Sunday, October 19, 2025

ĐIỆN ẢNH MIỀN NAM

(Lời người dịch: “Việt Nam không đòi xương máu, Việt Nam kêu gọi thương nhau”, câu hát của Phạm Duy, trong phim NGƯỜI TÌNH KHÔNG CHÂN DUNG. Một cuốn phim không ca ngợi chiến tranh. Một cuốn phim nói lên số phận con người trong chiến tranh. Số phận đau thương không chỉ của những người cầm súng. Số phận của người phụ nữ Việt Nam: người mẹ, người vợ, và người yêu. Xem phim mới thấy tài năng diễn xuất thiên bẩm của nữ tài tử Kiều Chinh, với dáng vẻ thướt tha của một cô gái Việt Nam thuần túy, khuôn mặt sắc nét quý phái dù ở góc quay nào, và đôi mắt, nhất là đôi mắt, luôn mở to nhân từ, tỏ rạng, ngời sáng như những vì sao trong đêm tối chiến tranh).

The Cinema Industry, bài của nữ tài tử điện ảnh Kiều Chinh, ở chương 14 trong cuốn The Republic of Vietnam, 1955–1975 (Việt Nam cộng hòa, 1955-1975).

Vài nét về tác giả (trong chương sách): Kiều Chinh là nữ diễn viên, nhà sản xuất phim, đóng góp trong sự phát triển nghệ thuật điện ảnh VNCH từ buổi phôi thai. Bà xuất hiện ngắn ngủi trong phim The quiet American (Người Mỹ trầm lặng) cuốn phim Mỹ quay đầu tiên ở VN năm 1956, và đóng vai chính trong phim Hồi chuông Thiên Mụ.

Đến năm 1975, Kiều Chinh là nữ diễn viên hàng đầu trong 20 bộ phim khác đóng ở Nam VN, Thái Lan, Ấn Độ, Phi Luật Tân, Singapore, Đài Loan, kể cả một số phim Mỹ quay ở châu Á, như A Yank in Vietnam (Chú lính Mỹ ở VN), The Devil Within (Quỷ ở trong),Operation CIA (Điệp vụ CIA) và Destination Vietnam (VN nơi đến). Bà định cư ở California sau tháng 4 năm 1975, và xuất hiện trong hơn một trăm show truyền hình và phim ảnh như M*A*S*H, The Letter (Bức thư), Vietnam-Texas (Texas-Việt Nam), The Joy Luck Club (Câu lạc bộ may mắn), và Journey from the Fall (Hành trình sau sụp đổ).

Bà nhận rất nhiều vinh dự và giải thưởng, như Nữ diễn viên hay nhất (Sài Gòn, 1969), Nữ diễn viên hàng đầu hay nhất (Đài Bắc, 1973), ba giải trong một năm Thành tựu trọn đời ở Liên hoan phim Việt (2003), Liên hoan phim San Diego (2003), Liên hoan phim Cinema Della Donne ở Ý (2003), và giải Liên hoan phim quốc tế ở San Francisco (2015). Cộng tác với Lewis P. Puller cựu chiến binh quá cố và nhà báo Terry Anderson, Kiều Chinh là người đồng sáng lập và đồng chủ tịch Quỹ trẻ em VN, một tổ chức phi chính phủ xây 51 ngôi trường học cho hơn 30 ngàn học sinh ở Việt Nam từ năm 1993.

Bài viết của bà:

Là một diễn viên điện ảnh, không phải một quan chức chính phủ, hay là nhà nghiên cứu, đóng góp của tôi cho cuốn sách chỉ là một nghệ sĩ kể một câu chuyện về những trải nghiệm cuộc đời mình trong một quãng thời gian có một không hai trong chế độ VNCH.

Tôi được may mắn góp phần vào nền điện ảnh Nam Việt Nam từ buổi ban đầu, tương tác với nền điện ảnh quốc tế từ sớm vào năm 1956. Tiếng “Action” (bắt đầu) – một hiệu lệnh diễn xuất – tôi nhận trong nghề của mình từ đạo diễn Joseph L. Mankiewicz, lúc tôi có một vai đóng ngắn trong phim Người Mỹ trầm lặng – cuốn phim Mỹ đầu tiên đóng tại Việt Nam. Sau đó vào năm 1957, tôi thật sự đi vào nền điện ảnh với vai chính trong phim Tiếng chuông Thiên Mụ, do Studio Tân Việt sản xuất, ông Bùi Diễm đảm trách.

Từ đó, tôi bắt đầu đóng vai nữ chính trong hai chục phim khác, không những sản xuất tại Việt Nam mà còn tại Thái Lan, Ấn Độ, Đài Loan, Singapore, và Phi Luật Tân, gồm cả các phim của người Mỹ được quay tại châu Á, như Một chú lính Mỹ ở VN, Điệp vụ CIA, Quỷ ở trong, và Việt Nam nơi đến. Phim sau cùng trong hai mươi năm hành nghề đóng phim ở Việt Nam là Full House (Ngôi nhà đầy đủ), quay tại Singapore. Phim quay xong ngày 15 tháng 4 năm 1975, và tôi quay về Sài Gòn ngay thời gian Nam Việt Nam đang sụp đổ.

Sau những tháng ngày trôi nổi làm người người tỵ nạn mất quê hương, cuối cùng tôi đến Mỹ, được giới thiệu vào Hollywood nhờ sự giúp đỡ của nữ diễn viên Tippi Hedren và nam diễn viên William Holden. Và cũng từ đây, tôi quyết định ở với “nghệ thuật thứ bảy” – nhận ra rằng tôi phải trở lại từ đầu. Và từ tháng 10 năm 1975, tôi xuất hiện trong hơn một trăm show diễn truyền hình và phim ảnh như M*A*S*H, đóng chung với Alan Alda, Bức thư, đóng chung với Lee Remick, và Về nhà (Welcome home) với Kris Kristofferson.

Tôi cũng đóng vai chính trong một số phim như Vietnam-Texas (Việt Nam -Texas), The Joy Luck Club (Câu lạc bộ vui may mắn), Face (Gương mặt), Tempted (Bị cám dỗ), và Journey from the Fall (Hành trình từ mùa thu). Gần đây nhất, tôi là người đồng sản xuất phim Ride the Thunder (Cưỡi trên sấm sét). Tôi nhận giải Thành tựu trọn đời tại Liên hoan Phim quốc tế 2015 ở San Francisco.

Trong bốn chục năm về sau tại Hoa Kỳ, tôi đã đóng khá nhiều “vai” (trò). Tôi làm phim. Tôi cũng làm việc với công ty Greater Talent Network ở Nữu Ước, với tư cách người phát ngôn chuyên nghiệp cho các sự kiện văn hóa hay đại học khắp nước Mỹ. Và, quan trọng hơn, cựu chiến binh quá cố Lewis P. Puller, nhà báo Terry Anderson, và tôi đồng sáng lập và đồng chủ tịch Quỹ trẻ em Việt nam, một tổ chức phi chính phủ bao gồm nhiều cựu chiến binh người Mỹ.

Tổ chức VCF tìm cách xây dựng mạng lưới trường tiểu học tại VN, ở những vùng từng bị tàn phá nhiều nhất trong chiến tranh – Quỹ trẻ em VN còn nhắm tới năm mươi tám ngàn chỗ ngồi ở trường lớp mỗi niên khóa – khớp với con số tên người trên bức tường Tưởng niệm cựu binh Mỹ chết trong chiến tranh VN. Chúng tôi đã xây dựng năm mươi mốt ngôi trường cho hơn ba chục ngàn học sinh.

CỘT MỐC QUAN TRỌNG TRONG LỊCH SỬ ĐIỆN ẢNH.

2016 là năm đánh dấu 120 năm ngày khai sinh điện ảnh thế giới. Đó cũng là ngày đánh dấu 120 năm lần đầu tiên người Việt biết tới máy ghi hình. Điều này cho thấy điện ảnh đến Việt Nam sớm hơn nhiều nước láng giềng. Tuy nhiên, hơn một thế kỷ sau, nền điện ảnh VN vẫn còn kém phát triển so với các nước châu Á khác.

Lý do giải thích kém phát triển thế này: điện ảnh, giống như nghề nghiệp hay công ty, luôn chung số phận với đất nước của nó. Vì thế, trước khi kể lại sự phát triển của kỹ nghệ phim ảnh trong thời VNCH, tôi muốn nhắc qua những cột mốc quan trọng trong nền điện ảnh thế giới.

Phim ảnh chính thức khởi đầu từ nước Pháp, khi anh em nhà Lumière sáng chế máy quay phim, tráng phim, và chiếu phim, thường được gọi là cinématographe (xi-nê-ma, sinh ra thuật ngữ cinema, điện ảnh). Ba ngày sau Năm mới 1896, Salon Indien (nhà nghỉ theo phong cách Ấn), ở vị trí tầng hầm nhà hàng Grand Café ở Ba Lê, biến thành nơi tổ chức chiếu phim lần đầu cho công chúng có bán vé. Từ đó, nghệ thuật thứ bảy được giới thiệu ra khắp thế giới.

Cũng trong năm 1896, Pathé Studio làm một cuốn phim nói về nước Pháp và các thuộc địa của mình, có một vài cảnh chiếu về An Nam (tên cũ của Việt Nam), lấy khung cảnh ở kinh đô Huế, trình chiếu ở các cuộc liên hoan khắp nước Pháp. Dân chúng được chỉ cho biết cách thức làm phim, và họ đổ xô đi xem miễn phí. Vào lúc đó, ông vua sáng chế dụng cụ điện Hoa Kỳ Thomas Edison, vừa trưng ra chiếc Kinetograph, máy ảnh chỉ có thể chiếu những hình ảnh chuyển động một cách thô sơ, người xem cần ánh sáng chiếu vào và nhìn qua một chiếc kính phóng đại.

Tuy nhiên, bá quyền người Pháp trong điện ảnh không kéo dài. Xi-nê-ma, phát minh kỳ lạ của anh em nhà Lumière, không có thời gian để phát triển. Mười tám năm sau, Chiến tranh thế giới lần thứ nhất bùng nổ, 1914. Dù chỉ kéo dài 4 năm nhưng Pháp và châu Âu bị tàn phá nặng nề. Trong khi đó, Hoa Kỳ nhanh chóng biến thành trung tâm khoa học và văn hóa thế giới.

Hollywood nhờ đó trở thành một người “chơi” đầu tiên với nhiều nghệ sĩ lừng lẫy trong những phim không lời như Charlie Chaplin và Buster Keaton.

Thời kỳ phim câm, khởi đầu ở nước Pháp, cũng chấm dứt năm 1927, thì một số hãng như Warner Bros và Fox Pictures sản xuất thành công những bộ phim lồng tiếng đầu tiên, The Jazz Singer and The Lights of New York (Ca sĩ nhạc jazz và ánh đèn Nữu Ước). Không lâu sau đệ nhất thế chiến, Pháp cố sức lấy lại sự thống trị điện ảnh nhưng thật ra đã muộn.

Tháng tám năm 1920, gần hồ Hoàn Kiếm ở trung tâm Hà Nội, một rạp chiếu phim đầu tiên – Pathé – được khánh thành. Hãng phim Pathé và Indochina Film (Phim Đông Dương) được thành lập. Từ 1923, hàng loạt phim được sản xuất, gồm cả phim chủ đề Kim Vân Kiều, ra mắt lần đầu ở rạp chiếu phim Cinema Palace, phố Tràng Tiền tháng ba năm 1924.

Mặc dù Kim Vân Kiều cơ bản dựa vào tác phẩm của thi hào Nguyễn Du, các diễn viên thủ vai lại là các ca sĩ hát cải lương của đoàn hát Quảng Lạc. Các cảnh quay thực hiện tại Hà Nội nhưng đoàn làm phim và đạo diễn lại đến từ nước Pháp.

Tuy nhiên, vào lúc chấm dứt thời kỳ phim câm, tài năng điện ảnh Việt Nam phát lộ khi Nguyễn Lan Hương thực hiện và công chiếu một số phim tài liệu như Đám tang vua Khải Định và Tấn tôn đức Bảo Đại (Bảo Đại lên ngôi).

Bước vào thời kỳ phim có lồng tiếng, bấy giờ đến lượt Sài Gòn chứng tỏ tài năng về kỹ thuật của người Việt Nam. Năm 1938, một công ty phim ở Hồng Kông, South China Motion Pictures Co. sản xuất bộ phim có tên Cánh đồng ma với sự cộng tác của Công đoàn nghệ sĩ An Nam (Annam Artist Union) phụ trách về kịch bản, đóng phim. Trong những diễn viên từ Hà Nội đi Hồng Công có nhà văn Nguyễn Tuân. Những mẩu chuyện về việc làm phim sau này được ông kể lại trong truyện Một chuyến đi. Và hậu quả, người ta nhầm lẫn Cánh đồng ma là phim nói đầu tiên ở Việt Nam.

Sự thật thì, không phải Hà Nội hoặc Hồng Kông, mà Sài Gòn mới là nơi “phim nói” 35 ly sản xuất đầu tiên tại Việt Nam. Đó là phim Trọn với tình, dài chín mươi phút, do Nguyễn Văn Định của Asia Film sản xuất năm 1938. Mọi thứ, từ kịch bản, đạo diễn đến máy móc, kỹ thuật hình ảnh, âm thanh, đều do người Việt Nam thể hiện. Thuở đó ở Sài Gòn, ngoài hãng Asia Film còn có hãng Vietnam Film. Nội trong năm 1939, hai hãng này cho ra đời bảy bộ phim chủ đề.

Thế rồi, năm 1939, Thế chiến thứ hai bùng nổ. Máy bay đồng minh liên tục dội bom Hà Nội và Sài Gòn sau khi quân Nhật tiến vào Đông Dương năm 1942. (Một quả bom rơi xuống phòng hộ sản nhà thương Phủ Doãn ở Hà Nội đã giết chết người mẹ sinh em kế tôi đang nằm ở đó). Sau chấm dứt đệ nhị thế chiến là phong trào kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp và sau đó là chiến tranh Việt Nam.

Cùng với số phận của đất nước, nền điện ảnh Việt Nam, dẫu nhiều nỗ lực vươn lên, vẫn tiếp tục chìm sâu vào sự mờ mịt của chiến tranh và lệ thuộc. Suốt thời gian u ám ấy, các rạp phim trên tất cả đô thị đều do người Pháp khống chế; họ chỉ chiếu những phim Pháp hoặc phim phụ đề tiếng Pháp. Tôi tận mắt chứng kiến điều đó, khi lớn lên những tháng ngày ở Hà Nội, cha tôi dắt đến rạp Philharmonique hay rạp Cầu Gỗ.

Tôi còn nhớ xem phim Limelight (Ánh đèn sân khấu) của Charlie Chaplin, The Best Years of Our Life (tiếng Pháp Les Plus Belles Anne de Notre Vie, Năm tháng đẹp trong đời chúng tôi) của đạo diễn Mỹ, William Wyler, bộ phim đoạt bảy giải Oscar năm 1947, và All about Eve (Tất cả về Eva) của đạo diễn Mỹ Joseph Leo Mankiewicz, trong năm 1950 được đề cử mười bốn lần giải Oscar.

Đọc tạp chí Ciné Revue với sự giải thích của cha mình, tôi hiểu rằng gần hết những bộ phim thời ấy được người Mỹ sản xuất, người Pháp chẳng qua là những nhà phân phối phim độc quyền trong thuộc địa của họ. Phim Pháp đúng nghĩa thật hiếm, nói chi đến phim Việt.

TỪ 1954 ĐẾN ĐỆ NHẤT NỀN CỘNG HÒA

Sau 15 năm tê liệt hoàn toàn vì chiến tranh, đầu 1954, Hà Nội cuối cùng sản xuất phim Kiếp hoa, kịch bản và diễn viên của đoàn hát Kim Chung, nhưng đạo diễn và dàn dựng phim lại từ Hồng Kông. Giống Cánh đồng ma trước đó, chỉ sản xuất mỗi một phim. Cùng lúc, ở Sài Gòn, hãng Việt Thanh Film chiếu Quan Âm Thị Kính, Tống Ngọc Hạp thì làm phim Lục Vân Tiên với nữ diễn viên Thu Trang thủ vai chính. Đáng kể nhất, Alpha Film sản xuất Bến cũ, phim màu đầu tiên tại Việt Nam, mặc dù được thu bằng máy quay phim 16 ly. Diễn viên nam chính là Hoàng Vĩnh Lộc, đạo diễn Thái Thúc Nha, chủ hãng Alpha Film. Hai nhân vật này tiếp tục đóng góp to lớn cho sự phát triển nền điện ảnh Việt Nam.

Ba tuần sau sự thất bại của Pháp tại Điện Biên Phủ, tháng năm năm 1954, một phái đoàn quân sự Mỹ do tướng Edward Lansdale dẫn đầu khởi sự các hoạt động tại Việt nam. Hai tháng sau, cuộc đình chiến giữa Việt Minh và Pháp ký kết tại Geneve. Việt Nam vì đó mà chia ra hai: Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (theo cộng sản) ở miền Bắc và Việt Nam Cộng Hòa (RVN) ở miền Nam. Máy bay và tàu thủy Hoa Kỳ mang gần một triệu người từ Bắc vào Nam theo chiến dịch có tên “Đường đến Tự Do” (Passage to Freedom). Tôi ở trong số người đó, trở thành một người tỵ nạn ngay trên quê hương mình.

Là nhà điều phối trong cuộc di cư này, ngay khi đến Việt Nam, tướng Lansdale, cùng với một số chuyên viên điện ảnh Phi Luật Tân, nhanh chóng hoàn tất bộ phim “Ánh sáng miền Nam” nhằm mục đích tuyên truyền. Theo sau đó, vẫn chủ đề về di cư, xuất hiện phim Chúng tôi muốn sống của nhà sản xuất Bùi Diễm, Vĩnh Noãn làm đạo diễn. Hơn một năm sau cuộc di cư, tháng mười 1955, VNCH chính thức trở thành một quốc gia độc lập. Đồng thời với người lính Pháp cuối cùng về nước, điện ảnh Việt Nam chấm dứt sáu chục năm lệ thuộc người Pháp.

Cùng lúc đó, câu chuyện về những người Mỹ giúp đánh bật các ảnh hưởng thực dân Anh và Pháp ở Nam Việt Nam thực sự là đề tài lôi cuốn, gây cảm hứng ra đời tiểu thuyết Người Mỹ trầm lặng của Graham Greene, xuất bản năm 1955. Nhân vật chính tên Phượng là cô gái Sài Gòn, “mắc kẹt” trong sự chèo kéo giữa một nhà văn người Anh và một nhân viên tình báo CIA người Mỹ. Chính Edward Lansdale dàn xếp phim Người Mỹ trầm lặng được quay tại Sài Gòn do Joseph Mankiewicz làm đạo diễn năm 1956, các diễn viên chính Michael Redgrave và Audie Murphy.

Tôi được mời viết kịch bản và đóng vai nữ chính của phim do Mankiewicz làm đạo diễn, nhưng vì gia đình phản đối, tôi chỉ đóng một vai xuất hiện rất ngắn trong phim. Người làm cố vấn cho Mankiewicz lúc đó là Bùi Diễm, sau này rời phim trường đi vào chính trị. (Chức vụ sau cùng của ông là đại sứ VNCH tại Hoa Kỳ).

Thấu hiểu tình huống ấy, sau này năm 1957, Bùi Diễm đích thân dàn xếp cho tôi chính thức bước vào nghề điện ảnh, với vai nữ chính, một ni cô trong phim Hồi chuông Thiên Mụ, chính ông làm giám đốc điều hành. Cả hai phim, trước ngày ra mắt là sự chào đón long trọng tại khách sạn Continental trên đường Tự Do, tên mới thay cho tên đường Catinat thời Pháp thuộc. Hai bộ phim Mỹ-Việt này đánh dấu sự tiến bộ đặc biệt trong kỹ nghệ điện ảnh Việt Nam, từ một thuộc địa của Pháp tới một nước cộng hòa độc lập. Xuất phát từ những hoàn cảnh lịch sử, Việt Nam chịu ảnh hưởng rất sâu xa văn hóa nước Pháp.

Khi người Pháp rời đi, Việt Nam Cộng Hòa được Hoa Kỳ hỗ trợ, phim Mỹ và phim nói tiếng Anh được Cosunam nhập khẩu bắt đầu có mặt tại Việt Nam. Ở miền Nam, gần một triệu dân mới di cư từ miền Bắc, di sản văn hóa dân tộc vẫn còn giữ bản sắc đồng nhất. Các tài năng đến từ mọi miền đất nước – ví dụ, trong Hồi chuông Thiên Mụ, nhà sản xuất phim Bùi Diễm, vai nam chính Lê Quỳnh, vai nữ chính Kiều Chinh, đến từ miền Bắc trong khi đạo diễn Lê Dân là người miền Nam, cuốn phim lai được quay tại Huế, cùng đoàn làm phim của cả Nam lẫn Trung!

Với những bước đi đầu tiên đúng hướng này, Nam Việt Nam trong nền đệ nhất cộng hòa rõ ràng ghi nét son trên trang đầu tiên của lịch sử điện ảnh nước nhà. Trong khi đó, phim ảnh và truyền thông miền Bắc nằm dưới sự kiểm soát của nhà nước, thì ở miền Nam, chính quyền chỉ hỗ trợ để giúp đỡ ngành điện ảnh phục hồi trở lại. Các hãng phim quốc tế được mời tới Việt nam để hợp tác, tạo động lực phát triển nền điện ảnh tư nhân.

Nội trong năm 1957, cùng với Hồi chuông Thiên Mụ của hãng Tân Việt, miền Nam có ba mươi bảy phim khác được các hãng phim tư nhân sản xuất. Trong số đó có Người đẹp Bình Dương của hãng Mỹ Vân với Thẩm Thúy hằng, Lòng nhân đạo, Ngọc Bồ Đề với Kim Cương. Cạnh các diễn viên như Thu Trang, Trang Thiên Kim, Khánh Ngọc, Mai Trâm, Lê Quỳnh, Nguyễn Long, Long Cương, các diễn viên Thẩm Thúy Hằng, Kim Cương, Kiều Chinh và Thanh Nga, một thế hệ tài tử tài năng xuất hiện như Đoàn Châu Mậu, Trần Quang, Minh Trường Sơn, Xuân Phát, La Thoại Tân, Huy Cường, Ngọc Phu, Hùng Cường, Vân Hùng, Thành Được, Túy Phượng, Nguyễn Chánh Tín, Túy Hồng, Kim Vui, Thanh Lan, và rất nhiều người nữa.

CHUYỆN BAO ĐỒNG.

Thi thoảng cũng nên "bao đồng" một tí. Tôi tự nghĩ như vậy khi đề cập những chuyện "trên trời, dưới đất" rồi " vĩ mô, vi mô".

"Bao đồng" hôm nay là chuyện bầu cử...Trung ương Đảng(viết hoa vì VN chỉ 1 đảng cầm quyền).

Có hơn 200 vị, đã được quy hoạch, sẽ thay mặt 95 triệu dân điều hành đất nước.

Sướng khổ chi dân ta cũng nhờ vào các vị. Chuyện nay nhớ chuyện xưa.

Thời Việt Minh, phong trào chống Pháp mạnh mẽ và lan khắp cả nước. Ở quê tôi, những người đầu tiên theo lời hiệu triệu của cụ Hồ là những thầy dạy học. Họ là thành phần "trí thức" thời đó ở nông thôn. Trí thức vì dân hầu hết mù chữ, họ đã có bằng đíp lôm, viết và nói tiếng Tây như gió.

Vùng quê chia nhiều huyện, các ông trưởng huyện đều là thầy giáo. Thầy giáo thường xuất thân từ những gia đình giàu có, có khi là địa chủ, vì nghèo thì ăn chưa no, lấy tiền đâu đi học, phải đi xa tít ra Hội An hay Huế (đi bộ).

Tại sao lãnh đạo không phải là bần cố nông, giai cấp cách mạng nhất, tôi hỏi cha tôi, cũng là đảng viên Việt Minh. "Họ có học đâu". Cha tôi trả lời. "Giỏi mới lãnh đạo chớ". Ý ông nói giỏi là "có học".

Ông giải thích thêm, hồi đó trí thức theo VM nhiều là nhờ lời kêu gọi của cụ Hồ "cầu người tài các làng xã ra giúp nước". Từ quần chúng nhân dân xuất phát ra những người ưu tú theo "cách mạng".

Năm 1954, Pháp thua nặng trận Điện Biên Phủ, rút về nước. Những người "ưu tú" trong hàng ngũ Việt Minh trở thành những lãnh đạo ưu tú ở Hà Nội. Tôi nói ưu tú là có cơ sở luận lý.

Chỉ một nhóm người như ông Lê Duẩn, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng...cũng làm cho đội quân hùng mạnh nhất thế giới, chưa hề thất bại ở bất cứ chiến trường nào trên trái đất này, phải "chào thua" sau 1969, bằng cách "Việt Nam hóa chiến tranh". Những nhân vật chính trị này vì sao tài ba như thế? Họ tài ba nhờ "ngoi lên" từ quần chúng nhân dân. Chính quần chúng nhân dân đã " cơ cấu", và "quy hoạch" họ.

Bây giờ ta có thể quay lại chuyện " bao đồng" nêu ra ở đầu bài. Hơn 200 vị ưu tú, xuất sắc, sắp dẫn dắt 95 triệu dân đi đến giàu mạnh, dân chủ, văn minh, được chọn lựa từ quần chúng nhân dân hay  từ mấy triệu đảng viên? Câu hỏi không cần trả lời. Do hoàn cảnh lịch sử, nước ta đi theo chủ thuyết không chấp nhận đa đảng, đa nguyên, vì sự "ổn định chính trị". Cũng có thể hiểu được.

VNCH có chế độ đa đảng. Tôi còn thanh niên nhưng cũng nhận thấy hoạt động chính trị lúc ấy ở Sài Gòn thật "rối bời" vì đa đảng. Có thể do chiến tranh, có thể do dân chúng chưa thật sự làm quen với quá nhiều đối lập, chống báng nhau ngay ở nghị trường (là hạ viện và thượng viện, tức quốc hội).

Ngay cả một linh mục, ông Nguyễn Hữu Thanh, nhà thờ Tân Sa Châu (không nhớ rõ lắm) bắt loa chửi ngày đêm tổng thống Nguyễn Văn Thiệu...tham nhũng, nhưng đố có cảnh sát đến bắt tù.

Còn học sinh, sinh viên ủng hộ Phật giáo đấu tranh ở miền Trung thì xuống đường liên tục đả đảo "Thiệu, Kỳ, Có" là ba ông lớn nhất VNCH năm 1966, chả ai bị bắt nhốt, trừ những thành phần Việt cộng trà trộn trong phong trào đấu tranh của họ.

Điều kiện hiện nay không cho phép "đối lập", nhưng người dân không đảng, họ không được quyền tham gia vào điều hành đất nước? Thời cụ Hồ có nhiều vị bộ trưởng không đảng mà.

Ở TQ, thời Chu Dung Cơ làm thủ tướng,  có 2 vị bộ trưởng không đảng (bộ y tế và khoa học, gì đó) một là Hoa kiều quốc tịch Đức, một cũng Hoa kiều quốc tịch Mỹ. Những vị ưu tú chỉ có trong đảng, trong nhân dân có không? Trong những Việt kiều (máu của máu VN, thịt của thịt VN, ý của thủ tướng Phan Văn Khải) có ai ưu tú không?

Chuyện "bao đồng" của tôi đi quá xa, thôi, xin ngưng tại đây, với câu hỏi:

Những vị tiền bối cộng sản có tên ở trên - tôi nêu giả sử -  được "cơ cấu", "qui hoạch" như bây giờ, liệu họ có tài ba, xuất sắc dẫn dắt quần chúng đánh bại Pháp, rồi Mỹ trong 2 cuộc chiến tranh đẫm máu vừa qua hay không?

Một nghiên cứu mới: THỜI GIAN SỬ DỤNG MÀN HÌNH VỪA LÀ NGUYÊN NHÂN VỪA LÀ TRIỆU CHỨNG CỦA HÀNH VI XẤU Ở TRẺ EM.

Không chỉ người lớn, trẻ con cũng gắn chặt cuộc sống của chúng vào màn hình:

Con cái không nghe lời phụ huynh? Chúng có giận dữ la hét đá bàn xô ghế? Bạn nên coi lại thời lượng xem màn hình của chúng.

Qua 117 cuộc  nghiên cứu trẻ em dưới mười tuổi rưỡi, người ta thấy,  càng chú mục nhiều vào màn hình, hành vi và cảm xúc của chúng càng không như mong đợi,  ở lứa tuổi phát tiển của trẻ.

Đó là những vấn đề về  biểu hiện như cảm xúc lo lắng, trầm cảm, tăng động (hyperactivity) và ngổ ngáo, đặc biệt đối với trẻ em gái.

Nghiên cứu theo nhiều cách khác nhau nhưng tựu trung, các vấn đề nảy sinh đối với : trẻ em dưới hai tuổi  có tiếp xúc màn hình (trừ nói chuyện qua video); trẻ hai đến 5 tuổi coi màn trên một giờ; và trẻ lớn hơn coi màn hình 2 giờ mỗi ngày. Đặc biệt nguy hiểm đối với trẻ chơi games quá nhiều. Trẻ từ 6 đến 10 tuổi gặp vấn đề cảm xúc giao tiếp (socio-emotional) nhiều hơn trẻ từ 5 tuổi trở xuống.

Hơn nữa, trẻ trải qua những thách thức này có khuynh hướng tìm đến màn hình để “giải quyết”, cái nầy làm trầm trọng thêm vấn đề.

Nhà nghiên cứu Roberta Pires Vasconcellos nêu đặc điểm nổi bật nhất trong nghiên cứu của mình: “Chú mục nhiều vào màn hình không chỉ là nguyên do của vấn đề - đôi khi, nó còn là triệu chứng”.

Trong nhiều trường hợp, trẻ em cố gắng kiềm  chế cảm xúc lại quay về màn hình, đặc biệt là chơi games, để “giải quyết” hoặc là để trốn thoát. Cái này có thể nhất thời giảm căng thẳng, nhưng về lâu về dài như một vòng tròn lẩn quẩn, nó sẽ làm trầm trọng thêm hành vi cảm xúc.

Dữ liệu nghiên cứu mới  về thời gian trẻ tiếp xúc với màn hình giúp cha mẹ biết cách để bảo vệ sức khỏe tinh thần của con cái.

Người lớn thường “thảy” chiếc điện thoại cho con để chúng giữ yên lặng, nhất là trong lúc làm việc hoặc vào  nhà ăn.  Có thể tạm thời yên ổn nhưng điều này về sau dẫn tới hệ lụy. Nó ngăn con cái học cách cư xử đúng phép, không học được cách kiềm chế cảm xúc.

Thay vì phát triển kỷ năng tự kiềm chế, trẻ lại tìm sự thoải mái và khuây khỏa qua màn hình. Về lâu về dài, điều này tạo ra vòng lẩn quẫn nguy hại hơn khi trẻ không thích nghi mỗi khi thiếu màn hình.

ĐỪNG ĐỂ TRẺ LẤY MÀN HÌNH (điện thoại, Ipad, laptop- ND) ĐỂ “CHE KHUẤT” CẢM XÚC.

Cha mẹ nên nhìn rộng hơn, hãy cố tìm những chỉ dấu  trẻ muốn tìm đến màn hình mỗi khi chúng gặp rắc rối, hơn là chỉ chú trọng đến chính cái màn hình.

Nếu bạn thấy trẻ quay qua tìm màn hình thường xuyên khi  buồn bã hoặc muốn thu mình lại, đó là lúc bạn nên coi lại cảm xúc của chúng. Có khi chúng muốn tìm sự gẫn gũi hay niềm an ủi mà mà chúng không tìm thấy trong các giao tiếp- ở nhà, ở trường hay ở các bối cảnh xã hội khác.

Đó là lúc con cái cần sự an ủi hay vấn an nơi bố mẹ nhất- giúp chúng được lắng nghe, được thấu hiểu và được cảm thấy bình an, cả trong lẫn ngoài mạng ảo.

Giáo viên hướng dẫn hay các nhà trị liệu tâm lý cũng  sẽ là sự hỗ trợ quý báu. Kết quả nghiên cứu còn cho thấy, chú ý xem thời lượng trẻ chơi games cũng quan trọng không kém.

Đặc biệt, chơi games trực tuyến còn tác hại chất chồng, bởi trò chơi trở thành (như)một nền tảng xã hội. Vì games vẫn tiếp tục dù trẻ không chơi nữa, chúng cảm thấy bị “cưỡng bách” phải kéo dài thời gian chơi; điều này dẫn đến việc bỏ bê các sinh hoạt thiết yếu hằng ngày như đi ngủ, đi học, hay đối mặt với người khác.

Vì lý do đó, chơi games cần được chú ý và phải có giới hạn rõ ràng- đặc biệt với trẻ em lớn tuổi- lứa tuổi thường có tự do quản lý giờ giấc của mình.

ĐẶT RA QUY ĐỊNH VÀ THỰC THI QUYỀN BỐ MẸ

Đặt ra quy định vê thời gian và theo dõi suýt sao là hết sức quan trọng. Luôn giữ quy định sẽ giúp trẻ biết phải làm gì và tạo ra những giới hạn tuân thủ.

Bố mẹ kiểm soát điện thoại hay các ứng dụng (apps) là rất hữu ích. Hầu hết các thiết bị đều có phần mềm cài sẵn, giúp bạn quản lý được thời gian và chọn lựa nội dung. Dùng những ứng dụng như thế để hạn định thời gian hợp lý, bảo đảm chắc chắn con trẻ chỉ có thể tiếp cận những dữ liệu thích hợp với lứa tuổi của chúng.

Để giúp trẻ không quá miệt mài vào những thiết bị ấy, nghiên cứu còn gợi ý, nên bỏ bớt những ứng dụng (apps) như những video trực tuyến đặc biệt cuốn hút (Tiktok là ví dụ- ND). . Thay vào đó là cho trẻ tiếp xúc những nội dung có tính giáo dục, hoặc mang  mục đích tốt đẹp.

NÓI “KHÔNG” VỚI TRẺ CŨNG TỐT THÔI.

Kết quả nghiên cứu này không làm tác giả ngạc nhiên. Các nhà trị liệu, các giáo viên, thường phàn nàn cha mẹ không muốn đặt ra giới hạn cũng như không dứt khoát khi con cái họ đòi xem màn hình (điện thoại, máy tính bảng, laptop...ND).

Khi tôi nói KHÔNG với con cái mình,  phản ứng của họ không hẳn là bằng lòng. Tôi (tác giả nghiên cứu) luôn tự nhủ, là người mẹ, việc của tôi là phải biết những gì tốt nhất cho con cái, và có những quyết định làm con mình lành mạnh về sau- ngay cả có lúc khó chịu cho cả mẹ con.

Hạn chế trẻ dùng điện thoại cũng là cách làm khôn ngoan. Một thông báo đồng thuận vừa được công bố, mà tôi là đồng tác giả với nhiều chuyên gia quốc tế cho thấy, sử dụng nhiều mạng xã hôi và điện thoại có liên quan tới các vấn đề về giấc ngủ, sự tập trung, sinh nghiện, và bất an thân thể (body dissatisfaction).

BẠN KHÔNG NHẤT THIẾT PHẢI “CÔNG BÌNH”.

Khi tôi nói chuyện với các bậc phụ huynh về cách quản lý việc sử dụng mạng xã hội của con cái, họ thường nói với tôi rằng cần phải cho con nhỏ của mình một chiếc điện thoại ở cùng độ tuổi mà anh chị lớn của chúng có một chiếc. Điều đó không đúng.

Thuyết phục với những đứa con trẻ hơn, rằng cha mẹ có kinh nghiệm nhiều và có thể chứng minh thời lượng xem điện thoại sẽ nguy hiểm thế nào.

Có thể là một chọn lựa khác cho chiếc phone. Một bà mẹ hứa  cho con gái 1600 đô la với điều kiện để mua một chiếc điện thoại khi nó lên 16 tuổi. Con của bà nhận tiền mặt ngay. Dù nhiều người chưa hẳn ai cũng có tiền như thế nhưng bạn vẫn có thể linh hoạt hơn, đưa ra những thứ mà con mình thích. Những chuyến đi nghỉ với bạn bè, du lịch cắm trại...là những ví dụ.

Bất kể là cái gì, điều quan trọng là suy nghĩ cho kỹ cách cho con cái tiếp xúc với công nghệ. Vì thời gian xem màn hình vừa là nguyên do cũng vừa là triệu chứng cho các vấn đề ứng xử và cảm xúc nơi trẻ; hãy cứ dứt khoát, nói KHÔNG khi cần. Có thể con bạn sẽ la lối, đá cái này đấm cái kia, nhưng về lâu về dài, điều đó tốt cho sự phát triển tinh thần của chúng.

Bài viết của Kara Alaimo trên CNN (9/6/2025), phó giáo sư truyền thông, đại học Fairleigh Dickinson. Nguyễn Long Chiến lược dịch.

GIỜ QUÊ

Giờ là thời gian. Quê là ở quê. Để phân biệt giờ thành thị. Giờ quê thật ra không giờ giấc gì cả. Có ai đó mời, “trưa ghé nhà tôi ăn cơm nhé”, quý vị sẽ vui vẻ nhận lời và đừng nên hỏi “mấy giờ”. Đối với người thôn quê, hạn chế giờ - ta nói lịch sự hơn, hẹn giờ- là điều thất lễ. Có là quan chức ở cơ quan  đâu mà hẹn “giờ” giải quyết. Trưa có thể là 10 giờ hoặc hơn. Chắc chắn là khách mời không đến “trưa quá” tức là trễ quá. Đến không chỉ có “dùng cơm”. Đến để chuyện vãn trước và sau khi ăn với gia chủ một bữa ăn thân tình. Hạn chế thời gian, tôi nhắc lại, là điều thất thố ở quê. Có câu chuyện vui. Một người bạn hứa đến nhà một người bạn khác ở Sài Gòn. Hai người ít gặp nhau dù là đồng hương Quảng Nam. “Mấy giờ mi tới?”. Người bạn nạt ngay :”Mi là quận trưởng hay sao mà phải có giờ giấc gặp mi?”.

Tôi là người Quảng (Nam) nhưng không ở quê nhiều hơn ở xứ người. Tôi có thói quen như người bạn mời đồng hương ở quê mới vào: Rạch ròi giờ giấc. Ở quê mà rạch ròi như thế là rách việc. Thời gian nghỉ trưa của tôi thường là một tiếng sau bữa ăn. Và một thời gian ở quê vừa rồi, thời gian nghỉ trưa của tôi trở thành vô dụng. Khách quê sẽ đến thăm và không hề để ý đó là thời gian nghỉ ngơi của tôi. Quý nhau mới đến thăm, đó là tục lệ ở quê tôi và có lẽ cũng là tập quán của nhiều người vùng khác. Quý nhau thì đến với nhau giờ nào chẳng quý. Nếu tôi khép cửa lại để nghỉ thì chắc chắn bà con sẽ  “đập” cửa (chứ không phải gõ cửa) nhà tôi và hô to “ngủ trưa rồi hả?” Đó là chỉ dấu cho thấy khách biết mình muốn nghỉ trưa nhưng sự có mặt của họ vào giờ đó nói lên tấm thân tình chòm xóm hay bà con. Họ thật sự vui nếu mình trở mình ngồi dậy mở cửa và nói dối: “Đâu, tôi có ngủ trưa đâu. Vô đi”. Dù quý vị có thỉnh thoảng ngáp thì vị khách sẽ không để ý đâu. Họ để ý đến quý vị. Thế là những câu hỏi thân tình, những biểu tỏ thân thiện, kỷ niệm đâu xa lắc xa lơ nhắc ra, để câu chuyện trở nên thân mật mà thật sự thân mật vì khách đến thăm  rất quý mến tôi.

Người ở quê không quen ngủ trưa. Có lẽ ông bà họ, cha mẹ họ từng là người nông dân nhiều thế hệ. Trưa mà ngủ thì ai lo chuyện đồng áng. Nghỉ trưa hay ngủ trưa gần đây mới có khi thời gian nông nhàn rất nhiều nhờ những thay đổi canh tác, từ tay chân sang máy móc, từ cấy lúa qua gieo hạt, từ gánh lúa sang chở lúa hạt...Những người thăm tôi đều trên bảy mươi và hầu hết là tám mươi trở lên. Họ không ngủ trưa, nghỉ trưa, thì chủ nhà như tôi sẽ không ngủ trưa, nghỉ trưa như họ: Mấy chục năm mới có dịp nói một câu chuyện dài. Trước đây, tôi có về quê, thời gian rất ít. Thăm cho khắp làng là điều không tránh khỏi. Đâu có câu chuyện dài kỷ niệm trong những lần tạt thăm như thế. Ban đầu tôi cảm thấy khó chịu. Nhưng về sau, tôi cảm thấy đầy ắp ân tình. Có quý mình người ta mới đến thăm mình chuyện vãn. Giờ giấc mà kể vô.

Trong các dịp quan trọng như đám giỗ (tôi thấy có lẽ là quan trọng nhất), đám cưới, đám thôi nôi, đám nhà mới, giờ giấc hầu như không quan trọng, tôi muốn nói giờ mời dự. Trên thiệp có ghi 11 giờ nhưng quý vị cảnh giác một tý. Nếu giờ ấy đến, quý vị sẽ khó tìm chỗ ngồi thích hợp và gia chủ cũng rất khó sắp xếp vì chỗ nào cũng có người ngồi. Không hẳn “ăn cỗ đi trước, lội nước đi sau” nhưng là thói quen từ trước. Đến tiệc không phải để...ăn. Đến tiệc để nói chuyện. Quê Quảng Nam của tôi là như thế. Ở chỗ đông người trong các bữa tiệc, yên lặng ăn rồi uống, quý vị sẽ được nhận xét “có miệng ăn mà không có miệng nói”, tất nhiên đó là nhận xét có trong bụng người khác, và cũng tất nhiên chẳng ai nói ra đâu vì lịch sự. Đến trước giờ mời để nói chuyện trước khi ăn, trong khi ăn, và nhất là sau khi ăn. Đương nhiên câu chuyện lúc này gần trở thành cao trào. Nói chuyện ồn ao là đặc trưng của các đám tiệc. Không ai buồn mà nói chuyện. Vui mới nói.

Trong mỗi câu chuyện khi có ai đến viếng nhà quý vị, thời gian là cái không người nào để ý tới. Dẫu bạn có ngáp thật to thì khách vẫn không dứt câu chuyện đang nói với bạn. Thương quý mới chuyện trò. Thương mến nên không bao giờ kể giờ kể giấc.

Và quý vị nên nhớ khi có ai mời quý vị đến nhà họ ăn một bữa cơm hay uống một ấm trà, hay cùng một bữa nhậu,  chớ bao giờ hỏi người mời “mấy giờ” . Hỏi giờ là quý vị giới hạn lòng thành của họ. Tốt nhất nên đến sớm và đương nhiên không vị chủ nhà nào nhìn đồng hồ hay tỏ một thái độ gì đó để “tiễn khách” cho nên quý ví cứ tha hồ ngồi chơi và nói chuyện. Nói chuyện không kể thời gian chấm dứt sẽ là niềm vui cho gia chủ: Mến nhau mới không cần giới hạn thời gian tâm sự chuyện trò.

Ở thành phố cái gì cũng có chừng mực và giới hạn. Ở quê thì không; hay ở đó mới là quê hương?

ĐÔNG HÀ.

Quảng Trị còn tên nhưng thành phố Đông Hà sẽ không còn là tỉnh lỵ. Trong chiến tranh, Quảng Trị là nơi chốn tang thương nhất. Cách đây hơn 30 năm, chợ Đông Hà thịnh vượng vô cùng khi hàng hoá từ Thái Lan chảy qua Lào đổ về đây hàng hàng lớp lớp. Từ đôi giày lính đến áo phi công ở đây đều có bán, tất nhiên giá phải tính bằng vàng. Kha khá thì người ta có thể sắm một đôi dép Lào để “đi cùng năm tháng”, gót mòn muốn lủng nhưng quai không đứt.

Thời oanh liệt nay còn đâu. Ngày chúa nhật vào chợ tôi có thể dễ dàng đếm mà không lộn số người đi chợ. Vắng vẻ là nét chính du mặt tiền quanh ngôi chợ rộng “hoành tráng” vẫn rực rỡ sắc màu của thứ kim loại quý nhất: vàng. Các chủ tiệm hoặc đắm mình lướt web hoặc lấy dũa ra bo lại móng  trên các ngón tay sáng đẹp như hoa. Thảng hoặc, có chủ tiệm vàng phe phẩy phất trần trên mặt kính sáng cho những hạt bụi cuối cùng bay đi. Một cái chợ to lớn nhưng số người mua thì không tương xứng. Hiếm có chợ bình thường nào trên đất nước này có nhiều cửa hàng bán vàng như ở đây. Mặt tiền không lẽ bỏ, tôi nghĩ, có lẽ là lý do của sự hiện diện nhiều như thế của các chủ tiệm vàng. Và, điều này là chỉ dấu cho sự phồn thịnh trước đây của một ngôi chợ ở một tỉnh nghèo miền Trung này?

Tuy nhiên, bên trong phía sâu, hàng hoá, rau trái, thịt cá phải nói là không thiếu thứ gì. Nổi bật là chuối chín với những quầy chuối cỡ như tôi không thể nhấc lên nổi: những quả chuối tròn to dài “như những quả chuối ngự”(Vũ Trọng Phụng). Đất vùng Lao Bảo là nơi trồng những giống chuối mốc (sứ) này. Một người dân ở đây giải thích. Ở Đồng Nai đất đỏ ba dan cũng có chuối trái lớn nhưng nhờ chăm bón chứ không nhờ thiên nhiên như ở đây.

Vòm chợ trong cùng.

Đập vào mắt người tham quan sinh hoạt chợ như tôi là các gian hàng bán đồ Thái, đồ Tàu, vải vóc, áo quần và các loại đồ gia dụng soong nồi chén bát, có lẽ là giá nào cũng có nhưng nổi bật nhất là hàng mỹ phẩm Thái Lan. Cửa khẩu qua Lào là nơi đổ về những mỹ phẩm vô cùng bắt mắt này?

Nhưng cách tiếp cận khách hàng chính là nét khá dễ thương ở các cô các chị bán hàng ở đây. Thấy chúng tôi lớ ngớ quan sát cổng chợ, một cô gái chừng qua ba mươi, áo quần đẹp đẽ, với nụ cười như là đã quen biết trước vội vã tiến về phía chúng tôi, và với giọng nói ấm áp: “Cô chú đưa máy cháu chụp giùm cho” khi tôi móc túi lấy ra điền password. Thế là mấy tấm hình chụp ưng ý.

Saturday, October 18, 2025

YÊU NƯỚC VÀ CĂM THÙ, như hình với bóng

Do lịch sử hình thành đất nước, đối với người Việt Nam, yêu nước đồng nghĩa với căm thù. Sống bên một nước lớn, bá quyền, như Trung Hoa, người Việt luôn luôn ở tư thế chiến đấu. Không chiến đấu là mất nước. Dù phải mượn chữ Hán của Trung Hoa  làm ngôn ngữ ghi chép của minh, người Việt vẫn không bao giờ thôi...căm thù quân xâm lược Trung Hoa, trắng ra là quân Tàu.

Dù theo “cộng sản” hay theo “quốc gia”, tôi chắc chắn không ai theo hay yêu  Tàu. Tàu là tên gọi khá trả treo đối với một dân tộc có nền văn minh lâu đời, có thể nói là lâu đời nhất, trên 5000 năm. Việt Nam chúng ta có “bốn ngàn năm văn hiến”, còn kém Tàu một ngàn năm. Nhưng theo tôi suy đoán, VN có lẽ chỉ hơn hai ngàn năm văn hiến. Hai ngàn năm phải mất một ngàn năm “đô hộ giặc Tàu”. Ta chỉ có chừng hơn một ngàn năm tự chủ. Chừng đó thời gian, dân ta phải chiến đấu chống không biết bao nhiêu là cuộc xâm lăng từ phương Bắc. Căm thù quân xâm lăng là bản chất của dân tộc ta. Căm thù chúng đồng nghĩa với lòng yêu nước- ta gọi mỹ miều là ái quốc. Sát Thát được xăm lên người khi dân ta chiến đấu chống quân xâm lược. Không phải thời xa xưa đâu. Thời nay nữa. “Thề phanh thây uống máu quân thù”. Lòng yêu nước ngút ngàn ấy ghi trong quốc ca (từ 1944 đến 1955). Hay “đường vinh quang xây xác quân thù". Căm thù giặc, giết giặc, kể cả uống máu giặc là hành động yêu nước.

Tiếp xúc một số bạn quen là những người “có công với cách mạng” hay “những người theo  cách mạng”, kể cả con cháu họ, tôi có nhận xét, tất cả vì căm thù giặc mới trở thành những người yêu nước. Căm thù, như họ kể, là xác một du kích trước đây lập nhiều chiến tích diệt địch, bị cột vào một sợi dây nối vào chiếc xe jeep, kéo lê trên đường, để thị uy cho ai muốn theo Việt cộng hay là cách  để trừng phạt. Cũng có câu chuyện kể về xác Việt cộng bị phơi ngoài nắng, bốc mùi hôi thối mới được đem đi chôn. Tôi không rõ, việc hành hạ một xác chết có phải là chủ trương của phía “quốc gia” hay chỉ là việc làm của một thiểu số chỉ huy say máu căm thù cộng sản? Dù sao, nếu chuyện này là thật, thì chính nghĩa ngả dần về những người theo cộng sản là điều hiển nhiên.

Diệt Mỹ cứu nước hay phá tan bè lũ bán nước là chí hướng và đó là sự căm thù Mỹ- Ngụy. Tôi thấy, ở chỗ này,  căm thù là cốt lõi của lòng yêu nước. Trong một đoạn nói chuyện trên truyền hình của Tạ Bích Loan với Phạm Xuân Ẩn, khi được hỏi vì sao, nhà tình báo chiến lược này chọn một vai trò nguy hiểm trong lòng địch, mạng sống luôn bị đe dọa, câu trả lời của ông là do lòng căm thù giặc xâm lăng, trước là Pháp sau là Mỹ, và nhất là căm thù các điền chủ, đại điền chủ đối với tá điền ở miền Nam. Căm thù địa chủ cũng là biểu hiện của lòng yêu nước. Đấu tố ngay cả cha mẹ trong cải cách ruộng đất cũng là hành động yêu nước.

Tôi có cảm giác  yêu nước là phải căm thù. Yêu nước nhưng không căm thù được không? Ví dụ: Đóng thuế nhiều như Trấn Thành.  Sản xuất dù chỉ là cọng rau, bó cải. Ra sức học hành khi là học sinh. Giúp đỡ cha mẹ. Nâng đỡ anh chị em. Hòa hiếu với xóm giềng. Không xả rác bừa bãi. Không chạy xe lạng lách. Không nói tục chửi thề. Không gian lận. Không ăn cắp của công. Không lãng phí thời gian làm việc, trong công sở, trong gia đình, trong xí nghiệp, trong cơ quan...Không phóng uế bừa bãi. Không chen lấn chỗ đông người. Luôn luôn đề cao danh dự cá nhân, gia đình, dòng tộc, xóm làng, và đất nước. Phê phán chính phủ những việc làm không hợp lòng dân. Những việc ấy có phải là yêu nước không? Chắc chắn sẽ ít ai trả lời: đó là thái độ hay  hành động yêu nước.

Chỉ là câu chuyện có thiêu người hay không thiêu người mà người Việt, sau khi xem hoặc nghe người xem kể lại, trong phim Mưa Đỏ, lòng yêu nước của một số người bỗng trào dâng khi có ai đó cho rằng “ngụy” có thiêu “bộ đội” trong khi có những cựu chiến binh miền Bắc trong trận đánh Quảng Trị năm 1972- biểu tượng là thành cổ, dù trận chiến không xảy ra tại nơi này- lại cho điều đó là hư cấu của phim dựa vào tác phẩm văn học.

Căm thù không dễ gì phai nhạt sau nửa thế kỷ chấm dứt chiến tranh, không những trong phim ảnh mà cả ở lòng người.

Chỉ khi nào yêu nước với  lòng bao dung  chứ không phải sự căm thù, hiểu biết mà không mù quáng, thì con người Việt Nam mới có cơ hội vươn mình. Người  Nhật yêu nước nhưng không căm thù người Mỹ, kẻ gieo tan tóc, đau thương, trên quê hương họ. Vì đó mà họ đã vươn lên một đất nước phồn vinh? Họ không “Gặm một nỗi căm hờn”...mãi mãi “ trong cũi sắt”. Yêu nước mà không căm thù ai cả, được không?

TRÂM

Nói đến trâm người ta thường nghĩ “trâm anh thế phiệt” hay “dòng dõi trâm anh”. Trâm ở đây, rất khác , là hạt trâm, hay hột trâm, nhưng thường là trái trâm. Nhìn ảnh, người ta tưởng trái trâm to như trái nho đen (của Mỹ). Nó chỉ to bằng đầu ngón út. Trâm có màu đen thẩm, vị ngọt, nhưng hơi chát. Ăn trâm, răng sẽ có màu tím, nhưng hết ăn, súc miệng, màu trắng của hàm răng đẹp sẽ như cũ.

Tôi chắc chắn hầu hết người Việt, kể cả lớn tuổi- thất thập trở lên- chưa bao giờ ăn trái trâm như chúng tôi ở vùng quê mà núi rừng là lẽ sống, là quê hương, là nơi chốn dung thân. Cây trâm to gấp mấy lần cây khế, có thể như cây xoài; cây ổi chỉ là đàn em của cây trâm. Trâm mọc tương đối nhiều ở các chân núi. Trâm ở rừng sâu sẽ cho gỗ, gỗ trâm. Trâm dọc triền núi thường cho trái. Chúng có thân không cao, không thẳng, nên chẳng ai muốn đốn để lấy gỗ làm nhà. Thế là trâm cho trái.

Ngày nay, kỹ thuật nông nghiệp phát triển, trái cây không là niềm ao ước và khao khát đối với trẻ con như chúng tôi 60 năm trước. Trâm là trái quý giá vô cùng. Sống với núi rừng, ông cha chúng tôi rất tôn trọng núi rừng. Chặt một cây to, quê Quảng Nam tôi, người đi rừng đều tỏ lòng thành kính, nếu có nhang (hương) thì thắp nhang, không có thì khấn vái, xin ông bà cho đốn cây. Trâm ở bìa rừng không ai được đốn nhưng chẳng ai muốn đốn: Trâm cho trái.

Ngần tuổi qua bảy mươi, tôi vẫn không nhớ trâm cho trái vào tháng mấy, mùa nào. Nhưng tôi nhớ hái hạt trâm vào những ngày đi bứt đót làm chổi quét nhà. Có lẽ là tháng giêng.

Ngày nay, trâm còn không? Dạ, không. “Núi rừng có điện thay sao” của ông Tố Hữu nhưng ở quê tôi, và có thể là mọi quê, tràm là sao, là “chủ đạo”. Tràm có cách phát âm như trâm nhưng tràm đau khổ hơn trâm. Trâm sống rất lâu và có lẽ mãi mãi trong ký ức của chúng tôi. Tràm thì ba hay bốn năm hóa kiếp một lần. Người ta đốt rừng để trồng tràm liên tục nhưng trâm thì không. Trâm chỉ đốn một lần và không còn hoá kiếp. Trâm chỉ sống trong ký ức mà thôi.