Friday, October 24, 2025

HIỆP SĨ ĐƯỜNG ĐƯỜNG PHỐ

 Trước hết xin gởi lời chia buồn đến thân nhân những người bị chết khi chống trả bọn trộm xe, mà xã hội gọi họ là "hiệp sĩ đường phố".

Hiệp sĩ là tước hiệu cao quý ở nước Anh. Việt Nam không có. Gọi là hiệp sĩ, xã hội muốn vinh danh những người nghĩa hiệp: "giữa đường thấy chuyện bất bình chẳng tha" (Nguyễn Đình Chiểu). Gặp bất bình thì đứng ra can thiệp. Chỉ thấy ở đất Nam bộ, nhất là ở Sài Gòn. Các nơi khác có nhưng ít thấy. Nhưng đã lập một hội hiệp sĩ có tổ chức hẳn hoi, có phải là "giữa đường"(tình cờ) "thấy chuyện bất bình" mà ra tay không? Như vậy, can thiệp vào chuyện như bắt trộm, bắt cướp, là nhiệm vụ chính của hội này hay sao? Hội như vậy đã làm công việc của cảnh sát rồi. Tính nghĩa hiệp như vậy nên xem lại. Có người nặng lời bảo họ "ngu, háo danh". Tôi thấy nói như vậy là quá đáng.

Người Sài Gòn không háo danh. Người Sài Gòn không ngu. Tôi từng chứng kiến một cụ ông tầm 70 tuổi ra tay "đánh" một tên to khỏe đang cướp xe của một phụ nữ trước mũi ông. Ông bị đánh lại đổ máu, lê lết trên đường phố, nhưng nhờ chúng tôi và những người khác xúm lại ứng cứu, tên cướp to lớn bị bắt. Đó là nghĩa hiệp.

Một hội đi rình bắt, theo dõi bọn trộm xe, khi bản thân những "hiệp sĩ" đa số nghèo khổ, chạy ăn từng bữa, báo chí nhảy vào ca ngợi họ là "hiệp sĩ", như vậy có đạo lý không? Xã hội cần tri ân những người này bằng cách, đối với nhà chức trách, giúp đỡ họ về "nghiệp vụ" nếu có thể, và nên khuyên họ chỉ khi đối để quá mới phản ứng tự vệ, còn thì gọi ngay cảnh sát, để báo họ đến giải quyết, nếu họ là những người thấy xấu xa thì ra tay hành hiệp.

Đánh cướp, bắt trộm không phải là nhiệm vụ của họ mà là nhiệm vụ của nhà chức trách, chưa kể lỡ đánh chết người họ sẽ vướng vòng lao lý. Họ không thể biện bạch vì "công vụ" mà đánh chết người.

Cảnh sát chúng ta không đủ khả năng gìn giữ trật tự xã hội đến nỗi những "hiệp sĩ" trên phải ra tay và đã đánh đổi mạng sống? Tôi nghĩ là không. Cảnh sát VN rất giỏi, rất hiệu quả, cụ thể chỉ mấy ngày thôi, đã tóm kẻ thủ ác. Vậy, tại sao họ lại không làm cái việc mà các "hiệp sĩ bất đắc dĩ" kia đã làm, và đã bỏ mạng?

Phát áo giáp cho hiệp sĩ không phải là đề xuất khôn ngoan. Khôn ngoan là lập "đội săn bắt cướp", (trộm) tức thì. Xã hội sẽ không vì cái chết của những "hiệp sĩ" mà chia rẽ thêm: kẻ tung hô, người chửi bới (thậm chí nhà chức trách bị "chửi" nhiều nhất). Khi có cướp giật, trộm cắp, người dân, mọi người dân, là những "hiệp sĩ", sẽ báo ngay cho đội "săn bắt cướp". Những cái chết tức tưởi không còn nữa. Xã hội sẽ yên bình hơn, ít chia rẽ hơn.

TẤM HỌC BẠ CŨ

Mỗi lần soạn giấy tờ cũ ra xem là mỗi lần nhớ lại thời đi học. Cái học bạ giấy đã mềm được lấy ra đầu tiên. Năm đệ lục (lớp 7) học bạ không in thành cuốn mà thành tấm, trên giấy bản thô, màu vàng nhạt. Những ngày đi học ở trường Bồ Đề Hội An như lần lượt hiện về.

Năm 1965, quê tôi đã bắt đầu có tiếng súng. Những con đường làng, những cánh đồng xanh mướt, những bãi đất phù sa ven sông, đã bắt đầu in dấu chân của những người cầm súng. Ban ngày “quốc gia”, ban đêm “giải phóng”. Tôi phải rời khỏi làng quê nơi ông bà tổ tiên tôi từng sống hằng mấy trăm năm, sau một biến cố: bạn học cùng lớp nhất (lớp 5) đã bị bắn vào chân, máu me lênh láng ngay trước trường tiểu học nằm trong làng. Chiến tranh đã đến sân trường thân yêu của chúng tôi rồi.

Hội An, nơi tôi đặt chân đến, là một thành phố nhỏ, hiền hòa, tĩnh lặng. Những cư dân ở đây dù không biết hết tên nhau nhưng thấy nhau đều biết người kia ở chỗ nào. Nó “nhỏ” thế đó. Nhưng đó cũng là nơi rất lạ lẫm đối với tôi. Những ánh đèn điện, những con phố nhỏ, hai bên là những ngôi nhà thấp, be bé, rong rêu, những con hẻm hẹp dễ thương, nhưng cũng có những căn nhà dài, giáp đến 2 mặt tiền.Tôi hơi ngạc nhiên tại sao lại có những ao rau muống nằm xen kẽ các con đường nhựa, ngay trong thành phố.

“Học, con phải đi học, không thể bỏ dở”, cha tôi đã bảo như thế khi chia tay tôi trong một đêm tối trời,và khi sáng sớm tinh mơ hôm sau, mẹ tôi dắt tôi đi lặng lẽ trên con đường làng dẫn ra bến phà về Vĩnh Điện, rồi bắt xe đi Hội An, lúc này xe đò đã ngưng hoạt động một số đoạn vì mất an ninh.

“Ngôi trường” đầu tiên đón tôi là một hay hai phòng dừng vách bằng phên tre. Đó là những lớp học đầu tiên của trường Bồ Đề Hội An, nằm trong khuôn viên ngôi chùa lớn nhất tỉnh, chùa tỉnh hội (tức Pháp Bảo, ngày nay).

 Ngoài một số học sinh thi không đậu vào trường công lập, những lớp học trên, có lẽ tập hợp phần nhiều là những học sinh “tỵ nạn” từ các quận xa xôi, nơi đã bắt đầu có người chết vì bom, đạn. Họ là những cậu, cô gầy gò, đen sạm, ngỡ ngàng trước một “ngôi trường” dựng tạm mái tôn. Bên kia đường, xa một chút, ngôi trường chính đang cấp tập xây dựng trên nền ngôi chùa Bà Mụ  đã san bằng. Những giờ học đông nghẹt học sinh, ít nhất cũng trên  bảy  chục em nhưng không khí học hành không vì đông mà thiếu trật tự, có lẽ học trò chăm chỉ, hoặc có lẽ thầy cô dạy hay. Chắc là cả hai.

 Một thời gian không lâu, chúng tôi được chuyển về trường mới. Tại đây, các lớp học quy củ hơn. Trường có 3 tầng, một trệt và 2 lầu. Học sinh nam đi cầu thang bên phải, học sinh nữ đi cầu thang bên trái. Nhà trường sợ đi chung, các học sinh nam dễ chọc ghẹo học sinh nữ chăng? Trước khi vào lớp, học sinh phải xếp hàng, lần lượt đi theo thứ tự từng khối lớp. Thời đó mới chỉ có 4 cấp học từ đệ thất đến đệ tứ và chia làm 2 ban Anh văn, Pháp văn ở mỗi bậc học.

 Bồ Đề có lẽ là trường tư duy nhất được xây dựng đầu tiên và quy mô lớn nhất ở tỉnh lỵ (nay thành phố) Hội An thời đó. Lúc chiến tranh bắt đầu ác liệt, các vị sư ở chùa tỉnh hội đã nghĩ đến việc học của các em học sinh, vừa từ các quận lỵ đổ về, vừa giải quyết việc học cho một số học sinh không vào được trường trung học công lập duy nhất là Trần Quý Cáp. Các vị sư không nghĩ đến việc kinh doanh giáo dục lúc ấy. Nếu không có trường này, có lẽ nhiều học sinh tuổi chúng tôi lúc đó sẽ phải thất học, số phận thế nào khi bước vào đời với cái đầu không “chữ”. Những vị sư ấy bây giờ hầu hết đều đã thành người thiên cổ.

 Trên học bạ, hiệu trưởng ký tên là thầy Lê Ấm (có vợ là con cụ Phan Chu Trinh), cả bốn năm, chúng tôi không hề một lần thấy thầy, vậy mà thầy đứng ra lãnh nhận một trách nhiệm quan trọng là lãnh đạo một ngôi trường mấy trăm học sinh, mấy chục thầy cô giáo, và tin tưởng hoàn toàn vào sự điều hành, dẫn dắt về giáo dục của những vị trực tiếp làm “hiệu trưởng” như đại đức Thích Như Huệ, hay thay mặt hiệu trưởng như đại đức Thích Chơn Phát, hay thầy Nguyễn Đình Hiến thời tôi học. Các thầy đa phần từ trường Trần Quý Cáp danh tiếng qua dạy chúng tôi. Chương trình học nhẹ nhàng. Chúng tôi có nhiều thời gian đi chơi, tụ họp, dắt nhau đi ăn chè bắp, bánh tráng đập chấm mắm, đá banh, hay qua bên kia Cẩm Nam để tắm sông.

 Thầy cô thì nhiều, mấy chục năm không nhớ hết, nhưng những vị chúng tôi còn nhớ vì có những tiết học “đầy kỷ niệm”. Một trong số vị có thầy Lê Chương. Ông cao người, miệng rộng, mắt lé (con xin lỗi thầy), dạy môn Anh văn lớp đệ lục. Mỗi lần thầy vào lớp, học sinh chúng tôi lên ruột, nhiều trò than đau tim (như bạn tôi Mai Cúc, đã mất vì chiến tranh, hay Tôn Thất Chuẩn, bỏ mình trên biển cả, hay Đỗ Ngọc Thanh đang lưu lạc ở Úc châu thì cả lớp im phăng phắc, không nghe cả tiếng ruồi bay, một sự trọng đại sắp xảy ra: dò bài.

Thầy đi từ đầu lớp đến cuối lớp, mắt trừng trừng nhìn lũ chúng tôi, đang run rẩy như những con cừu sắp bị mổ thịt. Thầy nhìn bàn đầu nhưng chúng tôi cứ tưởng thầy nhìn bàn cuối. Thằng nào đây, chắc là mình quá, chúng tôi vô cùng sợ hãi, dù đã cố học thuộc những từ mới một ngày hôm trước.

A, em này. Thầy chỉ vào một học sinh đang hí hửng cười, hắn tưởng thầy đang nhìn chỗ khác. Nhìn hắn đi thất thểu thì biết tỏng cu cậu chả thuộc bài. “Zero, về chỗ ngồi”, thầy quát to. Sau này, khi tôi vào sư phạm, người ta có khuynh hướng không chọn sinh viên khuyết tật làm thầy giáo nhưng thuở đó thầy giáo rất hiếm, nhất là thầy dạy Anh văn. Thầy ơi, cũng nhờ thầy mà tụi con hiểu rằng, muốn học giỏi thì phải miệt mài đèn sách, không thể không học bài mà giỏi cho được.

Lớp chúng tôi còn có học với cô Tống Nữ Mộng Hoa, đúng như tên gọi, cô xinh đẹp, quý phái, cắt tóc mái, ngã qua một bên. Cô đi dạy bằng xe máy (thời đó, 1 chiếc Honda nữ cô đi khoảng 6 cây vàng). Cô phụ trách môn Anh văn, nhưng mỗi khi vào lớp, trước khi dò bài là màn kiểm tra vệ sinh…bàn tay chúng tôi. Em nào để móng dài kể cả nữ đều được răn đe “lần sau cô còn thấy sẽ đi ra khỏi lớp” (nhưng cô chẳng đuổi một ai vì chúng tôi đều chấp hành dù hồi đó rất hiếm có bấm móng tay, thường cắt bằng dao bén). Để móng tay dài cáu bẩn, vi trùng bám đầy, mất vệ sinh khi ăn uống. Cô nói như thế, có lẽ cô cũng biết chúng tôi, nhất là các bạn nữ, là chúa ăn vặt. Nghe đâu cô hiện giờ đang ở Mỹ với gia đình.

Về môn sử, thầy Ngô Văn Lạng có cách dạy hấp dẫn, liên hệ những gì trong sử ở quá khứ với những việc xảy ra hiện tại, làm môn này gần gũi cuộc sống học sinh. Chúng tôi thích môn sử cũng là nhờ thầy. Ông chỉ cho chúng tôi một bức ảnh không biết ở sách giáo khoa lớp nào, chụp chùa Bà Mụ, làm biểu tượng khi nói về Hội An, một thương cảng một thời sầm uất, chứ không phải Chùa Cầu. Cũng may hiện còn tam quan ngôi chùa, chứ không thì một biểu tượng lâu đời như thế không ai nhớ tới.

 Trong những năm về sau, được học nhiều thầy, cô, và nhờ học cũng được, tôi là một trong những học sinh làm “sơ- mi” cho lớp, tức sắp xếp bài tập đã có điểm thầy cho, lên danh sách, sắp xếp thứ tự từ học sinh có điểm nhiều xuống điểm ít.

Việc học hành không hề chú trọng thành tích, từ ban giám hiệu, đến thầy cô, và chúng tôi, không biết đến xếp hạng giỏi, khá, hay trung bình như bây giờ. Những học sinh giỏi từ hạng nhất đến hạng ba tháng nào đều được giảm, hoặc miễn học phí tháng đó. Cuối năm đệ tứ, những học sinh xuất sắc được chuyển qua trường Trần Quý Cáp tiếp tục cấp 3. Học có tranh đua nhưng không ganh đua, kèn cựa thứ bậc, hay cậy cha mẹ nhờ vả thầy cô cho điểm cao để được vinh danh trước lớp, trước trường. Điều tưởng đơn giản này đã giúp chúng tôi lớn lên vào đời luôn tâm niệm không lấy vinh hoa làm lý tưởng.

 Học sinh chúng tôi, ngoài giờ học, thỉnh thoảng được tham gia công tác xã hội: Khi có lụt lội, thầy, cô, nhất là các sư, chú tiểu ở chùa tỉnh hội và các chùa quanh Hội An, cùng chúng tôi đến những chỗ bà con “chạy lụt”, như giúp bồng trẻ, khuân phụ áo quần, hay phát thức ăn của nhà từ thiện cho những người rời khỏi vùng đang ở, đến thành phố để tránh lụt. Hoặc cá biệt cũng có bạn còn đi chỗ này, chỗ nọ xa hơn thành phố, trợ giúp những người trong vùng chiến sự, cũng có bạn vì vậy mà bị thương hay bỏ mạng vì “tên bay, đạn lạc”.

Cũng có những dịp vui, nhất là những buổi cắm trại nhân những ngày lễ như Phật đản, dù thành phố lúc ấy chiến tranh vẫn rình rập trên đầu người dân mỗi ngày. Thức cả đêm hò hát, tham gia các trò chơi của các anh trong “gia đình phật tử” hướng dẫn.

Ngoài dã ngoại, chúng tôi còn được học nhạc, vẽ, thể thao thể dục, và “giáo lý”(vì là trường của Phật giáo) từ rất sớm. Thầy La Gia Đinh tai điếc nhưng có tài thẩm âm rất tốt. Thầy kéo violon rất điệu nghệ. Thầy La Gia Ấm dạy nhạc, dạy cả vẽ. Tôi có một bức vẽ bằng bút chì đen về một cái ấm tích, được các bạn chọn dán vào tường trong lớp. Chính việc đó đã khuyến khích học sinh rất nhiều hơn cả những giấy khen.

Thầy Lê Viết Tú, mang kính cận rất nặng, dạy vạn vật. Thầy rất hiền, và vì cận nặng, những đứa học không thuộc bài ở cuối lớp thường cười nhìn chúng tôi ngồi ở những bàn đầu lớp, thường xuyên bị dò bài, có lẽ thầy chỉ nhìn thấy học sinh ở gần hay chăng?

Ấn tượng nhất về môn toán của thầy Võ Văn Kế (nghe đâu thầy còn khỏe), “mình hạc xương mai”, nước da rất trắng, miệng rộng, môi đỏ như con gái. Dạy học không cầm gì ngoài viên phấn. “Định  luật ‘vovanke’ đây, các em nên học thuộc để nhớ những công thức toán rắc rối nghe”. Thầy viết thành câu có vần, chẳng hạn, “sin đối huyền, cosin kề huyền. Tang đối huyền cô tang kề đối”, cho đến bây giờ tôi cũng không hiểu có phải đó là cách để tính cái gì đó với tam giác vuông, hay tam giác (quái) nào đó. Nhưng câu có vần về công thức toán của thầy tôi vẫn nhớ dù mấy chục năm sau, không rõ đúng sai. Chính sự hài hước, vui vẻ của thầy đã làm môn học khô khan như toán thành ra hấp dẫn.

 Một trong những vị thầy đức độ, hiền hòa, tôi không hề thấy quát tháo, la mắng dù bất kỳ học sinh nào trong 4 năm tôi được học lớp thầy, đó là thầy Võ Văn Mạo. Người thầy bị kiễng nhẹ ở chân, ăn mặc hơi tuềnh toàng, có phần luộm thuộm, áo lúc nào cũng bỏ vào thùng nhưng xốc xếch, tóc chải qua loa, miệng, mắt luôn cười, sau đôi kính. Kiến thức thầy uyên bác.

Bắt đầu lớp đệ lục (lớp 7) chúng tôi được hướng dẫn môn “thuyết trình”, tức là viết bài nhận định, đánh giá, trình bày trước lớp, trả lời các câu hỏi của lớp, của thầy nêu ra, về tác phẩm văn học như Hồn bướm mơ tiên, chẳng hạn. Chính cách hướng dẫn này, lần đầu tiên lũ học sinh viết câu văn chưa chỉnh, đã làm cái việc của một “nghiên cứu sinh” và nhất là dạn dĩ phát biểu trước đám đông. Thầy giảng môn văn thì rất thu hút, thỉnh thoảng pha trò, cả lớp cười vang. Lúc giảng về Thúy Kiều bị Sở Khanh dụ dỗ tước đi trinh tiết, thầy cười: “Thằng chả  đã ‘dớt cái nước nhứt’ đời con gái của cô Kiều”.

Có lần, thầy quên kéo phéc mơ tuya, lòi màu vải quần đùi bên trong, bệ vệ bước vào lớp. Chúng tôi cười ồ ngó vào chỗ đó. Thầy ngạc nhiên, ngó xuống, cũng cười, còn to hơn chúng tôi .“Thỉnh thoảng cũng cho ‘nó’ tự do chút đỉnh chứ đóng cửa mãi cũng tội”, rồi thầy vui vẻ kéo phẹt-mơ-tuya  lên, nụ cười hiền hòa.

Năm Mậu Thân, nhà thầy (gần Miễu ông Cọp) bị cháy sạch vì bom napalm; thầy tiếc nhất những cuốn sách tích cóp mấy chục năm dạy học đã biến thành tro. Lúc đi dạy sau thời gian nghỉ vì chiến trận, thầy vào trường, vừa cười vừa thông báo “các em tặng thiệp chúc tết (hình nổi rất hiếm thời đó) có 3 quả trứng đang nở ra 3 con gà con rất dễ thương đã cháy sạch rồi cùng với tủ sách của thầy. Năm đến, nhớ tặng thầy hình con gà lớn, lỡ cháy thầy còn có thịt mà ăn”, rồi thầy cười, không rõ trong lòng thầy có xót xa hay không.

Tính cách lạc quan của thầy đã dạy học sinh chúng tôi khi vào đời dẫu gặp đắng cay cũng nên nở một nụ cười chấp nhận, “đời là thế” (C’est la vie). Tôi kể nhiều về thầy bởi thầy đã đặt dấu ấn rất sâu trên tâm hồn một cậu bé như tôi, một tâm thế lạc quan, trước mọi hoàn cảnh. Và nay đã gần vào tuổi thất thập, tôi vẫn luôn lạc quan, luôn giữ nụ cười.

 Giáo dục là ở đó, là ở cốt cách của người thầy, không phải ở sách giáo khoa hay thành tích học tập.

Thưa các bạn học của tôi, những người còn sống hay những người đã mất, chúng ta cho đến ngày hôm nay, có người thành công, có người thất bại trong cuộc sống, tất cả đều đã có những hoài bão, những ước mơ, những kỷ niệm êm đẹp thời còn đi học, được các thầy dạy dỗ, theo mỗi bước đi trên cuộc đời này, đều có dấu ấn của các thầy để lại trong mỗi tâm hồn trong trắng của mỗi chúng ta từ ngày xưa còn cắp sách đến trường.

 Tôi cầm tấm học bạ ố vàng theo năm tháng mà lòng bồi hồi khôn xiết. Mãi mãi là niềm kiêu hãnh luôn nhắc về một ngôi nhà đầy ắp yêu thương: Trường trung học Bồ Đề Hội An.

KHÔNG THỂ THÀNH CÓ THỂ.

Cái bắt tay của 2 cựu thù tại Singapore vừa qua gợi nhớ nhiều cái bắt tay lịch sử khác.

 Năm 1975, 2 chỉ huy tàu Soyuz Nga, Appollo Mỹ bắt tay nhau trong không gian. Bắt tay của 2 thủ lĩnh đối chọi nhau giữa Reagan và Gorbachev, mở đầu cho sụp đổ khối cộng sản, chấm dứt chiến tranh lạnh từ 1945.

 Những cái bắt tay hòa giải sau đó như: Rabin, thủ tướng Do Thái và Arafat thủ lĩnh Palestine; Mao Trạch Đông và Nixon, đã chia rẽ Trung Quốc với Liên Xô, chấm dứt thù địch giữa Mỹ và Tàu. Nữ hoàng Elizabeth bắt tay thủ lĩnh Bắc Ái Nhĩ Lan Mac Guinness, chấm dứt xung đột đẫm máu 2 bên, mà em họ của bà bị giết tại đó. Cái bắt tay cũng hết sức ngoạn mục giữa Raul Castro và Obama, chấm dứt mấy chục năm cách ly cấm vận Cuba.

Gần đây nhất là bắt tay giữa nguyên thủ Nam, Bắc Triều Tiên, hứa hẹn một tương lai hòa giải giữa 2 miền cùng một dân tộc.

Những cái bắt tay hòa giải giữa những bên coi nhau như kẻ thù không đội trời chung, khiến chúng ta chợt suy nghĩ: ước chi sau Geneve 1954, chủ tịch Hồ Chí Minh bắt tay tổng thống Ngô Đình Diệm, thống nhất 2 miền, để Việt Nam không phải mất đi mấy triệu sinh mạng, đất nước không bị tàn phá bởi vũ khí, bom đạn của Tàu, của Liên Xô, của Mỹ.

 Hậu quả chiến tranh vì thiếu những cái bắt tay lịch sử cho đến nay vẫn còn là một "cuộc chiến" khác, âm ỉ, giữa "bên thắng cuộc", và "bên thua cuộc".

Trẻ con thật khó nghĩ khi học lịch sử " chống Mỹ cứu nước". Những đứa trẻ cháu chắt miền Nam khi hỏi: ngụy là ai mà "ác" quá vậy ông nội? Ông nội lặng lẽ trả lời, "ngụy là ông đây", vì trước 1975, ông nội làm sĩ quan VNCH.

Người ta đã bắt tay nhau khép đi quá khứ, quên đi hận thù được mà chúng ta hiện nay lại không bắt tay nhau thực lòng hay sao? Bên ngoài chúng ta nói hòa giải nhưng tận trong tâm khảm, chúng ta có thực sự hòa giải không, khi hiện nay vẫn còn những chì chiết có khi cay độc giữa "bên thắng cuộc" và "bên thua cuộc". Người Việt Nam chẳng có đủ trí tuệ, đủ lòng bao dung để biến cái "không thể" thành "có thể" hay sao: Bắt tay nhau?

ĐẶC KHU KINH TẾ

Đây là mấy từ rất nóng. Nóng như hơ. Dân mạng, có lẽ mọi người dân, rất nóng với mấy từ này. Nóng không phải vì muốn phản đối đặc khu kinh tế như một số nước đã làm, ngay cả Mỹ. Nóng vì yếu tố Trung Quốc (dù dự thảo không nói là đặc khu cho Trung Quốc thuê). Nóng vì thời hạn 99 năm như một nhượng địa. Nóng vì có ông nghị tiến sĩ bảo ở Mỹ cũng có Chinatown (vị trí thức này nói chẳng trí thức tý nào, ai lại đi so sánh lờ mờ như vậy. Chinatown ở Mỹ cũng như Chợ Lớn ở Việt Nam, không phải đặc khu).

 Nếu trong dự luật cho phép Mỹ, Anh, hay một nước châu Âu nào đó thuê 99 năm làm đặc khu kinh tế, liệu dân chúng có phản ứng như bấy lâu nay hay không? Chắc có, nhưng không bằng như mấy hôm nay. Hồng Công phồn thịnh ngày nay cũng "nhờ" là "nhượng địa" cho người Anh gần 100 năm.
 

Đặc khu kinh tế là nên làm, dù quá trễ. Nhưng làm ở vị trí nào, khả năng ai sẽ thuê, đó mới là cái đáng bàn, chứ không phải chỉ bàn cãi về luật.
 

Có 2 lý do để chọn làm đặc khu kinh tế: một, nơi nào nghèo khổ quá, chó ăn đá gà ăn muối, cần thu hút nhà đầu tư đến để xây dựng hạ tầng, kinh tế vùng đó phát triển, lan tỏa ra các vùng khác. Hai, vì muốn mở rộng điều kiện làm ăn, nghĩa là "cởi trói" quy định về cơ chế, cần tạo thông thoáng, tự do hơn những vùng còn lại.
 Vân Phong, Vân Đồn, Phú Quốc có phải là những vùng nghèo khó không? Chắc là không. Những nơi đó nếu có chính sách thông thoáng sẽ hái ra tiền dài dài mà chẳng phải ngay ngáy lo an ninh quốc gia khi có ai đó mang theo ngài Tôn Tử, thuê gần 100 năm, cửa ngõ thuận lợi vừa lên bờ, vừa ra biển.

 Mà tại sao đặc khu lại phân ra 3 miền? Nhà chức trách chắc muốn "vùng nào" cũng có đặc khu để ... cùng giàu như nhau? Hay vì "anh có, tôi cũng có" để khỏi so bì? Tư duy "ba miền" thực sự ăn sâu trong đầu óc chúng ta cũng ảnh hưởng từ thực dân Pháp, đã chia nước ta thành "3 nước" Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ.  Cũng do muốn kéo ông miền Trung nghèo khổ lên mà chúng ta đã có kinh nghiệm đắt giá về Dung Quất, khu lọc dầu ở rất xa nơi có dầu thô, và xa nguồn nhân lực.

 Có kẻ bảo Trung Quốc họ giàu nhờ đặc khu kinh tế. Có thể đúng. Nhưng sao họ không chọn Thượng Hải, hay Thiên Tân mà chọn Thâm Quyến vì đây là vùng nghèo mạt, toàn là dân chài khốn khó, và chọn rất sớm khi cả nước họ đang làm "công xã nhân dân".
 

Phú Quốc là một thiên đường nếu biết khai thác, đợi chi đặc khu. Đặc điểm thứ hai để chọn làm đặc khu kinh tế là cơ chế thông thoáng. Liệu chúng ta đang quá khép chặt hay sao? Samsung đâu cần cơ chế cởi trói vẫn mang lại thu nhập hàng đầu cho Việt Nam. Còn tuyên bố "một đồng mang lại trăm đồng", "lót ổ cho phượng hoàng đẻ", không phải là tuyên bố cân nhắc của một chính khách cẩn trọng.

 Người giàu họ đâu có khờ như ta nghĩ. Ai đem cho ta tiền dễ dàng như thế. Nếu có đặc khu là có tiền, sao bây giờ mới nghĩ tới, các nước nghèo sao không thi đua "nước nước" làm đặc khu, "tỉnh tỉnh" làm đặc khu. Lót ổ cho phượng hoàng đẻ mà không sợ tu hú sao. Ca dao: "Uổng công cà cưỡng tha mồi. Nuôi con tu hú lớn rồi (nó) bay đi".
 

Bàn cãi nếu quý vị còn sung sức, hãy bàn cách thế nào một đặc khu kinh tế sẽ không thể trở thành một nhượng địa cho một xứ sở chẳng đủ đàn bà để làm vợ.
 Bàn bạc không kỹ, mai đây họ đến ở, tha hồ cưới vợ, tha hồ đẻ con, nhờ quy chế đặc khu, họ tự do sinh sống như nước của họ. Formosa còn là ví dụ. Nhà nước địa phương năm có sự cố đã không thể dễ dàng ra vào khu họ ở nếu không được phép.
 Chẳng còn chỗ trang trọng cho quý vị ngồi để bàn việc quốc gia đại sự nữa đâu nếu không suy nghĩ kỹ lưỡng ngay từ bây giờ.

 

HÀ NỘI SẼ ĐUỔI KỊP HONG KONG, SINGAPORE.

Đó là tít báo Tuổi Trẻ online đưa tin về một hội nghị tổ chức ngày 17 tháng 6 năm 2016 tại Hà Nội, lời phát biểu của thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc. Báo giật tin có đúng ý ông thủ tướng hay không khi có mấy dòng trích cụ thể trong báo: "Hà Nội đặt ra 1 số tiêu chí trong môi trường kinh doanh đuổi sát Singapore, Hong Kong trong 4 năm tới...Tôi nghĩ Hà Nội hoàn toàn làm được".

Ước muốn chính đáng.
 Ước muốn thì ai cũng có. Những người cách mạng tiền bối đã du nhập chủ nghĩa cộng sản về Việt Nam cũng ước muốn người dân Việt Nam thoát ách thực dân, có cuộc sống ấm no, bình đẳng, người không bóc lột người. Đảng cộng sản Việt Nam cũng ước muốn năm 2020 nước ta sẽ trở thành cơ bản là một nước công nghiệp hiện đại, tiên tiến.

Khi vào lãnh nhận chức bí thư thành phố Hồ Chí Minh, ông Đinh La Thăng cũng ước muốn sẽ có 1 giải Nobel y học cho thành phố lớn nhất nước. Ông Nguyễn Thiện Nhân cũng ước muốn thành phố nầy sẽ là thành phố thông minh.

Tất cả ước muốn của các cấp trên cao lẫn dưới thấp như chúng ta đều chính đáng. Nhưng liệu những tuyên bố ấy có thành hiện thực không, đó mới là quan trọng.

Năm 1960, Kennedy đến dự một buổi lễ tổ chức tại NASA, cơ quan hàng không và không gian Hoa Kỳ, phát biểu: 10 năm nữa chúng ta sẽ cho người đổ bộ lên mặt trăng. Và năm 1969, Apollo đã đưa Armstrong lên chị Hằng cắm cờ ở đó.
 Kennedy là tổng thống, ông phát biểu hẳn phải dựa vào nghiên cứu tỉ mỉ của các nhà khoa học mới dự báo chính xác như vậy.

Ngay cả một thường dân Mỹ cũng thận trọng khi nói chuyện ngày mai. Tôi đơn cử: Trong bộ sách giáo khoa English for Today dùng ở miền Nam trước 1975, cuốn Our changing world, (Thế giới đổi thay), bài nói về computer, máy vi tính, đã dự báo (sách xuất bản khoản năm 1965): Tương lai máy vi tính sẽ chơi được cờ, sáng tác được nhạc. Đoạn nói về viễn thông (telecommunication), họ đã dự báo tương lai mọi người trên trái đất sẽ nói chuyện với nhau qua một thiết bị lớn bằng bao thuốc lá, nay chính là chiếc điện thoại di động đó, thưa quý vị.

Dự báo của một tác giả trong một cuốn sách giáo khoa không nhất thiết chính xác như dự báo của một vị tổng thống nhưng cả hai dự báo đó chắc chắn đều đã dựa vào những nghiên cứu cẩn trọng của những nhà khoa học Hoa Kỳ làm việc thầm lặng ngày đêm.

Lúc học tới bài này, học sinh và cả thầy chúng tôi đều cười: Mấy “thằng” Mỹ này hãnh tiến, cái gì cũng khoe "nhất thế giới". Làm gì có chuyện máy biết chơi cờ, sáng tác nhạc, làm gì mà xa hàng trăm ngàn cây số nói chuyện được với nhau qua một thiết bị trong bàn tay.

Nhưng giờ thì tôi cũng phải tự cười tôi. Bọn đế quốc này dự báo cũng...OK đó chứ.
 "Hà Nội sẽ đuổi kịp Singapore, Hong Kong trong vòng 4 năm nữa" sẽ thành hiện thực để đám "rỗi hơi" không còn " hả hê" châm biếm tràn lan trên mạng nữa.

 Tôi cũng tin tưởng ước muốn thật lòng đó của các vị lãnh đạo đất nước, duy chỉ có một ý này. "Hãy bắt đầu từ cái nhỏ nhất", ví như dẹp những bảng quảng cáo che khuất tầm nhìn, dọn dẹp hè phố thông thoáng, dành lối cho người đi bộ, chỉnh trang trật tự đô thị, rác phải có thùng đựng, mà một vị phó quận lớn nhất Sài Gòn đã thề thốt quyết làm bằng được nhưng chẳng làm xong, bực tức đến nỗi đòi cởi áo từ quan.

Tôi vốn không hâm mộ mấy vị tổ cộng sản, nhưng thấy ông này nói có lý: "Hãy bớt đi những lời hoa mỹ mà làm thêm những việc tầm thường mỗi ngày" (V.I. Lê Nin).

TỰ SƯỚNG

Mỗi sáng, sau khi đọc tin tức, ghé vài trang web yêu thích, tôi thường lướt chút đỉnh Facebook, cho vui.

Sáng nay, trên timeline, chú Mark, ông chủ mạng nhắc:
 "Hi, Long (tên lót, tôi tên Chiến), bạn hãy tận hưởng những giây phút tự sướng ngày hôm nay đi". A, ông ngoại quốc này muốn nói selfie đây.

Nhưng người Việt ta cũng dùng từ "tự sướng" rất nhiều, thậm chí cây gắn phone chụp hình thì gọi " gậy tự sướng"(gậy nầy gợi nhớ gậy kia), nên Tây nó bắt chước theo, để nói "tự chụp hình".

“Ông nội tự sướng đi. Bà nội tự sướng đi." Nếu cháu nội mà nói với ông bà như vậy chắc sẽ bị đánh đòn nếu ông bà nghĩ ngợi "lôi thôi", khi nghe câu đó. "Tự sướng", nguyên là từ diễn tả động tác "thủ dâm", handsex bên cạnh oral sex (khẩu dục), và sex qua đường tình dục.

Tiếng Việt rất tinh tế trong biểu đạt và rất dễ nhầm lẫn nếu không phải chính người Việt nói với nhau. "Thằng chó, mầy chui đi đâu bấy lâu mà bây giờ mới chường  mặt ra" hoàn toàn thân mật khi hai người bạn thân lâu ngày gặp nhau. Nhưng bạn nói câu đó với một người thanh niên mới quen e rằng sẽ không còn răng ăn cơm, nhai thịt, vì đó là câu nói hết sức xúc phạm.

Chúng ta là một đất nước lắm có lắm "kẻ ngoại xâm", từ Mông, Tàu, Nhựt, Pháp rồi Mỹ. Ngôn ngữ được làm giàu rất nhiều nhờ diễn đạt những khái niệm, những   tên gọi, trước đó mình không có, do nền văn hóa, văn minh của mấy "đứa xâm lược" mang lại.

Không kể từ có gốc Hán, đầy dẫy, chỉ kể sơ Tây thôi nha: xì-gà để chỉ cigare (thuốc lá quấn), ga để chỉ gare (nhà ga), tăng xông (lên máu, lên huyết áp) để chỉ tension...Mỹ nha: Ô kê (Okey, OK) là được, tốt; Năm-bờ-oanh (number one) là nhất; meo là mail (thư), pót là post (đăng), chát (tám) là chat ; tút là status; phây là facebook (hổng phải pha-tê-bốc" đâu nghe)...

Và ngôn ngữ ta đã Việt hóa rất nhiều từ ngữ phương Tây để làm giàu tiếng Việt.

Tại sao các bạn trẻ không nói seo-phi, selfie, hay "tự chụp" mà nói "tự sướng", lũ già chúng tôi đỏ mặt ngượng ngùng quá.

Tôi sẽ ví dụ từ tự sướng cụ thể trong đoạn văn sau: "Phụ nữ bây giờ rất xinh, rất nhiều, đàn ông bây giờ đẹp trai, khỏe mạnh không thiếu, hai giới cũng rất cởi mở chuyện luyến ái, hãy tìm nhau mà yêu, tội chi mà "tự sướng" cho dễ sinh thói quen không tốt, và có thể gây bệnh tật". Quý bạn thấy sao?

Thursday, October 23, 2025

CÔ GIÁO CỦA TÔI

Thực cũng đại ngôn một chút. Tôi không phải là học trò duy nhất được cô yêu mến lúc còn đi học tiếng Anh thời trung học, Trần Quý Cáp Hội An từ năm 1969.
Tôi chỉ đáng là học trò của học trò cô. Sau này vào Sài Gòn cô giảng dạy tiếng Anh cho các vị sư bằng cấp đầy mình.

Cô viết sách tiếng Anh như cuốn Buddhism through English reading, Phật giáo qua bài đọc tiếng Anh, và dịch nhiều sách Phật từ tiếng Anh sang tiếng Việt. Nhưng tôi vẫn coi là cô giáo của tôi vì tôi luôn kính trọng, yêu quý cô: cô đã cho tôi những bước chân vững chãi chuẩn bị vào đời.

 Hình ảnh của cô đối với học sinh chúng tôi đều ấn tượng như nhau. Cô xinh đẹp, cao ráo, quý phái, thông minh, đặc biệt là nghiêm nghị. Cô rất ít cười khi vào lớp nhưng khi cô cười chắc phải có cái gì đó vui lắm, cả lớp cũng phải cười. Nghiêm nghị nhưng không hề khắt khe. Chẳng bao giờ chúng tôi nghe cô to tiếng chứ đừng nói quát tháo học sinh dù không thiếu những thằng quậy phá. Giờ học của cô trôi qua rất nhanh, cô dạy rất hay. Mỗi tuần ba bận, chúng tôi luôn mong đến giờ dạy của cô.

Tại cô đẹp, quý phái nên bọn con trai vừa qua tuổi dậy thì luôn mong muốn được nhìn thấy một hình mẫu phụ nữ tuyệt vời như cô chúng tôi chăng? Suy nghĩ đường đột nhưng e có phần tha thứ được. Cạnh tôi có một bạn, tôi không tiện nêu tên, trên vở hắn toàn ghi tên Phương Lan, Phương Lan chi chít, đến nỗi tôi ái ngại nhắc nó chớ để cô thấy và đừng có nhìn cô chằm chặp như một kẻ si tình, cô biết thì chết. Mà nó chẳng chịu nghe. Trò yêu thầy, học sinh yêu cô giáo là có nhưng đối với đa phần chúng tôi, tình cảm " mông lung" đó chắc không có với cô, một con người cao quý chúng tôi luôn quý trọng.

 Chúng tôi yêu mến cô còn vì cô có hoàn cảnh mà lúc đó chúng tôi nghe phong thanh chứ không nghe đích thân cô kể. Cuộc sống tình cảm của cô chỉ còn dành cho mỗi cô con gái, nghe đâu cô ly thân, thỉnh thoảng cô dắt đến trường, tung tăng với bím tóc cài hoa vải đỏ, trong bộ đầm màu hồng nhạt, xinh xắn. Chồng cô là một bác sĩ giám đốc bệnh viện, tài năng bậc nhất về y tế lúc đó tại tỉnh Quảng Nam.

Nghĩ cô chúng tôi và vị bác sĩ đẹp trai, hào hoa kia sống ly thân, nên chúng tôi thấy...ghét ổng quá, "dám" làm cô chúng tôi đau khổ. Đến nỗi, mỗi lần có pháo kích ban đêm vào thành phố, người ta thấy ông bác sĩ " đáng ghét" kia lái xe jeep chạy khắp ngả đường chở người bị chết, bị thương về bệnh viện cấp cứu. Chúng tôi nghĩ: à, ông ta chắc theo...Việt cộng ( lúc đó chúng tôi rất sợ), chạy xe để chỉ điểm cho họ pháo kích đây. Yêu quý cô mà đâm ra ghét chồng cô, thiệt là suy nghĩ trẻ con. Ai mà đi dưới làn pháo đang nã bao giờ, chỉ vì lòng nhân đạo, muốn cứu người bị nạn kịp đến bệnh viện trong khi mọi cư dân thành phố đã yên vị dưới những bao cát chất thành hầm tránh đạn. Một hành động nghĩa hiệp hiếm có của một bác sĩ thời chiến tranh.

Lòng yêu mến cô càng sâu đậm khi sau này, chúng tôi biết thêm người con gái duy nhất của cô, đã về cùng cát bụi khi tuổi còn quá đỗi thanh xuân , nắm tro cốt gởi về một ngôi chùa xa xôi, vắng vẻ.

 Tôi áy náy đã nói đến đời tư của cô nhưng không thể không thương cảm khi nghĩ đến những nghịch cảnh cô phải trải qua.  Riêng tôi, tôi yêu mến cô còn một lẽ hoàn toàn cá nhân. Cô khuyên tôi trong 1 dịp, rất may được cô nói chuyện, vì cô hầu như không tiếp xúc với ai. Khi thấy tôi và một bạn học khá môn tiếng Anh, cô đã dặn tôi mấy điều, có lẽ cô nghĩ tôi và bạn ấy có thể theo nghiệp của cô sau này: sư phạm.  Và đúng là như vậy. Bạn tôi ra Huế còn tôi vào Sài Gòn, cả 2 đều đậu sư phạm " ngành huấn luyện giáo sư trung học đệ nhị cấp" (giáo viên cấp 3, dạy cấp nầy gọi là " giáo sư", lương tương đương phó quận trưởng thời đó).

Cô bảo tôi cố gắng tập nghe radio tiếng Anh( chương trình VOA Special English), và tập đọc sách tiếng Anh. Trời, tôi than thầm, mới lớp 10 mà nghe đài, đọc sách sao nổi. Radio thì có sẵn, (máy cassette rất hiếm, không dễ gì mua để luyện nghe) tôi lõm bõm tập nghe, rất mệt mỏi nhưng nghe cô khuyên cũng cố, dù tốc độ phát thanh chậm, và câu cú ngắn.

 Cô còn chỉ cho tôi cuốn The old man and the sea, (Ngư ông và biển cả) trong thư viện của trường. Tôi nghiền ngẫm cả tháng chưa xong, vì vừa đọc vừa đối chiếu bản dịch tiếng Việt chỗ nào không hiểu.

Mà thật, lúc vào đại học Sài Gòn, một học sinh tỉnh như tôi thi đậu vào cái lớp tiếng Anh duy nhất, non 40 người, toàn sinh viên ưu tú miền Nam thời đó, đa phần xuất thân từ trường Pháp, nói tiếng Anh cũng như gió như tiếng Pháp.

 Nhờ cô định hướng mà tôi có chút vốn vào lớp học, cả ngày không được nói tiếng Việt, học với các thầy tốt nghiệp tiến sĩ ở Mỹ, ở Anh, và ngay cả thầy người nước ngoài.  Các bạn tha thứ cho tôi hơi khoác lác chỗ này vì tôi muốn ghi nhớ một cô giáo mấy chục năm trước, đã dạy tôi một điều quý giá: tự học, làm một cái việc không hề dễ dàng cho 1 học sinh lớp 10" nghe đài, đọc sách" trong một thành phố " nhà quê" so với " đô thành Sài Gòn" dù bây giờ học sinh mẫu giáo cũng nghe và nói tiếng Anh trôi chảy, một việc rất hiếm thời đó, học sinh, thầy giáo chỉ "học chay", "dạy chay" vì chiến tranh.

Tôi không thành công như một số bạn, có đứa tiến sĩ, đứa hiệu phó đại học, đứa làm giám đốc sở, tỉnh ủy viên...Tôi thành công ở chỗ dù không phải "phó tiến sĩ" chỉ là "phó thường dân", luôn luôn tự học, suốt mấy chục năm rời trường, già vẫn học, đến con cháu cũng ngạc nhiên, cái môn mà cô giáo của tôi cô Trần Phương Lan đã động viên hơn nửa thế kỷ trước.

Đôi khi tôi tự hỏi: có phải vì yêu mến cô mà tôi yêu mến môn tiếng Anh hay không?  Chắc là cả hai.