Wednesday, January 31, 2024

CORONA CÓ THỂ LÂY QUA NÓI CHUYỆN, KỂ CẢ QUA HƠI THỞ.

(Experts tell White House coronavirus can spread through talking or even just breathing)

Phóng viên  Elizabeth Cohen chuyên về y tế của CNN, cho biết một hội đồng khoa học uy tín, viết thư trả lời tòa Bạch Ốc hôm tối thứ 4: nghiên cứu cho thấy vi rút corona có thể lây không chỉ qua hắt hơi, ho, mà còn qua nói chuyện, cả hơi thở.

Tiến sĩ Harvey Fineberg, chủ tịch hội đồng viết: “Khi nghiên cứu Corona hiện hữu còn hạn chế, những kết quả tìm thấy khí dung (aerosolization) chứa vi rút có liên quan tới hơi thở bình thường”.

Trong thư, nhà khoa học còn cho biết các nghiên cứu của người Trung Quốc ở bệnh viện cho thấy virut vẫn lơ lửng trong không khí khi các bác sĩ thay áo quần bảo hộ, hay di chuyển qua lại trong phòng làm việc. Theo trung tâm Phòng chống bệnh Hoa Kỳ, chất di truyền (genetic material) của vi rút hiện diện xa hơn 6 feet (hơn 1,8 mét) chỗ nằm của bệnh nhân Covid.

Ông Fineberg nói rằng, các giọt nước miếng chứa vi rút hình thành khí dung (aerosolized coronavirus droplets) dễ lơ lửng trong không khí, có thể nhiễm vào một người đi qua sau đó.

Ông cho biết tiếp, vi rút lơ lửng bao lâu trong không khí tùy thuộc vào một số yếu tố, bao gồm số lượng nhiều ít vi rút một người bệnh phát ra khi thở hay nói chuyện, và cũng còn tùy vào không khí có thông thoáng hay không.

“Nếu có khí dung chứa vi rút trong một căn phòng không thông thoáng, giả sử sau đó bạn đi qua, có thể bạn sẽ hít vi rút vào phổi”. Ông Fineberg nói với CNN: “Nhưng nếu bạn ở nơi thoáng đãng, gió nhẹ cũng đánh chúng tan ngay”.

Từ những điều chuyên gia nói ở trên, chúng ta có thể suy ra, lây lan Corona dễ dàng trong các phòng kín, như ở bệnh viện chữa covid, trên du thuyền, máy bay, kể cả hàng không mẫu hạm.

Tránh xa nơi có đặt máy điều hòa không khí (cần kín), mở cửa phòng, cửa nhà, bật quạt thay máy lạnh, trong thời gian cách ly, đối phó với dịch bệnh, là lựa chọn sáng suốt nhất.

Tình hình này, khẩu trang thật hữu hiệu, "mang" cho mình nhưng “tốt” cho người.

NGƯỜI MỸ KHỜ KHẠO?

Đây là nhận xét của một số người Việt lần đầu tiên tiếp xúc với người Mỹ khi họ hiện diện đông đảo ở Việt Nam năm 1965

Lúc mới qua, họ cần một số lao động phụ giúp xây dựng các lán trại ở một vài vị trí tại Đà Nẵng. Khi có "cai" Mỹ giám sát, lao động người Việt làm rất hăng hái, cần mẫn, nhưng khi họ đi chỗ khác, mọi người ngừng việc, móc thuốc ra hút, nói chuyện phiếm câu giờ. Mỹ nó “khờ” lắm. Họ kháo với nhau như thế. Đủ giờ, đủ tuần, đủ tháng, lãnh tiền, chủ Mỹ không hề phàn hà công việc nhanh hay chậm, chất lượng hay không chất lượng.

Chỉ cần 2 trung sĩ người Việt chứng thực là lao động được nhận làm những công việc liên quan đến phục vụ đời sống quân nhân Mỹ ở các căn cứ quân sự, không cần phải lý lịch có chứng nhận của chính quyền. Những “lao động” phổ thông có người trở thành cộng sản mà Mỹ cũng vô tư, mù tịt.

Hồi chiến tranh, thành ngữ “sướng như làm sở Mỹ” có nghĩa làm việc lè phè, không năng suất, thu nhập cao.

Lính Mỹ còn “khờ” hơn khi rất tin tưởng, quyến luyến trẻ con. Làm như khi xa nhà, họ nhớ con cái ở nước Mỹ xa xôi. Không thiếu những bốt gác, sam lính ở, trẻ con ra vào như nhà mình nếu “làm quen” được họ. Chúng còn được cho kẹo, bánh, trích từ ra-xông (phần ăn) của lính Mỹ. Những câu chuyện trẻ con lấy cắp súng hay lựu đạn đem cho “Việt cộng” là có chứ không phải tuyên truyền. Những người lính Mỹ này ngây thơ, không hề nghĩ trẻ con cũng có em “hoạt động cách mạng”.

Lính Mỹ, nghe bạn tôi kể, cũng rất “khờ” ở chỗ, khi có người bị thương, kể cả Việt cộng, nếu gần họ, họ đều điều máy bay trực thăng đến chở đi cấp cứu ở các bệnh viện, như dân thường.

Một số người Việt gọi những hành động như vậy là “khờ khạo” nhưng theo tôi, không hẳn thế. Bản chất của người Mỹ có lẽ là tin người, quá mức đến nỗi cả tin.

Không cả tin thì làm sao tất cả những ông lớn trong nền kinh tế hùng mạnh của Mỹ lại chọn Trung Quốc là nơi họ gởi trọn cả trứng, những quả trứng đẻ ra vàng? (Tất nhiên vì lợi nhuận trước hết). Đến khi hữu sự, họ mới té ngửa, những thứ “vặt vãnh” như máy trợ thở, khẩu trang y tế, họ cũng phải nhờ vả đến Trung Quốc (thống đốc bang New York: nhận 1000 máy khuyến mãi, để đặt hàng 17.000 cái khác).

Chưa hết, con vi rút Corona ràng ràng xuất hiện tại Vũ Hán, TQ khăng khăng không phải do họ gây ra, còn bắn tiếng nhịp nhàng là do quân đội Mỹ đem đến. Ăn nói toàn ngoa ngôn ngụy ngữ. Rồi những bộ xét nghiệm, khẩu trang dỏm bán ra cho một số nước đang có người khốn khổ vì dịch bệnh.

Trước đó, cơ mang nào kể, các bí quyết công nghệ mũi nhọn, Mỹ có là Tàu có. Thậm chí đi sau đẻ muộn, Huawei còn làm mưa làm gió trên thế giới, nuôi tham vọng lật đổ Apple.

Có bao nhiêu “tai mắt” của Tàu ở Mỹ? Tình báo Mỹ có nắm hết hay chưa? Không nắm xuể. Nếu nắm kỹ, một khoa học gia đã không bị bắt vì nhận cả triệu đô la Mỹ, cộng tác với tình báo TQ.

Khi Nixon và Kissinger qua Bắc Kinh nói chuyện với Mao Trạch Đông chưa tới 45 phút (phân nửa dành cho phiên dịch), người Mỹ thật thà nghĩ đã có một người bạn, lôi kéo được một sư tử “đang ngủ” về phía mình.

Ngày vui ngắn chẳng tày gang , gần 50 năm sau, vi rút Vũ Hán khống chế cả thế giới, nước Mỹ cũng không nằm ngoài số phận.

Trong lúc ở Washington, Trump đang bối rối, không còn lên tay xuống ngón, một mặt đối phó “fake news” của báo chí khống chế dư luận Mỹ, và sự chống báng “ác liệt” của phe dân chủ, một mặt gồng mình chống đỡ vi rút Vũ Hán, thì ở Bắc Kinh, Tập Cận Bình đang ngồi rung đùi uống trà, nheo mắt cười cợt mấy chú Sam đang vật vã, thiếu máy trợ thở, khẩu trang y tế (những thứ Mỹ coi thường không để ý tới), với số người nhiễm vi rút, số người tử vong, tăng lên chóng mặt mỗi ngày.

Mỹ có câu: A friend indeed is a friend in need, (dịch nôm na: sa cơ mới biết bạn hiền). Nay, Mỹ đang khốn đốn vì vi rút không phải của mình tạo ra, thì kẻ “xuất khẩu” nó đang ra điều kiện nọ kia, lên giọng nhân đạo dạy đời.

Khi qua cơn đại dịch, tôi đoán, Mỹ sẽ chứng tỏ họ không “khờ khạo” như một số người (tôi nêu trong bài) từng suy nghĩ.

CHUYỆN SAU NGÀY “GIẢI PHÓNG”

Trong đám bạn thân, tôi có cơ duyên quen 2 đứa: một “quốc gia”, một “cộng sản”.

Ông bạn cộng sản.

Sau 30 tháng 4, tôi ở trọ trong một ngõ hẻm đường Trương Minh Giảng, gần trường đại học Vạn Hạnh. Lúc xin “giấy đi lại” để về thăm gia đình, vừa bước vô văn phòng phường, tôi hết sức ngạc nhiên, khi thấy tay trưởng công an, thằng bạn học cùng cấp nhưng khác lớp dân Quảng Nam, đang chễm chệ ngồi sau bàn “buya rô”, trông thật oai vệ, lẫm lẫm. Hắn hoạt động nội thành mà chúng tôi chẳng đứa nào hay biết.

Tôi định lên tiếng “ê, mi chứng cho tau tờ giấy về quê tí mi”, nhưng kịp im lặng, trước gương mặt lạnh tanh; hắn thấy tôi rồi cúi xuống đống giấy trước mặt, không một lời chào, coi như tôi không có mặt, có lẽ vì đông người bu quanh, đang nghiêm trang và yên lặng đứng chờ xin giấy tờ như tôi.

Cán bộ cách mạng chứ đâu phải thằng M mấy khi, tôi tự nhủ, rồi cầm tờ giấy bỏ lên bàn chờ tới phiên mình. Suốt 30 phút, hắn không nhìn tôi, vẫn cặm cụi làm việc, kể cả lúc trả lại tờ giấy mà vẫn không ngước lên lấy một lần. Cán bộ cách mạng mà.

Tối khuya hôm ấy, khu phố tôi ở có bố ráp của bộ đội, truy tìm một phần tử quấy rối nào đó, dẫn đầu là “ông cách mạng” M ban sáng. Khi tới chỗ chúng tôi trọ, M. đột ngột đi vào nhà, rất lẹ, vì chỗ này nó quen lui tới rất nhiều lần. Chúng tôi mở to cassette, đang “lén” nghe nhạc “ngụy” vì lúc đó rất ghét nhạc “cách mạng”. Đứa nào đứa nấy cũng xanh mặt, M. lấy nón cối xuống, trợn mắt quát chúng tôi: “Tắt đi, tắt ngay, muốn ‘chết’ hả” rồi vội vã quay ra. Độ mấy phút sau, một toán bộ đội đi vào có cả mấy thanh niên đeo băng đỏ đi trước, soát xét giấy tờ tất cả những người có mặt, một lúc sau, họ vui vẻ chào chúng tôi rồi đi ra.

Đến lúc đó tôi mới hiểu thằng M., nhìn vậy chứ không phải vậy, nghĩ lại cảnh ban sáng lúc xin chữ ký của hắn. Nếu không có hắn báo trước, chúng tôi sẽ rắc rối to vì dám nghe nhạc “đồi trụy phản động”. Giữa đám đông hắn cần phải làm mặt lạnh với tôi. Nhờ đóng kịch khá nhuyễn, chứ thân nhau bao nhiêu năm, tôi vẫn không hề biết nó hoạt động cộng sản.

Sau đó một vài năm, hắn được điều về Đà Nẵng làm trong ngành công an, và cho đến nay, tôi chưa hề gặp lại, dù rất nhiều lần về trung; nghe nói lúc hưu, chức nó cũng khá, cán bộ có bằng đại học chính quy được đào tạo ở chế độ cũ mà.

Thằng bạn quốc gia.

Không hên cho thằng này, đang học thì kẹt tuổi, có nghĩa là thừa tuổi theo quy định tổng động viên mùa hè đỏ lửa 1972, phải đăng lính vào trường sĩ quan Thủ Đức, tháng 4.1975 nó vừa thăng chức trung úy chiến tranh chính trị.

Sau mấy tuần rời đơn vị ở Đà Lạt về Sài Gòn, hắn trở lại quê Quảng Nam, trình diện học tập cải tạo ngoài đó. Trước lúc đi diện HO qua Mỹ, hắn kể tôi nghe chuyện lúc mới trình diện.

- Anh tên Tống Văn D., phải không?

- Dạ đúng, thưa đồng chí.  Nghe cán bộ nói với nhau đồng chí, hắn tưởng đó là cách xưng hô tỏ lòng kính trọng.

- Theo địch chống lại nhân dân, giết hại đồng bào, ai là đồng chí của anh - ông ta lên lớp - nói chuyện với tôi mà anh không bỏ kính đen ra hả? Ông cán bộ quát to.

- Dạ, thưa…dạ thưa…(chẳng biết thưa cái gì, hắn lúng túng, nghe ai đó nhắc nhỏ, bèn nói theo)…Dạ thưa cán bộ, bỏ kính ra tôi không thấy đường.

Bạn tôi đeo kính cận hơn 4 độ nhưng có màu đen xanh cho dịu mắt khi đi nắng. Ông cán bộ tưởng đó là kính mát thông thường.

- Lấy ra. Không cãi, không được chống đối. Không thấy đường mà làm tâm lý chiến cho địch, lại lên tới sĩ quan. Anh đừng có mà qua mặt tôi.

- Ký vào đây.

Người cán bộ đưa một tờ giấy, bạn tôi cúi xuống thật thấp, rồi lại cầm tờ giấy lên đưa sát vào mắt, xem là giấy gì, ký chỗ nào.

- Đui hay sao mà dòm sát thế? Lấy kính đeo vào. Mất thì giờ quá.

Bạn tôi vừa sợ vừa tức, nghĩ thầm trong bụng, cách nào cũng bị quát nạt, thân tù có khác. Hơn 3 năm sau, nó ra tù, cái kính đen lịch sử ấy cứ đi theo hắn mãi, cả lúc qua Mỹ định cư.

Gần 40 chục năm sau, khi gặp nhau, tôi hỏi cái kính. Nó cười: “Cũng vui, hồi cải tạo, không bao giờ tao quên cái thằng cộng sản hoạnh họe cái kính. Nhưng năm nào, ngày 30/4 ở Mỹ người ta mít tinh lên án cộng sản, tao lại không thấy còn thù hận, mỉm cười hiểu ra chuyện mi hỏi, bây giờ ai cũng biết kính viễn, kính cận, đều có thể có màu, hồi đó, ít người biết, huống hồ chi mấy ông Việt cộng trong rừng mới ra”. Nói xong nó cười thật to, nụ cười không có gì là oán thán, mấy năm trời bị đày ải, ra tù thì nghe người yêu bỏ đi lấy chồng, một ông cán bộ tập kết già gần tuổi bố cô ta.

Gặp nhau, chúng tôi kể chuyện trên trời dưới đất, không hề nghe nó nhắc đến mấy năm ở trại cải tạo. Cùng tuổi tôi nhưng nhìn nó như đàn ông năm mấy, tóc còn xanh mướt.

Không biết ở Mỹ do sung sướng, hay do mau quên quá khứ, dù đó là quá khứ đau buồn, bị đày ải, mất người yêu, tôi nhìn hắn vẫn trẻ trung, lúc nào trên môi cũng có nụ cười như hồi còn trai trẻ. Không từng ở tù như hắn, tôi đầu tóc bạc phơ, bởi lòng chưa thanh thản như hắn chăng.

NHÂN NGÀY 30 THÁNG 4

Câu chuyện chưa có lời kết.

Có chiến tranh là có hủy diệt, chết chóc và bạo lực. Bạo lực làm chiến tranh trở nên khốc liệt. Thấy như thế, gần 100 năm trước, Phan Châu Trinh cảnh giác “Bất bạo động, bạo động tắc tử”. Đường lối đấu tranh chống Pháp của chí sĩ luôn luôn là đường lối bất bạo động. Theo tôi, nguyên do chọn lựa bất bạo động, ngoài tầm nhìn của một người đi trước cả thánh Gandhi của Ấn Độ, nó còn phát sinh từ hoàn cảnh gia đình cụ Phan. Thân sinh cụ, một lãnh đạo trong phong trào Cần Vương ở Quảng Nam, đã bị chính các đồng chí của mình giết chết vì một hiểu lầm nhất thời. Theo lẽ thường, con phải “trả thù” cho cha nhưng cụ Phan đã không làm như thế. Thù nước cụ nhớ nhưng thù nhà cụ quên. Một con người có một nhân cách vĩ đại.

Hiểu lầm trong chiến tranh dẫn đến nhiều mảnh đời oan khuất, nhiều cái chết thương tâm..

Lúc còn là học sinh ở H.A, tôi biết một gia đình một xóm bên, gồm một người cha và cô con gái. Tản cư từ vùng chiến sự, ông vẫn giữ nghề thuốc bắc, có cả châm cứu. Ông còn mở thêm lớp dạy học không lấy tiền cho những trẻ em nghèo, vì hoàn cảnh không đến được trường. Ông cao ráo, thanh tú, vợ mất sớm, ở với con gái tầm 20 tuổi. Đối diện bên kia đường là nhà của một viên thượng sĩ an ninh quân đội, có một người vợ xinh đẹp, và cái xinh đẹp của người này không biết có liên quan đến mấy năm tù cho ông thầy thuốc bắc, tôi không rõ.

Viên thượng sĩ đi công tác thường xuyên, ít về nhà. Bà vợ nhiều lần qua nhà ông hàng xóm để chữa đau cột sống. Phụ nữ khi ra khỏi nhà gặp ai, thường hay chăm chút, sửa soạn gương mặt của mình cho dễ nhìn, đó là lẽ tự nhiên của họ, rất đáng yêu. Vài lần bắt gặp vợ như thế viên thượng sĩ nảy sinh hồ nghi. Hàng xóm bên kia, ông thầy thuốc vẫn vô tư hành nghề châm cứu, hốt thuốc cho bà hàng xóm trẻ trung xinh đẹp.

Một lần về bất chợt, không thấy vợ ở nhà, nhìn qua bên nhà ông thầy thuốc, loáng thoáng thấy vợ mình đang nằm trên chiếc giường, phơi trần trắng nõn, viên thượng sĩ vội vã băng qua đường, xông thẳng vào nhà. Thấy vợ nằm sấp, phơi chiếc lưng nõn nà và hai bắp chân thon đẹp, có những cây kim trên đó. Ông nổi cơn ghen, sấn đến tát thẳng vào mặt vợ một cái tóe lửa, ông thầy thuốc ngồi cạnh cũng lãnh một cùi chỏ vào hông, đau thấu trời xanh. “Về, mày về ngay, đồ đốn mạt. Đàn bà con gái mà cởi trần cho đàn ông…sờ mó (cái này ông nói hơi quá, châm cứu thì sao gọi sờ mó).

Thời chiến tranh, đánh người ít bị thưa kiện, người đánh lại là lính an ninh, ai mà dám kiện. Ông thầy thuốc không còn chữa trị “thân chủ” xinh đẹp bên hàng xóm nữa. Khi trở về từ Đ.N. kiếm chỗ trọ để chuẩn bị thi tú tài, thì tôi nghe kể, ông thầy thuốc bị bắt về ty cảnh sát vì hoạt động cộng sản, trong nhà phía sau hè có lựu đạn và tài liệu tuyên truyền.

Ai cũng thương ông thầy, hiền lành mà bị nạn, không nghĩ ông là “VC nằm vùng”, chẳng biết có đúng vậy không. Những người hàng xóm nói nhỏ chỗ riêng tư, ông thầy đi tù hẳn bị nghi là tình địch của viên thượng sĩ. Chỉ đồn đoán thôi, đâu có ai dám nói vì không có bằng chứng. Cái gì thuộc về “an ninh” thì rất nguy hiểm thời chiến.

Cô con gái ông thầy ở nhà một mình sống chật vật, nguồn sống không còn, cô bươn chải hết sức khó khăn, hàng xóm hàng  tháng giúp mỗi người ít gạo cho cô ăn qua bữa. Lúc chiến tranh, ngoài lính, công chức, các thành phần khác sinh cơ rất khó khăn, chỉ trông chờ vào trợ cấp xã hội, ác nỗi, chỉ ở những trại tạm cư mới có  tiêu chuẩn chính phủ phân phát, cô lại không nằm trong điều kiện đó.

Rồi khó khăn cũng qua đi, cha cô được ra tù sau 3 năm bị đày đi Côn Đảo. Khi đi khỏe mạnh, khi về dáng người ông tiều tụy, một cái chân không còn, bị cắt do nhiễm trùng trong tù, không chữa được. Gương mặt thanh tú không hé nổi một nụ cười như thường thấy trước đây. Ông trở lại nghề thầy thuốc, trong chỗ hàng xóm thân tình, ông tâm sự mình bị oan, không có hoạt động cộng sản, lựu đạn và tài liệu tuyên truyền ai đó đã bỏ vào nhà ông, nếu tìm ra kẻ vu oan giá họa, ông sẽ đòi lại công lý.

Trong chiến tranh, việc bắt oan là có thật. Nếu có xét nghiệm, chỉ cần đưa vào kính hiển vi, xem trên lựu đạn đó, tài liệu đó, có dấu vân tay ông thầy giáo hay không sẽ biết ngay lời ông kêu oan là đúng hay sai. Tuổi ngoài 40 mà nhìn già như 60, ông phải thường xuyên chống nạng khi đi lại.

Những ngày H.A. sắp bị quân cách mạng chiếm giữ, thành phố xảy ra nhiều hỗn loạn vì chính quyền không còn. Một số dân chạy nạn ra Đ.N., một số đang chuẩn bị đi, một số ở lại, vì không muốn xa rời nhà cửa. Trong số người chưa đi kịp có cháu tôi đang học lớp 10. Theo lời nó kể sau này, trước đêm quân cách mạng vào, thành phố không một ngọn đèn đường, tối đen như mực, nhà thượng sĩ an ninh quân đội bị ném một quả lựu đạn vào buổi tối, gia đình quây quần bên mâm cơm, 5 người chết, có cả một đứa bé 5 tuổi và bà cụ già 70, nhưng viên thượng sĩ lại may mắn thoát chết, nhờ vừa đứng lên lấy tăm xỉa răng thì lựu đạn vừa nổ, ông chỉ bị thương không đến nỗi mất mạng.

Gia đình còn ai còn sống sót, tôi hỏi người cháu, không, nó nói chỉ còn viên thượng sĩ, cho đến giờ không rõ ông ta ở đâu, còn sống hay đã chết. Cháu tôi sáng hôm sau, phải theo gia đình chạy loạn ra Đ.N., không rõ 5 người chết kia chôn cất thế nào.

Ai ném lựu đạn vào nhà giết chết cả gia đình gồm những người vô tôi vẫn còn là bí mật.

Câu chuyện tôi kể nói lên, trong chiến tranh, nguyên nhân dẫn đến cái oan khuất, cái chết, cái tang thương rất dễ xảy ra và thường xuyên xảy ra. Kiếp đời và mạng sống con người trong chiến tranh không khác gì giun dế, ai giày cũng nát, ai dần cũng tan.

Oan oan tương báo từ kiếp trước chăng, những cái chết của cả một gia đình? Là thượng sĩ an ninh, ông đâu có thiếu kẻ thù. Nhưng gia đình ông đâu có thể là kẻ thù? Có thật là oan oan tương báo, hay chỉ là ngẫu nhiên, tình cờ? Ngẫu nhiên và tình cờ vấy đầy máu của 5 người vô tội.

NHẬN TỘI KHÔNG CÓ NGHĨA LÀ PHẠM TỘI

Có một số anh chị gọi là "có học", nôm na đã qua đại học, cho rằng quyết định bác kháng nghị của viện Kiểm sát nhân dân tối cao của giám đốc thẩm Tòa án nhân dân tối cao về tử tù Hồ Duy Hải là đúng, vì Hồ Duy Hải đã nhiều lần nhận tội trước tòa sơ thẩm và tòa chung thẩm.

Chúng ta không nhắc tới hành trình 12 năm đi tìm công lý cho con của bà mẹ kiên cường, bán cả ngôi nhà để đi khắp nơi, gõ cửa khắp chốn, gởi hàng trăm lá đơn kêu cứu. Hãy nói về lời nhận tội.

Tôi xin kể hầu quý vị 2 câu chuyện, nhớ đã đọc trong một bài báo in ở Sài Gòn, quãng một vài năm sau “đổi mới” 1986, không nhớ ở báo nào.

Câu chuyện HIẾP DÂM

Cô gái trẻ khá xinh trên đường gần tới nhà vào một đêm rất khuya; vừa vào hẻm tối, không một bóng người, nhà nào cũng tắt đèn ngủ, cô bị một thanh niên từ bóng tối xông ra ôm chặt, vật ngửa cô xuống, đè thật mạnh, kéo rách cả quần, làm chuyện đồi bại, trong tiếng kêu thét không thành tiếng, miệng cô bị nhét giẻ. Sau một hồi quần quật, tên côn đồ bỏ đi, cô gái đứng dậy, với chiếc quần trắng vấy một ít máu, thất thểu về nhà kêu cửa, hốt hoảng kể lại cho mẹ mình nghe. Sau đó sự vụ được điều tra. Gia đình nghi cho anh thanh niên gần đó, từng ngỏ lời yêu đương cô gái, nhưng cô hãy còn lưỡng lự, tuy vẫn có cảm tình, hai người quen nhau từ nhỏ.

Anh thanh niên được mời đến đồn công an lấy lời khai. Anh thành khẩn nhận tội, khai thật, vì quá yêu nên sinh tà tâm, làm chuyện trái ý muốn cô gái. Hồi đó không điều tra chặt chẽ như bây giờ, phải có chứng cứ rõ ràng. Phiên tòa được mở có gia đình cô gái, nhưng vì tôn trọng sự riêng tư, cô gái được phép không có mặt. Án dành cho anh thanh niên tội hiếp dâm, nhưng thành khẩn, nhân thân tốt, 5 năm tù ở. Anh không kháng án.

Trong thời gian chờ thụ án chính thức, anh nhờ gia đình liên lạc với cô gái, xin được cưới cô làm vợ sau khi mãn tù, với suy nghĩ ngây ngô, trinh tiết đời con gái bị lấy mất, cô khó mà lấy chồng, hơn nữa anh thật bụng yêu cô. Cô gái từ chối thẳng thừng vì oán hận, cái việc quá bất ngờ, quá bạo liệt, cái đêm kinh hoàng hôm đó.

Anh thanh niên bèn bảo gia đình kêu oan xin kháng án. Anh không hiếp dâm cô gái, vì đêm đó anh trực ca, có giấy tờ chứng thực của cơ quan anh đang làm việc. Vụ án được điều tra thêm, và xử lại với tình tiết “ngoại phạm” khá thuận lợi cho chàng trai. Cô gái lần này được mời tới dự và thật may mắn, cô ta mô tả với chánh tòa, người đàn ông đêm đó khá cao to, tay đầy lông lá, không nhỏ người, tay nhẵn trụi như nghi phạm, anh bạn hàng xóm.

Tòa hỏi bị cáo, sao lại nhận cái tội mình không phạm, thì được anh thưa: Tôi vì quá yêu cô ấy, tôi nghĩ bị mất trinh vì hiếp dâm, cô sẽ khó lấy chồng, tôi tình nguyện làm chồng. Cả tòa đều cười cái anh chàng dại gái  mà lú lẫn.

Tòa tuyên anh vô tội. Lúc ra về, cô gái nhìn anh với cặp mắt ngạc nhiên, vừa trìu mến, vừa thương cảm. Bài báo không nói sau đó hai người có lấy nhau hay không, vì cô gái có một bào thai trong bụng.

Câu chuyện GIẾT NGƯỜI. Thời gian sau 1986 vài năm.

Một bí thư huyện ở một vùng quê vác súng đi săn chim. Loại súng săn quốc phòng, bắn ở cự ly rất gần có thể gây chết người. Một lần, ông nằm dưới một triền dốc cao, cách ông 50 mét, nòng súng nhắm vào một con chim lớn đang đậu ở một cành tre thấp, vắt ngang đồi dốc. Chim vào tầm ngắm, ông bóp cò súng, vừa lúc một cậu bé cỡi trâu bên kia đồi chạy tới, té liền xuống đất, chết tức thì. Ông hốt hoảng ôm đứa bé về cơ quan công an huyện, trình báo sự việc rủi ro ngộ sát. Vì là quan chức cao nhất địa phương, ông không bị đưa ra xét xử, năm đó hình như mới ban hành luật hình sự. Ông bị mất chức cho về vườn.

Nửa năm sau, có một sinh viên trường đại học công an đến điều tra thực tập ở địa phương đó. Nghe kể câu chuyện về vụ viên bí thư bắn nhầm đứa trẻ bằng súng săn chim, anh hết sức ngạc nhiên. Súng bắn chim ở cự ly xa như thế không thể gây chết người. Anh và công an huyện mở lại cuộc điều tra, xin gia đình quật tử thi để khám nghiệm. Đúng như nhận định của viên sĩ quan trẻ tuổi, thông minh: trong sọ của cháu bé có một đầu đạn AR15. Cháu bé chết do viên đạn lạc, không phải do viên đạn của súng săn. Viên cán bộ địa phương được minh oan trở lại chức vụ.

Hai câu chuyện có thật hay là do hư cấu của tác giả bài báo, quá lâu tôi không rõ, đưa ra một thông điệp: người nhận tội chưa phải là người phạm tội, cần có điều tra tỉ mỉ, tìm ra chứng cứ gây tội. Ở đây, hoàn cảnh hai câu chuyện, nghi can đều nhận tội thành khẩn, tự nguyện, không cần điều tra.

Nhận tội do tự nguyện, chưa nói nhận tội vì bị mua chuộc, ép cung, mớm cung, bức cung, không phải là chứng cứ để tòa khép tội bị can. Do đó, pháp luật “trọng chứng hơn trọng cung” là pháp luật sáng suốt.

NỖI ĐAU NGƯỜI MẸ

Có bạn trẻ cho rằng, quan tâm nỗi đau của bà mẹ sắp mất con Hồ Duy Hải, thì có ai quan tâm nỗi đau mất con của hai bà mẹ cô gái bị sát hại ở Long An?

Câu hỏi tưởng đúng nhưng sai khi so sánh hai nỗi đau ấy, nếu tòa án không chứng minh thuyết phục Hồ Duy Hải cướp mạng sống hai người con của hai bà mẹ. Vụ án kéo dài 12 năm chưa kết thúc chứng tỏ kết luận của tòa sơ thẩm và chung thẩm chưa thuyết phục. Tòa tuyên án đúng người đúng tội thì Hồ Duy Hải đã ra người thiên cổ.

Tòa án nhân dân tối cao là cơ quan phán quyết pháp luật phải “tối cao”. Nhưng kết luận của tòa “có sai sót trong hoạt động điều tra nhưng không làm thay đổi bản chất vụ án”. Đây, hàm ý Hồ Duy Hải phải chết. Nếu làm toán, 2x2=4 là phép giải thông thường. Theo “logic” của ông tòa cao nhất, ta suy luận, điều tra sai (2x2 hay 2x3, không sao) miễn có kết quả đúng, bản chất không thay đổi (=4).

Điều tra sai chỗ nào? Đây, các nhà am hiểu luật đưa ra:

1-Vật chứng gây án (quan trọng nhất): dao, thớt, ghế inox không còn, lẽ đáng chúng phải được lưu trữ cẩn mật. Dao, thớt mua ngoài chợ về. Ghế không phải chiếc ghế hung thủ gây án.

2-Chậm giám định vết máu (nghi của hung thủ), không coi trọng dấu vân tay. Bốn tháng sau, máu mới giám định, không hiệu quả vì máu phân hủy. Dấu vân tay trên chiếc thớt gây án không thấy lưu giữ, hay bỏ sót không lưu giữ. Và, dấu vân tay nghi của hung thủ không trùng gớp dấu vân tay của Hải.

3-Biên bản hỏi cung bị sửa đổi không có xác nhận của người khai.

4-Biên bản nhận dạng hung thủ lại không có chứng kiến của người nhận dạng tại tòa.

5- Một nghi can tên Nghị, báo chí lúc ấy đặt nghi vấn, lại không được đối chiếu vân tay. Anh ta là người đã yêu và ghen, một trong 2 cô gái bị giết. Anh ta bỏ đi một ngày đêm khi biết người từng yêu bị giết chết. Hồ sơ về anh ta được loại khỏi vụ án.

Vụ án cực kỳ nghiêm trọng vì có 2 người bị giết, tại sao điều tra lại “sai sót”? Vụ án sai sót khâu điều tra, tại sao không “xóa đi”, điều tra lại ngay lúc ban đầu, để kéo dài đến 12 năm, gây tổn hao tinh thần, vật chất của những người liên quan lẫn những người dân quan tâm vụ án?

Đến đây, chúng ta có thể kết luận kẻ thủ ác có đúng là Hồ Duy Hải hay là một người khác? Nếu chưa đúng kẻ thủ ác thì nỗi đau của bà mẹ 12 năm đi tìm công lý, không thể đặt cạnh câu hỏi “Mẹ Hải đau đớn mất con, mẹ của hai cô gái bị giết thì sao?”. Nỗi đau giống nhau (mẹ mất hay sắp mất con) nhưng nguyên do gây ra nỗi đau ấy không giống nhau. Hải chưa được chứng minh là kẻ phải đền tội đích đáng, để làm vơi đi nỗi đau của hai bà mẹ bằng một công lý sáng tỏ.

Nếu là những người trẻ yêu mến sự thật, chỗ dựa của gia đình, hy vọng của của quốc gia, họ phải luôn luôn tỉnh thức, luôn luôn nhận xét, đâu đúng, đâu sai, bằng lương tri của mình, không để người lợi dụng đống thông tin trên mạng, khuynh loát, chi phối nhận thức của mình.  Không thể hễ nghe “đài”, “báo” lề phải, lề trái "phán" thì tất cả đều đúng. Hãy dùng trí huệ cá nhân làm hành trang cho mình trong cuộc sống.

Khi có trí huệ, người trẻ sẽ không dễ gì tin Trịnh Xuân Thanh trốn tuốt ở đâu bên Đức, xuất hiện lên truyền hình Hà Nội, rồi “tự thú”, mà không lý luận để tìm hiểu, ông ta về Việt Nam nhờ Tề Thiên Đại Thánh hay đằng vân giá võ?

Nhà Phật: “Muốn thương yêu   phải hiểu biết”, rất đúng trong trường hợp thương yêu hai bà mẹ của người bị giết, cũng như bà mẹ của một người có con sắp bị giết. Hiểu thấu cội nguồn nỗi đau của các bà mẹ, chúng ta sẽ thương yêu họ hơn.

MUỐN THƯƠNG YÊU PHẢI HIỂU BIẾT

(Bài cuối nói về vụ án Hồ Duy Hải)

Cũng vô lý, thương yêu đến từ trái tim, có đến từ khối óc đâu, tại sao muốn thương yêu phải hiểu biết. Một đứa bé bỗng dưng khóc quấy, dỗ dành nhiều lần vẫn không nín, người chị 10 tuổi đang ẵm phết thêm mấy phát vào mông, đứa bé càng khóc dữ. Người mẹ thấy thế bèn bế con lên, sờ vào trán, em bé đang khóc vì sốt, không phải đang khóc vì quấy. Khi hiểu nguyên do, mẹ chườm đá cho con, dù chưa hết sốt, đứa bé không khóc nữa.

Có báo lên án mẹ tử tù Hồ Duy Hải quá mù quáng đeo đuổi kêu oan cho một kẻ giết người. Họ chưa hiểu trọn nỗi đau của một mẹ có người con sắp thành tử tù. Họ cũng không hiểu người tử tù kia có thể bị hàm oan. Nếu họ hiểu chứng cứ buộc tội Hồ Duy Hải không phải là con dao, cái thớt mua ngoài chợ, mà căn cứ vào lời “nhận tội” của anh ta. Nếu họ hiểu nhiều tù nhân được trả tự do vì án oan, hàng chục năm bị giam giữ, có tang chứng, vật chứng gây án hẳn hoi, cũng thú tội thành khẩn, họ sẽ thương bà mẹ kia đằng đẵng bao nhiêu năm đi tìm công lý, nhà cửa không còn. Không bà mẹ nào tàn nhẫn đến độ lấp liếm sự thật con mình giết con người mẹ khác, coi nỗi đau sắp mất con lớn hơn nỗi đau hai người mẹ đã mất con, để phải bỏ ra 12 năm trời đi khắp nơi kêu cứu, van lơn, cầu khẩn.

Nhiều người muốn kẻ giết người dã man kia phải đáng tội tử hình. Nhưng nếu họ hiểu vụ án không có gì oan khuất thì Hồ Duy Hải đã đền tội 12 năm trước, quốc hội không lên tiếng, viện kiểm sát nhân dân tối cao - một nơi hiểu biết pháp luật nhất - không kháng nghị bản án chung thẩm tội giết người, chưa kể không biết bao nhiêu bài báo, bao nhiêu dư luận, nói lên bản án chưa thuyết phục, chưa đúng người đúng tội.

Nếu người ta hiểu ra động cơ giết người của Hồ Duy Hải: vì tình, vì tiền, hay cả hai? Nếu vì tình thì Hải được loại trừ, mà phải là Nguyễn V. Ngh. người yêu cũ của H., nạn nhân bị giết trước ở bưu điện, nghi can có tiền sử nghiện ma túy đầu tiên bị bắt giữ, anh ta khai có đến bưu điện đêm đó, không vào, rồi ra về. Trong chỗ kín của cô gái, khi khám nghiệm tử thi, người ta thấy có dịch nhầy; tại sao không xét nghiệm dịch nhầy, xem có đúng là tinh trùng không? Nếu đúng có tinh trùng thì việc bắt hung thủ chỉ trong một nốt nhạc, bởi các nghi can đều được cơ quan điều tra hỏi đến.

Các vật để lại gồm tóc, dấu máu, dấu vân tay trên thân thể nạn nhân, khi chống cự lại kẻ ra tay tấn công sát hại, có được đối chiếu để tìm ADN, với Hồ Duy Hải (dấu vân tay không trùng khớp), với Nguyễn V. Ngh. hay không? Nếu chỉ căn cứ vào “lời nhận tội” thì người hiểu sự việc sẽ cảm thông cho tử tù, có thể anh ta vì áp lực hay sợ hãi nào đó, rồi khai báo lung tung, bất nhất?

Động cơ giết người vì một số cạc điện thoại, một ít vòng vàng? Một sinh viên tay yếu chân mềm (theo hình ở tòa),mới ra trường như Hải có dám đến một “cơ quan nhà nước” như bưu điện gần một chốt dân phòng, lúc 20 giờ 30 để ra tay giết một lúc tới hai người? Nhiều người am hiểu tại chỗ không thấy Hải là khách quen thân với hai cô gái bằng nghi phạm Ngh., người thường hay ngủ lại đêm, hay Misol, bồ mới của H.

Hải bị bắt 2 tháng sau đó nhận tội; có thể vì thua tiền cá độ nên giết người? Ai thua tiền cá độ cũng có thể giết người hay sao? Dịch nhầy có trong âm đạo nạn nhân chứng tỏ anh ta tấn công tình dục không được nên ra tay sát hại? Có người phụ nữ nào sắp bị mất mạng lại hưng phấn tiết ra dịch nhờn? Chỉ có dịch nhờn, trường hợp trước khi bị giết, nạn nhân bị hiếp, nhưng vụ án không nghiêng về hướng này. Giết người có thể xảy ra sau khi nạn nhân "bị ép" giao hợp; sau đó, có thể vì quá ghen H. với người yêu mới, Ngh. nảy sinh mâu thuẫn, dẫn đến hung thủ dùng dao (có sẵn đâu đó) kết liễu cô gái vì không kìm chế, lúc V., bạn nạn nhân, ra khỏi nhà mua trái cây. Hải không thể liều lĩnh hiếp dâm cô gái khi biết sắp có người về. Vì lỡ giết H, hung thủ buộc phải giết luôn V. để bịt miệng. Việc giết người xảy ra bất chợt, không chuẩn bị trước, con dao gây án mới bị bỏ lại. Kẻ giết người không chuyên nghiệp, không chuẩn bị sẵn hung khí, khi trốn đi, y rửa sạch và cất lại con dao oan nghiệt sau tấm bảng gần chỗ nằm nạn nhân. Nếu Hải rắp tâm giết đến 2 người, để cướp của, anh ta phải một sát thủ máu lạnh, chuyên nghiệp, tại sao không mang dao ấy đi để phi tang?

Chiếc thớt dính máu đập đầu người đi mua trái cây, có trong tấm hình chụp, biến đi đâu mất, đến nổi phải mua cái thớt ngoài chợ, nói là để Hải nhận dạng. Nếu đúng nhận dạng vật gây án, người ta phải mua ba cái thớt cho Hải dễ so sánh, xem cái nào giống cái thớt gây án. Nhưng cái thớt gây án bị tiêu hủy thì mua thớt về để so sánh làm gì?

Khi hiểu được những chứng cứ không thuyết phục trong vụ án chấn động cả nước, người ta sẽ thương bà mẹ kia hơn, thương một người ròng rã 12 năm trời đi tìm công lý cho con. Họ sẽ không lên án bà thương con một cách mù quáng. Tình thương mẹ dành cho con, ra sức đi tìm công lý, tại sao lại mù quáng?

Số phận của Hồ Duy Hải không biết sẽ thế nào trong tương lai. Cửa sống dành cho anh ta đang khép lại, rất hẹp, có thể là đóng chặt, vì tòa án nhân dân tối cao - một cơ quan phán quyết cao nhất - đã bác kháng nghị của viện kiểm sát nhân dân tối cao, nghĩa là y án tử hình.

Chúng ta sẽ không thương Hồ Duy Hải nếu hiểu rõ những chứng cứ buộc tội anh ta phù hợp pháp lý, tuyệt đối đúng 100%. Anh ta lẽ ra phải đền tội cách đây 12 năm kia. Hai cô gái bị giết oan khuất, gia đình của họ, hai bà mẹ đau khổ, sẽ mãn nguyện khi công lý tìm đến con họ, gia đình họ từ lâu.

Nhưng nếu chúng ta hiểu những chứng cứ buộc tội Hồ Duy Hải chưa thuyết phục, nghĩa là đúng pháp luật, không có “sai sót” trong khâu điều tra - điều tra rất quan trọng vì nó quyết định bản chất vụ án – thì chúng ta sẽ thương anh ta và bà mẹ từng đau đớn nhiều năm.

Pháp luật tiên tiến như ở Mỹ có một án lệ “thà bỏ lọt tội phạm còn hơn bắt tù hay giết oan một người vô tội”. Ở đây chúng ta chưa biết chắc Hồ Duy Hải có đúng là tội phạm (vì chứng cứ chưa vững) hay là người bị hàm oan?

“Muốn thương yêu phải hiểu biết” một câu nói rất hay của nhà Phật