sẵn trong đầu, tôi không rõ, không phải theo sách giáo khoa). Tôi có nhiệm vụ lặp lại lần thứ hai mỗi câu thầy đọc. Có lẽ thầy bận…hút thuốc chăng? “Em có giọng đọc rất truyền cảm”. Lời khen của thầy làm tôi sung sướng nức nở. Tôi càng cất to giọng, sang sảng lặp theo câu của thầy vừa đọc cho các bạn chép vào vở. Các đoạn tóm tắt không dài nên chúng tôi thấy rất dễ nhớ. Khi dạy, thầy đề cập vấn đề mênh mông như sông như biển . Khi chấm dứt bài giảng, thầy cô đọng những điểm chính yếu nhỏ lại như suối như khe. Đặc biệt thầy không bao giờ gọi chúng tôi lên bảng để trả bài. Nhưng mọi học sinh trong lớp đều rất khá môn triết thầy dạy có lẽ vì yêu thầy, vì thích môn học mới mẻ, lần đầu học sinh chúng tôi được dạy khi bước vào đời.
Hôm nay, nghe tin thầy mất, tôi buồn nhưng không cảm thấy bất ngờ. Lúc dạy chúng tôi gần 50 năm trước, thầy nói cuộc sống là vô thường. Dạy triết nhưng thầy dạy chúng tôi những tư tưởng thâm trầm của nhà Phật. Thầy thường nhắc câu thơ của Nguyễn Công Trứ “Cuộc đời như mây nổi, như gió thổi, như chiêm bao” với nụ cười hồn hậu rộng mở.
Tôi vẫn còn nhớ lời thầy dạy: Mọi người, ai cũng phải chết. Socrate là người. Ông cũng phải chết. Chúng tôi nhớ thầy cười rất tươi với tam đoạn luận này. Và bây giờ, trong giấc ngủ bình yên, như lẽ vô thường, thầy sẽ không chết, và giống ông Socrate, thầy sống mãi trong lòng chúng em, những học sinh trường Trần Quý Cáp Hội An. Chúng em vẫn thấy thầy mỉm cười mãn nguyện: Cả cuộc đời hi sinh cho tâm hồn học sinh chúng em, chắp cánh qua môn triết của thầy.
(*) "Ngũ phụng tề phi" (khắc trên tấm biển vua ban). Năm người đồng hương Quảng Nam đỗ đại khoa một lần năm 1898. Đó là các ông: Phạm Liệu, Phan Quang, Phạm Tuấn, Ngô Chuân, Dương Hiển Tiến.

Sunday, August 14, 2022

COVID ƠI, COVID! - Nhiệt liệt kỷ niệm một năm ngày ra đời bài COVID ni

 Covid không chỉ gây đảo lộn trật tự xã hội, cướp đi nhiều mạng sống, phá hủy thành tựu kinh tế, mà còn đưa con người vào một tình trạng: không tin lẫn nhau.

Tỷ lệ cái chết nó gây ra so với các loại bệnh có vẻ không cao; nhưng nó đem lại "cái chết" tinh thần, nỗi hãi hùng cho nhân loại: khi nó hiện hữu, tình người dường như mất đi.
Các nước lớn, nhỏ trên thế giới thay đổi thái độ đối với Trung cộng, sau khi biến cố Vũ Hán xảy ra, từ bạn hữu nay trở nên dè chừng, lo sợ, có lúc như thù địch khi covid có mặt, gieo rắc kinh hoàng, không nước nào tránh khỏi.
Con người đi ngược lại bản năng "bầy đàn" có sẵn; họ phải tách khỏi nhau, cách ly xã hội, có nơi, còn phong tỏa nghiêm ngặt (lockdown). Bày tỏ yêu thương: bắt tay, ôm hôn, ôm ấp, thăm thú nhau, gặp gỡ nhau...tất cả đều cấm kỵ, trong thời gian covid khống chế. Bao lâu thì hết? Rất khó đoán, nếu vaccine chống nó chưa xuất hiện đại trà.
Cách ly xã hội tác động đến tận từng nhà, từng người. Ông bà được con cái cảnh báo nghiêm khắc: ba, mẹ không được tiếp khách, không được ra khỏi nhà, không được ôm hôn con cái chúng. Đa số người chết đều có bệnh nền, tuổi càng lớn, bệnh nền càng cao. Thân nhân không được cầm tay người chết mang vi rút, người quen, bạn bè, thân tộc...cũng không dám thấp thoáng, dù muốn nhìn mặt họ, một lần cuối trong đời.
Con người thời covid dường như không còn là con người nghĩa tình như thuở trước. Tôi len lén ra đứng bên lề đường, một buổi tối ở thành phố covid đang "tàn phá", bất chợt thấy một phụ nữ mặt mũi bịt kín, 1 cháu bé tầm 2 tuổi ngồi trước xe máy, đánh rơi một cái thùng giấy to, dây cột nó quấn vào bánh xe, xe ngã không mạnh lắm, nhờ chị thắng kịp. Cháu bé văng ra ngoài, đường vắng xe, cháu thật may mắn. Tôi vội vã chạy đến giúp đỡ người bị nạn, nhưng người phụ nữ ngồi bật dậy, cũng vội vã khoát tay về phía tôi, khoát lia lịa, ra hiệu từ chối; lý do quý vị thừa biết, cô ta thấy tôi tóc bạc, người già "nguy hiểm" lắm, biết đâu đã có mầm covid. Cô ta sợ cho con, cho cô, nên cô cũng sợ luôn tôi, ông già muốn ra tay nghĩa hiệp Lục Vân Tiên.
Con người thời covid, ai ai cũng có thể là..."địch", thế lực thù địch. Nhà nước bảo chống dịch như chống giặc, giặc thì có địch, mầm bệnh vô hình, người nào cũng có thể mang, "địch" trong người chứ còn gì nữa?
Có ai sống trong vùng "phủ sóng" của covid-19 mà không lo sợ ngày đêm? Nỗi sợ càng lớn hơn khi mỗi ngày 2, 3 lần, loa thôn, loa phường, loa xã...oang oang cảnh giác cho người dân phải cảnh giác dịch bệnh. Ở vùng quê có dịch, mỗi chiều, ngoài ngõ, đôi ba chiếc xe của nhân viên công lực chạy qua, chạy lại, tay loa, tay gậy, nhà nào họ cũng dòm vào, xem có ai tụ tập đông người, đánh cờ hay uống rượu. Nhiệm vụ của họ là đúng đắn nhưng người dân cảm thấy không khí như chiến tranh, chống dịch là chống giặc.
Khi ở trong các vùng dịch bị phong tỏa, đời sống vật chất con người bị hạn chế -chịu đựng được, dân Việt ngàn đời quen chịu đựng, đời sống tinh thần thật sự là bức bối. Người thân yêu cũng có nguy cơ là thù địch, vì họ có thể mang mầm covid. Gia đình không còn là chỗ dựa tinh thần, nơi gặp gỡ yêu thương, vì ai ai cũng phải cách ly để ngăn ngừa dịch bệnh.
Cách ly, giãn cách xã hội (social distance) là biện pháp tối ưu trong khi chưa có vaccine. Hãy chịu đựng, chịu đựng, và chịu đựng khi covid còn ẩn khuất, chưa bị tiêu diệt khỏi trần gian.
Có một chi tiết, ít ai để ý. Thế giới đã không đảo điên vì dịch nếu nơi phát sinh ra chúng - Trung cộng - có dân chủ.
Quý vị ngạc nhiên ư? Có gì khó hiểu. Khi vi rút xuất hiện, các nhà "khoa học" ( bác sĩ) cảnh báo, một chủng mới rất nguy hiểm, chính quyền Vũ Hán tôn trọng tiếng nói của sự thật, không bắt giữ đe nẹt họ ban đầu; những quan chức cộng sản không đợi "chỉ đạo" từ Bắc Kinh, mới ra tay hành động, kịp thời, quyết liệt như khi dịch bùng phát, thì con quỉ giết người covid kia không thể chạy theo hàng triệu người rời khỏi địa ngục, lên máy bay đi khắp thế giới, gieo họa khắp hành tinh.
Khi có nền dân chủ thật sự, Trung cộng sẵn sàng mở cửa ổ dịch, đón các nhà khoa học uy tín đến đó, chung tay với nhà khoa học địa phương, chắc chắn mầm dịch không vượt ra phạm vi một thành phố. Có gì tại Vũ Hán mà ông Tập Cận Bình muốn che giấu? Ai cũng hiểu chỉ một người không hiểu - vì độc tài.
Thôi, nhân loại cũng nên vui vẻ vác thánh giá mà đi. Covid gây tai họa cho nhân loại nhưng cũng khiến nhân loại hiểu ra: an lành nhờ minh bạch và dân chủ, nói màu mè hơn, khi sự thật được cất tiếng nói, nhân loại sẽ bớt đi khổ nạn.
Nếu bác sĩ Lượng ở Vũ Hán cất lên được tiếng nói của sự thật, sự thật được lắng nghe kịp thời, thì covid đâu là kiếp nạn mọi người đang phải mang, trong đó có người dân Sài Gòn. Và tôi, giờ này không ngồi bó gối, “gặm một nỗi căm hờn trong Covid”.
Covid ôi, cô đơn!