Thursday, October 23, 2025

LẠI PHẬN ĐÀN BÀ

("Đau đớn thay phận đàn bà", Nguyễn Du)

“Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”.

Cụ Tú Xương thương cảm nói về nỗi cơ cực của vợ mình nhưng cũng là nói về nỗi cơ cực của người phụ nữ Việt Nam.

Sinh ra một bé gái có khi không phải niềm vui mà là nỗi thất vọng của những gia đình đang muốn có một đứa trai để nối dõi tông đường.

Phụ nữ đã gắn vào mình số phận bất bình đẳng khi cất tiếng khóc chào đời. Phong kiến ngàn năm đã hằn sâu trong đầu óc con người Á đông, phụ nữ chỉ là cái máy đẻ, một ô shin cần mẫn không tốn tiền thuê.

“Lại con gái, lại một vịt giời, ”. Chắc có người buồn bã pha bực tức thở ra khi đón một sinh linh nữ không mong muốn sắp bước vào đời.

Đức Khổng Tử học vấn uyên bác nhưng thật bất công, ông ta nhận xét: “phụ nhân nan hóa” (đàn bà khó giáo dục lắm). Ngài cũng bị cho là tác giả mấy câu phân biệt giới tính: "Bất hiếu hữu tam vô hậu vi đại" (trong ba tội bất hiếu, không người nối dõi là lớn nhất). Hay “nhất nam viết hữu thập nữ viết vô” ( một trai kể là có mười gái kể như không. Câu này chắc mấy đồ nho bịa ra chưa hẳn của Khổng Tử).

Truyền thống thì như thế nhưng ngôn ngữ, một bộ phận văn hóa, đâu thua, trong vấn đề trọng nam khinh nữ. Chê ai hẹp hòi ích kỷ thì gọi “tính như…đàn bà”. Đi làm việc gì mà gặp thất bại thì la lối “sáng ra đã gặp đàn bà, xui quá”. "Phụ nữ đái không qua ngọn cỏ". Phụ nữ đến kỳ kinh nguyệt các cụ không cho lên nhà trên, nhất là cấm bước qua bàn thờ.

Đừng nói ở Á đông ảnh hưởng Nho giáo nghe. Hồi Giáo có biết Nho giáo là chi. Phụ nữ vừa rồi ở Ả rập Saudi mừng tí tửng, như thắng cá độ đá banh, khi được cho phép…lái xe hơi, sau mười năm tranh đấu với chính phủ trong khi thế giới có ai cấm phụ nữ lái xe đâu. Đó là chuyện nhỏ.

 Chuyện lớn hơn. Có nước còn cấm trẻ em gái đến trường. Ra đường phải che mặt, có giám hộ là đàn ông đi kèm. Không được mở tài khoản ngân hàng. Không được ra nước ngoài khi người giám hộ (cha, chồng) không cho phép. Ngoại tình (như không chồng, quan nghệ người có vợ) có nơi còn bị ném đá đến chết, trong khi đàn ông, luật pháp cho phép cưới tới ba bà vợ. Có chỗ (rất ít) khi đến tuổi nào đó, trẻ em nữ bị đè ra cắt tiểu âm thần (chỗ nhạy cảm nhất ở bộ phận sinh dục), có trường hợp tử vong do ra máu quá nhiều, được thực hiện bởi người thân không am hiểu y tế.

Thôi, đó là chuyện do con người chứ chuyện ông trời mới đáng nói. Trong Sáng thế ký (sách cựu ước) Kitô giáo, Chúa Trời nặn đất rồi hà hơi tạo một người Nam. Sống trong vườn địa đàng vẫn cảm thấy buồn bã. Ngài chợt nhớ ra “a, chàng Nam này cần phụ nữ rồi”. Ngài bèn rút một cái xương sườn của người đàn ông và làm nên người nữ. Một lần dạo chơi thấy cây táo sum suê những quả đỏ mọng (đã được dặn cấm hái) người Nữ nghe lời sa tăng xúi dục “ăn trái nầy sẽ thông thái như Chúa” bèn hái xuống mời người Nam. Lúc bị quở phạt, chàng Nam kia chỉ người nữ và nói “tại cổ xúi tôi”.

Đó, mới xuống thế đã “ép” người (nữ) quá đáng. Thuở hồng hoang đã bất công rồi, huống hồ chi đến nay. Nhưng có phải chỉ mỗi ăn táo đâu, người nữ còn một nhiệm vụ nặng nề, đó là sinh đẻ. “Mang nặng đẻ đau” chín tháng mười ngày chứ phải đâu vài hôm thì chẳng nói làm chi. Đàn ông phải chi được tạo hóa cho thêm chức năng mang bầu để họ cảm thông nỗi đau của người phụ nữ.

Ngay cả chuyện nhà, những việc đàn ông ai làm không được, phụ nữ cũng “giành” làm hết. Không thiếu cảnh ăn xong, bận dọn dẹp thì ông chồng đã tót lên sô pha, xỉa răng, phì phèo điếu thuốc, có ông không quên bảo vợ rót ly nước trà, vô tư reo hò “cùng World cup”.

Một điều xót xa khi một số phụ nữ nghĩ họ sinh ra là để đẻ, để nuôi con, để làm việc nhà, để phụng dưỡng chồng con. Tôi thỉnh thoảng tham gia rửa chén. Gặp chị bạn đến chơi. Chị bảo “chớ bà xã đâu mà anh phải rửa chén”.

“Phụ thuộc” dường như là “căn tính” của phụ nữ sao? Có người bảo phụ nữ bây giờ không như tôi nói như vậy đâu. Họ có nhiều tự do lắm. Tự do lắm là tự do thế nào? Các cô có dám ngồi nguyên một ngày để uống bia, hút thuốc tán gẫu không? Các cô có dám đến những nơi nhạy cảm để "ăn phở", vì đã ngán "cơm" quá không? Các cô có dám ban đêm đi sớm, về trễ như các ông bù khú bên ngoài, hay là phải thức đến khuya, thấp thỏm chờ cửa đợi chồng về, còn không dám gọi điện hỏi chừng xem ổng đã về hay ngã xe đâu đó, còn e sợ làm thế “sẽ mất mặt chồng”?

Có những chị can đảm, nhưng tôi cam đoan rất ít. Nghĩ đến con, đến gia đình, họ cam chịu tất cả.

Những ngày kỷ niệm tôi thấy chỉ dành cho phụ nữ chứ không dành cho nam giới. Tuyên dương bà mẹ Việt Nam anh hùng, không có ông cha anh hùng. Như thế là vinh danh phụ nữ ư? Đúng nhưng trong 365 ngày, các đấng mày râu tặng hoa cho các chị phụ nữ được mấy lần? Ngày phụ nữ rửa chén cho họ tôi thấy ý nghĩa hơn tặng hoa. Tôi không phủ nhận sự vinh danh phụ nữ nhưng muốn nói nói rằng vinh danh như vậy chưa đủ, chưa đáng sự hy sinh của họ cho gia đình, cho xã hội.

Ngay cả những chuyện tế nhị, người phụ nữ cũng thiệt thòi. Xưa, đàn ông thì “năm thê bảy thiếp” (ác nỗi, “gái chính chuyên chỉ có một chồng”) nhưng, nay, có còn vậy không? Tôi cho là có nhưng dưới hình thái tinh vi hơn. Không kể một số quan chức biến thái nhờ tham nhũng, có những cô bồ đẹp hơn hoa hậu, thậm chí còn cất nhắc lên chức, làm những chức vụ béo bở. Phần đông đàn ông “đàng hoàng” còn lại có dám chắc mình trọn đời… “chung thủy” hay không? Nam giới có bồ nhí vỡ lở ra, xã hội còn châm chước (thậm chí được khen đào hoa) chứ nữ giới ngoại tình bị bắt được, xã hội lên án còn hơn lên án bọn khủng bố IS.

Tôi không cổ xúy ngoại tình. Tôi chỉ nhấn mạnh khía cạnh phán xét xã hội về một người nữ và một người nam trong tình cảnh đó. Có công bằng không?
Có rất nhiều trại giáo dưỡng nhốt những cô gái hành hề bán dâm.Tai sao cả nước tôi không thấy nơi nào nhốt mấy người mua dâm? Xã hội đã đối xử hết sức là phân biệt giới tính.

Chuyện bên ngoài là thế, chuyện thầm kín (như là phần thưởng của tạo hóa ban cho con người, tình yêu xác thịt) cũng không khá hơn. Liệu chúng ta có bình đẳng giới tính ngay trong chuyện thầm kín đó không? Tôi e là không vì không phải tất cả đàn ông đều biết điều đó.

Có biết bao phụ nữ đã gọi đến radio trả lời chuyện thầm kín than vãn họ không được thỏa mãn chuyện chăn gối vì chồng chỉ lo cho xong phần mình còn phần kia, thây kệ . Tôi nghĩ không ít phụ nữ như vậy nhưng họ không dám nói ra vì nghĩ" chuyện đó" mà đòi hỏi là “tội lỗi". Nhảy lên giường ngủ như hổ đói, cắn xé con mồi, cho thỏa lòng ham hố, khát khao nhục dục, nhưng nếu hành động đó khởi đầu từ người vợ, chắc chắn trong đầu ông chồng xuất hiện câu “bà này điên rồi”.

Tôi muốn trao đổi với các bạn về vấn đề bình đẳng giới tính rốt ráo như thế để mong những đấng mày râu, ngoài những hoài bão vĩ đại như ngày nào đó sẽ sống trên một đất nước như Singapore, có những việc làm chỉ mong là nhỏ thôi, để thu hẹp khoảng cách bất bình đẳng nam nữ, giúp chúng ta cư xử yêu thương chân thật hơn với “phân nửa” cuộc đời mình.

Chừng nào khi sinh ra, trẻ con lấy họ mẹ, hoặc họ cha, tùy vợ chồng quyết định, nhà nước phải chấp nhận. Chừng nào đàn ông có thể sinh đẻ như đàn bà, cũng hành kinh mấy ngày một tháng. Chừng nào phụ nữ được đứng giữa đình mà làm chủ tế như bà Võ Tắc Thiên khi xưa bên Trung Hoa. Chừng nào biết rõ có bà Trời chứ không phải mỗi ông Trời. Chừng nào bà vợ đi xa, ông chồng ở nhà trông mong như trông mẹ đi chợ. Chừng nào người vợ đá được ông chồng té ngửa vì đã ôm sổ đỏ, xe hơi đi cá độ đá banh chứ không phải ngược lại. Chừng đó sẽ có chuyện bình đẳng nam nữ. Còn muôn đời thì không.

Nhưng nếu muốn giảm thiểu tình trạng bất bình đẳng giới tính, phụ nữ nên không cưới chồng, không “dây” cái của nợ kia làm chi. Còn đã lỡ yêu thì nên xét kỹ mới lấy, không vớ phải một ông “gia trưởng bẩm sinh” sẽ “héo cả đời hoa”. Trong từ điển tiếng Việt sẽ có thêm từ “phận đàn ông” chớ không phải “phận đàn bà” như đầu bài viết, lúc đó phụ nữ sẽ hoàn toàn được giải phóng.



ĐỊCH, TA

Khái niệm địch ta không phải bây giờ mới có. Thuở khai thiên lập địa đã có rồi.
Con người xuất hiện có thuyết cho là được sống trong vườn địa đàng hạnh phúc. Bỗng có ông nội Sa Tăng (quỉ), cuộc sống rối rắm. Ác, thiện hiện ra. Địch, ta từ đó mà có.

Ở quê tôi thời Việt Minh, mấy ông địa chủ, phú nông (giai cấp bóc lột) bị đem ra đấu tố. Tuy không bị giết nhưng ruộng đất phải trưng thu, phát cho dân nghèo. Vì là vùng "tự do" (có chính quyền Việt Minh), mỗi lần bọn Tây đi càn, là mỗi lần có một đôi người trong làng bị tội, "tiếp tay bọn Pháp, bọn Việt gian bán nước", như đưa đò cho lính tây qua sông, bắt trộm mấy con gà, hay ăn cắp mấy ký gạo của dân. Khi Tây rút, những người này bị trừng trị "đích đáng". Có người "ác ôn" bị tòa án nhân dân xử tử.

Sau hiệp định Geneve 1954 , con cái những người địa chủ, những thân nhân của người "tiếp tay thực dân" tham gia chính quyền "quốc gia", bắt đầu trả thù những người trước đây kết tội, đấu tố hay giết chết cha mẹ thân nhân họ. Cuộc trả đũa khốc liệt, tuy không rộng khắp, nhưng đã khiến một số Việt Minh trước đây, có người bị bỏ bao bố thả sông, có người oan uất treo cổ tự vẫn.

Rồi 1975, đất nước chấm dứt chiến tranh. Những người " ngụy xưa" không bị giết chết nhưng sự phân biệt còn đớn đau hơn mất mạng sống. Cùng với những "ngụy quân, ngụy quyền" khác, họ bị đưa đi cải tạo trên rừng. Đời sống tinh thần bẩn chật, đời sống vật chất khó khăn. Họ bị nhìn như những người có tội với nhân dân.
Một số vượt biên ra nước ngoài, hình thành một tầng lớp, đa phần trong số họ, nhất là những người lớn tuổi tham gia chính quyền cũ, đều xem những người cộng sản như kẻ thù. Và những người cộng sản cũng xem họ bằng con mắt dè dặt, hồ nghi không khác.

Lúc nào đất nước cũng có "địch, ta", dường như không có "đồng bào". Ngay trên mạng ảo, mỗi ngày ngó vào, vô số những lời lẽ cay độc dành cho đối phương không phải là "ta".

Mấy chục năm hòa bình, mấy chục năm thống nhất, chúng ta vẫn còn chia rẽ bởi quan điểm địch, ta.

 

Có lẽ hơn 150 năm chia cắt và nội chiến thời Trịnh, Nguyễn; hơn 80 năm đô hộ Pháp, ba miền đất nước bọn thực dân âm mưu chia rẽ dân tộc; và mấy mươi năm Nam, Bắc đánh nhau, hận thù chồng chất đầy lịch sử, người Việt Nam không có đủ thời gian hòa giải, và đoàn kết hay sao?

Có học giả cho rằng người Việt không yêu nước, vì "yêu nước" phải "yêu người" trong nước, nên hễ có cơ hội là cầm giáo mác đâm nhau. Mẹ Việt Nam đau buồn không chỉ vì có con, người chết bên ta, người chết bên địch, mà đau buồn vì phải có những người con không biết thương yêu nhau vì cứ phân biệt “địch-ta”.

GIẾT NGƯỜI “MỘT CÁCH NHÂN ĐẠO”.


Hình ảnh bên dưới không phải là nhẫn giả mà là nhẫn thật, phát xít Đức thu nhặt từ những xác chết người Do Thái trong trại giam tập trung trong đệ nhị thế chiến từ các phòng hơi ngạt.

Nay, cách giết người được " cải thiện" "nhân đạo" hơn. Thay vì bằng súng, bằng búa, bằng cán cuốc, "tử tù" sẽ được chích thuốc độc, chết từ từ êm thấm, chẳng rên la.

Đọc tiểu sử Cao Bá Quát, tôi thấy chi tiết bây giờ mới biết, không rõ đúng sai. Ông dùng muội đèn để sửa bài thi cho sĩ tử, bị phát hiện. Tội, ban đầu nghị án phải chém, sau thấy ông học hành giỏi có tiếng, bèn gia ân cho chết toàn thây, nghị án xuống còn " thắt cổ"( dùng lụa). Sau thấy ông vì tiếc bài thi hay mà chữa, triều đình chuyển qua cách chức.

Cách đây vài năm, đọc tin thấy một phụ nữ một nước Hồi Giáo, 40 tuổi, rất xinh đẹp, phạm tội ngoại tình vì lấy một đàn ông có vợ. Chị chồng chết; con trai đầu kêu cứu cấp chính quyền địa phương xin giảm tội. Một tổ chức nhân quyền cũng tham gia thỉnh nguyện. Để tỏ lòng nhân đạo, thay vì bị ném đá đến chết, người phụ nữ kia được giảm nhẹ hình phạt, chỉ xử treo cổ.

Một số nước tư bản có lần phản ứng nước ta, đã xuất thịt bò sang nước họ, từ những con bò bị đập búa vào đầu một cách "dã man", họ lên án, mà không được chích điện chết trước mổ thịt, cho nó nhân đạo, như ở nước họ.

Bọn Đức quốc xã kể trên đã đi đầu trong việc giết người êm thấm đó chứ. Đúng là con người văn minh. Đã giết một con người, giết một sinh vật, cũng đòi hỏi văn minh, êm thấm, và nhân đạo nữa chớ.

Ghi chú: khoa học chứng minh súc vật chết nhẹ nhàng trước khi mổ thịt, chất độc do phản ứng trước cái chết dai dẳng, đau đớn, không tiết ra, không gây hại cho người ăn.

TUYÊN TRUYỀN

"Điều dối trá được lặp lại nhiều lần cũng sẽ có người tin". Có người cho ý tưởng này bắt nguồn từ Goebbel, ông tổ tuyên truyền Đức quốc xã. Người khác cho rằng đây là ý tưởng của ông tổ cộng sản Lê Nin.

Tôi cho rằng hai ông tổ trên đã “ăn cắp” phát minh này của ông tổ người Việt Nam chúng ta. Lúc đánh quân ngoại xâm phương Bắc thế kỷ 11, Lý Thường Kiệt đã cho người lấy bùn bôi vào con ngựa đá, phao tin có thần linh đã giúp đánh giặc, đang đêm cưỡi con ngựa đá qua sông. Nhà Lý thắng lợi.

Thế kỷ 15, Nguyễn Trãi, quân sư của Lê Lợi, cho lính lượm những chiếc lá to trên núi, lấy mật ong viết “Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần”, mối ăn những chỗ có mật, tạo thành chữ đã nói, rồi thả xuống dòng sông, cho người nhặt lên, công bố với nghĩa quân, để có chính nghĩa mà khởi binh, dân đều theo vì trời đã định như thế.

Hai việc làm của 2 bậc công thần, hai triều đại cách nhau mấy trăm năm, có cùng mục đích : “tuyên truyền”.  Có người bảo chế độ toàn trị, độc tài mới sử dụng tuyên truyền, các nước tư bản văn minh không có. Xin thưa, người đó đã nhầm.
Từ "tuyên truyền" của chúng ta hơi “dễ sợ” vì người  Tây nó dịch thành propaganda, chứ không phải là truyền thông, media.

Trump là "nạn nhân truyền thông" lớn nhất trong lịch sử tranh cử tổng thống Mỹ. Trong cuộc chạy đua vào nhà trắng, có 3 cuộc tranh luận quyết định gần như kết quả thắng, thua giữa 2 ứng cử viên đảng cộng hòa và đảng dân chủ. Trump lúc nào cũng bị báo chí Mỹ xếp sau bà Hillary Clinton, ngay trong 3 cuộc tranh luận, theo thăm dò của những hãng tin sừng sỏ nước Mỹ như CNN. Báo chí Mỹ đã sử dụng sức mạnh gần như vô địch nhằm…đánh gục người không phe cánh họ.

Nhưng, họ đã thất bại trong việc “tuyên truyền”. Donald Trump, không một ngày làm “cán bộ”, đã đánh bại Hillary Clinton, một luật sư xinh đẹp, xuất sắc vào lớp hàng đầu nước Mỹ, mặc dù ai cũng nghĩ tổng thống  xuất thân “con buôn” này làm sao có thể  địch nổi hệ thống báo chí hầu như đảng dân chủ chi phối.

Tại sao tuyên truyền hùng hậu như vậy mà không mang lại kết quả cho đảng dân chủ? Đơn giản họ tuyên truyền không đúng sự thật hay đúng nhưng  chỉ năm mươi phần trăm.

Dân chúng Mỹ đã chán ngấy “nói mà không làm”, “hùng biện” như Obama nhưng  nước Mỹ ngày càng yếu thể, ngay cả Tập Cận Bình cũng “dắt mũi” ông ta.

Cuộc biểu tình phản ứng luật đặc khu vừa rồi ở Bình Thuận dẫn đến bạo loạn, người ta đốt cháy tài sản nhà nước, có một số báo đưa tin có người bị xúi dục, có người nhận tiền đôi ba trăm, lợi dụng lòng yêu nước của dân chúng để  phá hoại đất nước.

Có ai thiếu khôn ngoan đến nỗi vì vài trăm đồng mà đưa đầu cho người ta  đập, thậm chí sẽ ở tù. Chưa kể đưa tin (tuyên truyền) như vậy đã đánh giá thấp dân chúng, chỉ vì đồng tiền cỏn con mà đi phá bỏ cái chính quyền của dân, do dân, và vì dân (dù chỉ cấp tỉnh là Bình Thuận).

Người dân thời Lý Thường Kiệt, Nguyễn Trãi, không phải là người dân thời đại internet. Tuyên truyền, (hay "truyền thông" nghĩ rộng hơn) phải hợp lý, dựa vào sự thật mới có tác dụng hữu ích. Nếu tuyên truyền không đúng thì ngay nước Mỹ cũng thất bại (đảng Dân chủ) nữa là chúng ta, đang trên đường đi tới dân chủ.
Nhưng tôi nghĩ có một lối “tuyên truyền” hay nhất, hữu hiệu nhất, ít tốn kém nhất, đó là : “nói đi đôi với làm”- tri hành hợp nhất.

 

SÍNH NGOẠI

“Tháo nhẫn ma nhê (nhẫn cưới) liệng xuống sông.
Thôi thôi tôi cũng mẹt xì (cám ơn) ông”.
Tú Xương chế giễu một phụ nữ lấy Tây nhưng rồi chia tay. Vũ Trọng Phụng thì viết "Làm đĩ", "Kỹ nghệ lấy Tây"...để châm biếm xã hội suy đồi vì bị ảnh hưởng "bọn" Tây dương. Nhà thơ rồi nhà văn yêu nước nói trên, ít nhiều cũng có đầu óc bài Tây vì chúng xâm lược nước ta.

Sang thời VNCH, Mỹ qua, kéo theo đội quân xa đàn bà, chưa có tác phẩm " Kỹ nghệ lấy Mỹ" nhưng có một số phụ nữ Việt "mua vui" cho họ, xã hội gọi khinh miệt "đĩ Mỹ". Sâu thẳm, người Việt rất dị ứng với "ngoại bang". Họ phản ứng lại bằng ngôn ngữ. Tuy họ học chữ Hán, chữ Pháp, rồi chữ Mỹ (Anh) nhưng những gì thuộc về ngoại bang, dù bạn hay thù, họ đều không thích những cái khác biệt hay đi ngược lại văn hóa riêng của mình. Chừng mực nào đó, dân ta vì quá yêu nước, ghét xâm lược, nên không thích  ngoại bang hiện diện trên đất nước mình dưới mọi hình thức.

Thời đại ngày nay, thế giới thu hẹp, nhờ làm ăn với nhau, nhờ internet. Người ta hòa nhập rất nhiều. Hôn nhân ngoại chủng không bị châm biếm mà còn là niềm hãnh diện "đổi đời". Tiếng Anh là ngôn ngữ quốc tế, lên ngôi như thống soái. Tôi ví dụ.  VTV, một thương hiệu truyền thông nổi tiếng, là tiếng Việt hay tiếng Anh?
Tiếng Việt thì không. Chắc là Anh, Vietnam Television. Từ đó đoán ra: VOV là Voice of Vietnam, đài tiếng nói Việt Nam; HTV là Ho Chi Minh city Television; DNRTV là Đồng Nai Radio Television; BRTV là Bà Rịa Vũng Tàu Radio Television. QRT (cu e rờ tê) là Quảng Nam Radio Television...Rảnh có thể kể thêm hàng chục đài tên Tây như thế ở ta.

Người xem đang ở Việt Nam hay ở ngoại quốc mà nghe "tiếng nói Việt Nam" bằng tên toàn tiếng nước ngoài? Để hội nhập ư? Hội nhập cái gì? Có người bảo viết tiếng tây như thế cho nó oách, nó sang, nó dễ nhớ. Thế thì THVL, Truyền hình Vĩnh Long, tên của một đài địa phương gọi bằng tiếng Việt như vậy là nhà quê, khó nhớ hay sao?

 Câu chuyện có thật dưới chế độ VNCH. Một ca sĩ rất nổi tiếng lấy một tên tây, mỗi lần ra sân khấu đều xướng cái tên tây rất kêu, JOE MARCEL(thì phải, lâu quá). Bộ "Thông tin, Chiêu hồi" của chế độ đã cấm anh ta biểu diễn nơi công cộng nếu còn dùng tên ngoại quốc, và chỉ được phép hát khi xướng tên Việt Nam.

Tính ra ngành thông tin văn hóa chúng ta cởi mở hơn ngành thông tin chế độ Sài Gòn rất nhiều. Mấy cái đài "tiếng nói của dân" mà mang toàn tên tây.  VTV, khi bật máy lên, mọi người tự dịch ra tiếng Việt để hiểu đó là đài Truyền hình Việt Nam, không phải đài tây đâu nhé.

 

QUẢNG NAM HAY CÃI

Đây hình như là tên một cuốn sách hay bài báo,  tôi không rõ tác giả và cũng chưa được đọc vì vài lần vào tiệm sách hỏi mua mà không có. Tác giả không rõ là người Quảng Nam hay là người am hiểu Quảng Nam.  Đã thành cuốn sách hay bài nghiên cứu, chắc hẳn “hay cãi” cũng nổi tiếng ngang hàng hoặc hơn sự nổi tiếng của món Mỳ Quảng, ở Sài Gòn cũng như cả nước đều có bán.

 Hay cãi, đó là đặc điểm nổi bật của Quảng Nam mà tôi là người có nhau, có rốn đã chôn sâu ngoài đó. Hay cãi, bản chất nó xấu hay tốt, bàn sau, giờ chỉ nói qua lịch sử của nó, những danh nhân có “bản chất hay cãi” của Quảng Nam.

 Mọi người đều biết cụ Phan Châu Trinh là nhà chí sĩ Quảng Nam. Lúc hoạt động cách mạng chống thực dân Pháp, cụ là bạn chí thân với cụ Phan Bội Châu, người Nghệ An. Hai đường lối đấu tranh khác nhau; cụ Phan (Quảng Nam), chủ trương bất bạo động, cụ Phan (Nghệ An) chủ trương bạo động (lúc đầu), và chủ trương đánh Pháp dựa vào Nhật, lúc đó là “anh cả lùn” ở châu Á. Cụ Phan Châu Trinh viết bài “đả kích” quan điểm của cụ Phan Bội Châu dù biết bạn mình tất cả đều vì độc lập nước nhà. “ Bất vọng ngoại, vọng ngoại tắc ngu; bất bạo động, bạo động tắc tử” (không ỷ ngoại, ngu mới dựa nước ngoài; không bạo động, bạo động sẽ chết).

Cùng “đồng chí” mà không “nhất trí 100%” (như các đại hội chúng ta) mà đi “cãi” nhau. Phan Bội Châu không vì bị phê phán như “mạt sát”, tìm cách “chơi lại” Phan Châu Trinh, nhưng khi đồng chí mình mất, cụ khóc lóc thương tiếc khôn cùng, không vì tính “hay cãi” của bạn mà oán trách. Cụ thấy bạn mình “cãi quá đúng”, đến bây giờ cả 100 năm vẫn đúng, còn “thời sự”: ngu mới “dựa” nước ngoài, bạo động sẽ đổ máu.

 Về văn học, mọi người đều biết cụ Phan Khôi, nổi tiếng không phải bài thơ “Tình già” mở đầu phong trào thơ mới, mà những nghiên cứu học thuật, những bài báo có cái nhìn sắc sảo về mọi vấn đề, và là người đầu tiên tại Việt Nam dịch Kinh Thánh cho đạo Kitô.

Tính “hay cãi” của cụ như là đặc trưng thế mạnh cộng với đầu óc quãng bác khi phải sống với ngòi bút không mấy tự do dưới thời thực dân Pháp. Người bị cụ phê phán mạnh mẽ nhất là Phạm Quỳnh (bị thủ tiêu sau 1945, một lần với Ngô Đình Khôi anh ruột Ngô Đình Diệm, có con trai là nhạc sĩ Phạm Tuyên). Học giả Phạm Quỳnh là người rất uyên bác, nổi tiếng với câu “ Truyện Kiều còn, tiếng nước ta còn, tiếng nước ta còn thì nước ta còn” nhưng khi tranh luận (cãi, nôm na rứa) về những vấn đề học thuật, cụ cũng “chào thua” ông già Quảng Nam "hay cãi". Phan Khôi không gọi Phạm Quỳnh là học giả mà là học phiệt, vì ngoài làm báo, Phạm Quỳnh còn được người Pháp nể trọng, sau còn làm đến chức như thủ tướng chính phủ Bảo Đại.

“Hay cãi” là đức tính nếu “hay cãi” đó được soi sáng bởi trí tuệ, nhưng “hay cãi” vì tự ái, vì đố kỵ sẽ thành “cãi chày, cãi cối”.

Người Quảng nổi tiếng hiếu học, thông minh, có lẽ nhờ hay cãi, hay tìm tòi cái mới, không cam chịu cái cũ, cái lỗi thời chăng?

Hay cãi  còn là cách bảo vệ “ý muốn mình là chân lý” của người Quảng. Họ không tin bất cứ cái gì nếu họ chưa được tranh luận, hoặc tranh cãi, bắt bẻ vấn đề đó thấu đáo. Có “chết cũng cãi”. Tôi kể  một câu chuyện bạn bè người Nam hay diễu tôi khi có dịp, nhất là lúc bù khú, rượu vào lời ra. Họ hỏi tôi. “Mầy có biết vì sao quê mầy có nhiều liệt sĩ, nhiều bà mẹ VN anh hùng không?”.  Chưa kịp hiểu, họ nói tiếp: “Vì hay cãi, đó nghe mậy. Trong hầm bí mật có  ba chiến sĩ du kích núp tránh xe tăng Mỹ đang đi càn bên trên. Một người nhận xét: xe bọc thép. Người thứ hai cãi: xe thiết giáp. Người thứ 3 không chịu thua, cãi tiếp: xe tăng. Cả 3 tranh cãi bất phân thắng bại. Một người đề xuất: chi bằng mở nắp hầm, xem tận mắt, ai đúng ai sai. Và cả ba hy sinh khi Mỹ phát hiện và nã đạn”.

Họ kể xong rồi cười, dù câu chuyện này tôi dư biết, họ bịa ra để châm chọc tính hay cãi của tôi, người Quảng Nam. Họ đùa nhưng tôi suy nghĩ: Người Quảng Nam chúng tôi có truyền thống: vì sự thật, mạng sống cũng không màng.

 Hay cãi còn do có đầu óc nhận xét nhạy bén sự việc dưới nhiều cái nhìn của người đang nói chuyện. Mỗi người có tư duy riêng, khi có ai kết luận sự việc mà họ không thuận, mà đa phần là vậy, họ bắt đầu bày tỏ quan điểm của mình, vậy là “cãi bá cháy, cãi banh-ta-lông”. Nhưng người Quảng rất kiên định. Ít khi họ dung hòa quan điểm khi tranh cãi. Họ chỉ dừng tranh cãi khi có chuyện gì đó quan trọng như vợ họ gọi về để đi dự tiệc khác có dịp “cãi” đã hơn.

 Trong tất cả các buổi tiệc đông người, các bạn sẽ không được nghe hát, ngâm thơ, hay kể chuyện hề, chuyện tiếu lâm; các bạn sẽ được thưởng thức mỗi một thứ, đó là tiếng tranh luận, được gia cố cường độ cao vút, nhờ hơi men phò trợ, những đề tài trên trời dưới đất, trong nước thế giới, trong nhà ngoài phố, nghĩa là đủ mọi đề tài, nếu buổi tiệc đó chỉ có toàn người Quảng chúng tôi. Tuy không đến nỗi phải đôi co dẫn đến đánh nhau như những ông nghị Đài Loan bạn hay thấy trên TV, họ làm buổi tiệc hào hứng sôi nổi qua những đề tài đề cập tới với những màn tranh cãi không thôi. Tôi cũng là người Quảng Nam điển hình như thế.

Tuy nhiên, cái tốt nào cũng có giới hạn, nếu hay cãi là một tính tốt. “Cãi vừa phải” để buổi nói chuyện với bạn bè vui vẻ hòa nhã; “cãi đúng người”, không cãi lại cấp trên khi làm việc, có thể cản trở thăng tiến bản thân dù mình có tài năng; “cãi đúng việc” để công việc tốt hơn sau bàn luận; “cãi trí tuệ” nghĩa là phải chấp nhận người “cãi đúng”, không vì tự ái, (tau đâu thua mày), cãi tới bến, thiếu lòng khoan dung, và sự can đảm chấp nhận khác biệt tư tưởng. Không nên nghĩ rằng chỉ mình là chân lý, thiên hạ thì không, “mục hạ vô nhân”. Rồi tự mãn tính hay cãi của người Quảng mà hô khẩu hiệu “Tính hay cãi, vô địch, muôn năm”.

 Cãi để tìm chân lý. Cãi để chấp nhận khác biệt. Cãi để gia đình, xã hội, ngày một tôt hơn, thế nên: Quảng Nam hay cãi, không cãi không phải Quảng Nam.

 

 

THÁI LAN, TẠI SAO KHÔNG?

Sự kiện 13 người Thái mắc kẹt trong hang Tham Luang ngập nước thu hút chú ý dư luận thế giới hơn nửa tháng qua. Với chiều dài khoảng 5 cây số, hang sâu có chỗ 800 mét trong lòng đất dưới những khu rừng, việc giải cứu thật sự gian nan.
Hang dài, ẩm ướt, tối tăm, có nơi ngập nước, có nơi khô(nhưng ít),lối vào có chỗ rất hẹp, thợ lặn phải gỡ bình dưỡng khí mới lọt qua. Mùa mưa đang bắt đầu, máy bơm công suất cực lớn nhưng không thể làm vơi nước dù đôi ba tấc. Sức khỏe của các em từ 11 đến 15 tuổi, chỉ 1 em 17 tuổi, đều rất yếu.

 Dưỡng khí trong hang là 15% trong khi dưỡng khí cho phép tối thiểu cho sự sống phải từ 19,5 đến 23,5%, cộng thêm gần 10 ngày nhịn đói, mọi việc rất mong manh. Đã có một thợ lặn Thái tử vong do thiếu dưỡng khí khi chưa kịp ra khỏi h ang.Những thân nhân ngồi gào khóc mỗi ngày mừng rỡ: con cháu họ đã được tìm thấy, và cho đến sáng nay, đã có 4 em khỏe hơn, được đưa ra khỏi hang an toàn đến bệnh viện.

Cách đưa các em ra khỏi hang động thực hiện rất thận trọng.  Mỗi em sẽ có 2 thợ lặn đi cùng, một đi trước, mang bình dưỡng khí cho mình, cho cả em phía sau với mặt nạ trùm kín(full-face mask), và một đi sau em bé, cầm đèn pha trong nước, trong bóng đêm dày đặc. Cả ba đều dò theo sợi dây kéo dài trong hang được rải đều các bình dưỡng khí dự phòng. Thời gian để mang một em bị nạn ra ngoài là 11 tiếng.

 Với sự góp sức của 50 thợ lặn quốc tế dày dạn kinh nghiệm, 40 thợ lặn Thái đã nỗ lực từng giờ,hết sức nôn nóng, đem ra khỏi hang 9 người còn lại, nếu mưa trút nữa, khả năng "mất dạng", nghĩa là ngập toàn hang là rất cao, phải đợi đến tháng 10 mới lòi ra miệng hang.


 Cánh cửa hy vọng cứu hết người bị nạn của những người cứu hộ mỗi ngày một khép lại vì dự báo thứ 2 đến thứ 4 là có mưa rất lớn, khả năng xảy ra 90%. Tất cả dân chúng nước Thái cùng nhà vua đáng kính của họ đang hồi hộp lo sợ cho an nguy những người còn lại trong hang. Những người tình nguyện đến ngoài của hang, giúp nấu cơm nước, thậm chí giặt áo quần cho binh sĩ đang tham gia chiến dịch giải cứu.

 Cầu mong cho những người Thái vượt qua khổ nạn này. Nhìn những người Thái, tôi nghĩ đến người Việt Nam.  Chúng ta chưa gặp những tình huống tương tự nhưng đất nước chúng ta cũng có những tình huống thương tâm, những đồng bào bị chết có đến mấy chục  (như sụp cầu dẫn Cần Thơ), hay đất chùi, lở núi, chôn vùi hàng chục người mỗi năm.

Phản ứng của chúng ta trước những thảm trạng đó thế nào?  Có xót xa, có thương cảm, có sẻ chia, nhưng cũng có những suy nghĩ, những phát ngôn, làm cạn đi lương tâm một con người nhân ái: những cái chết thương tâm không khỏi nhận những lời...chửi bới (như trước cái chết của những "hiệp sĩ đường phố").

Những đóng góp cho người chết do thiên tai, do hoạn nạn, thường bị lo sợ ăn bớt. Vụ cầu dẫn Cần Thơ, nhiều nhà từ thiện muốn đích thân đến giao tiền cho thân nhân người quá cố vì không tin giúp đỡ qua trung gian. Cũng không thiếu cảnh ăn chặn tiền, vật phẩm cứu trợ, chia phần không đúng, của một số cán bộ hư hỏng nhân cách, không chút lương tri trước nỗi đau của đồng loại( dù số này không nhiều).

 Chúng ta từng quen với cái chết của con người, cái đau khổ của đồng bào trong thời gian quá dài của chiến tranh, nên chúng ta ít thấy thương cảm cho việc chỉ có mấy chục người bỏ mạng hay sao? Chúng ta vẫn còn những người không có lòng trắc ẩn?

Những người dân Thái đã tha thứ cho vị thầy đã dẫn con cái họ vào một nơi nguy hiểm đã được cảnh báo, một việc làm tương đương việc giết người vì vô ý. Liệu ở Việt Nam chúng ta sẽ không chửi bới, lên án..."thằng thầy chết tiệt" kia không?
Tôi nhìn hành xử của Thái Lan (đất nước của "đảo chánh") mà mong ước Việt Nam (đất nước của "ổn định"), người sớm yêu thương nhau chân thành, từ lời nói đến việc làm, dẫu vẫn còn bộn bề bên mình nhiều ưu tư lo lắng cho tương lai.

 Như người Thái, tại sao không?