Monday, February 5, 2024

TRUNG QUỐC PHỦ DÀI BÓNG LÊN ASEAN

(Southeast Asia: China’s Long Shadow)

“MỌI CHUYỆN ĐỀU ỔN” là mấy chữ in trên áo thun của cô gái 19 tuổi Ma Kyal Sin – dân chúng gọi là Thiên Thần – ngày 3 tháng 3 năm 2021, ở Mandalay, một thành phố của Myanmar, không xa mấy TQ. Hàng trăm ngàn thanh niên Miến Điện tràn xuống đường phố, tiếp tục phản đối quân đội tiếm quyền một tháng trước đó. Cô tham gia cùng họ ở tuyến đầu, mong muốn bảo vệ những người bạn trước đà tiến quân của cảnh sát. Cô bị bắn chết phía từ phía sau. Chôn không mấy ngày, tập đoàn quân sự quật xác cô mang đi, lấy xi măng lấp lại huyệt mộ. Sau đó, chính quyền tuyên bố kết quả mổ pháp y cho thấy, đạn trong hộp sọ có thể từ súng của các người biểu tình. Tuy nhiên, lúc bị bắn, lưng cô hướng về hướng cảnh sát đang tiến tới.

Mọi chuyện chẳng ổn, ở Miến, thời gian sẽ không lâu. Cho đến đầu tháng 4, quân đội – gọi là Tatmadaw- do tướng Min Aung Hlaing cầm đầu, đoạt mạng sống chừng 400 người dân thường, chẳng có tội gì ngoài việc phản đối ôn hòa chế độ tiếm quyền tàn nhẫn. Đến giữa tháng 4 số người chết vượt quá 700.

Mọi chuyện cũng chẳng ổn ở cửa ngỏ bên kia là Thái Lan, một quốc gia trong vùng Đông Nam Á. Bảy năm trôi qua từ cuộc đảo chính cuối năm 2014 – cuộc tiếm quyền thành công lần thứ 13 từ ngày lật đổ chế độ quân chủ chuyên chế ở nước này năm 1932. Dù tổ chức lần chót năm 2019, cuộc bầu cử bị quân đội thao túng để họ duy trì sự cai trị của mình. Những người trẻ Thái liên tục biểu tình chống chính phủ từ đầu năm 2020.

Phía đông Thái Lan là ba nước đối mặt với TQ nhiều hơn ở lục địa ASEAN: Miên, Lào, Việt Nam. Nhà độc tài Hun Sen cầm quyền hơn 36 năm, một kỷ lục ở châu Á, chỉ có thua Ayatollah Khomeini, Iran. Tháng 3 năm 2021, một tòa án Campuchia tạo thế cho Hun Sen bằng cách kết án 20 năm tù dành cho chín đảng viên cao cấp thuộc đảng đối lập từng bị cấm hoạt động, tước hoàn toàn cơ hội họ lưu vong trở về nước.

Trên thực tế, Lào là vương quốc của đảng Cách mạng Nhân dân Lào thống trị hà khắc, với các lãnh đạo chuyên dập tắt đối lập, hạn chế quyền tự do, mạnh tay đàn áp xã hội dân sự muốn độc lập khỏi chế độ độc đảng. Ở Việt Nam, luật an ninh mạng khắc nghiệt khép tội những ai “tổ chức, hoạt động, âm mưu, khích động, mua chuộc, lường gạt hoặc lừa dối, lôi kéo, đào tạo, hoặc huấn luyện” nhằm “chống phá nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam”, trong khi vẫn hình sự hóa những hành vi mơ hồ như “gây rối”, “xuyên tạc lịch sử”, và “phủ nhận những thành quả cách mạng”. Thế nên cũng chẳng ngạc nhiên, Lào và Việt Nam xếp tuần tự 172 và 175 theo bảng xếp hạng của tổ chức Tự do Báo chí Quốc tế.

TƯƠNG PHẢN GIỮA VÙNG BIỂN VÀ VÙNG LỤC ĐỊA

Miến Điện, Thái Lan, Campuchia, Lào và Việt Nam hình thành vùng cận lục địa Đông Nam Á. Lào và VN có chung biên giới với TQ. Các quốc gia còn lại – Philippines, Mã Lai, Indonesia, Singapore và Timor-Leste có tính chất bản đảo hay hải đảo, khá xa TQ. Theo thông lệ trong các nghiên cứu về Đông Nam Á, người ta phân biệt năm nước “đất liền” hay lục địa gần TQ khác với sáu nước “vùng biển” xa tít về phía Nam và phía Tây.

Địa lý và địa chất không giống nhau. Thuộc về 5 nước “lục địa”, chỉ 4 nước có bờ biển; riêng Lào không có. Tất cả quốc gia biển thì hoàn toàn là hải đảo hoặc một phần hải đảo. Chỉ có Mã Lai và Singapore là “tiểu lục địa” ở chỗ, họ ở vị trí cực nam của Đông Nam Á. Dự kiến, ba tuyến đường sắt trên bộ nối Malaysia và Singapore với Trung Quốc đại lục, nếu hoàn tất, sẽ nâng cao về mặt kinh tế, xã hội cái tính chất tiểu lục địa ấy. Đường sắt đi về phía nam từ Côn Minh, thủ phủ tỉnh Quảng Đông, qua Miến, Lào, VN, đến Bangkok, Thái Lan, tiếp tục qua Mã Lai đến Singapore. Hoàn thành đường nối bắc-nam này là “ưu tiên một” trong Sáng kiến Vành đai và Con đường (BRI) của Tập Cận Bình.

Nỗi sợ “lục địa hóa” – tức Trung Hoa hóa – dấy lên trong bối cảnh ấy. Sự có mặt của TQ hiện ra rất rõ trong các địa phương phía bắc Miến Điện và Lào, khi các khu kinh tế và văn hóa hình thành chung quanh, tràn ngập du khách và người nhập cư từ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Người Tàu bản địa và Hoa kiều thống lĩnh kinh tế thành phố lớn thứ nhì của Myanmar, Mandalay, nơi cô gái Thiên Thần bị giết chết. Tiếng Quan thoại sử dụng rộng rãi tại đây. Nếu kế hoạch Vành đai và Con đường thành công, nếu lộ trình nam-bắc thiết lập và duy trì, xe cộ nườm nượp qua lại, vì lợi ích “hai bên cùng có lợi” (win-win) cho TQ và tất cả 5 nền kinh tế của ASEAN dọc đường đi, thì Bắc Kinh sẽ bành trướng ảnh hưởng ra khắp vùng.

Không phải “muốn” là “được”. Kinh tế thế giới suy trầm hơn 4% trong năm 2020. Kiến thiết hạ tầng đắt đỏ, lợi ích mang lại xa vời. Với nội dung khác nhau bởi nhiều nước khác nhau, sự nối kết viễn tưởng trở thành tai ương mang đến Covid-19, khi các chính phủ đóng cửa biên giới, hạn chế sự xâm nhập của vi rút và biến thể của nó. Năm 2019-2020, nhịp độ vay vốn của nước ngoài từ các ngân hàng TQ chậm lại, và chi tiêu vào các đại công trình trong sáng kiến BRI chưa bao giờ xuống mức thấp như thế. Kế hoạch 5 năm của TQ kêu gọi “hai dòng tiền” để đáp ứng nhu cầu vay vốn trong nước và từ quốc tế nhưng chỉ có kinh tế trong nước được ưu tiên.

Điều đó nói lên, tăng trưởng kinh tế TQ năm 2021 có thể đạt 8%, do đó, sẽ hâm nóng chiến dịch tạo uy thế ở vùng “lục địa” ASEAN. Ví dụ, tại Lào, các ngân hàng cho vay táo bạo và nhóm chóp bu tham nhũng đã khiến đất nước này mắc nợ, đến mức độ, việc xuất khẩu điện sinh lợi dồi dào sớm bị TQ kiểm soát. Là một nước ASEAN nghèo nhất, Lào cần các khoản thu đó. Kiểm soát chi phối mạng lưới điện cao thế sẽ cho Bắc Kinh một đòn bẩy họ sử dụng, để chắc chắn biến Lào thành bạn “đồng sàng” với TQ.

Bằng minh họa trường hợp Lào đối mặt với TQ, sự phân chia quyền lực chuyên chế ở Đông Nam Á có chiều hướng gia tăng chia rẽ vùng lục địa-vùng biển. Một quan chức của tổ chức Theo dõi Nhân quyền nhận xét, năm 2015: “Người ta nói nhiều năm rồi, ASEAN là câu lạc bộ của các nhà chuyên chế”.

Nhận định đó không phải là nói vống lên. Theo Freedom House, 6 trong 10 nước thành viên ASEAN là “Thiếu tự do”:  Brunei, Campuchia, Lào, Myanmar, Thái Lan, và Việt Nam. Theo đánh giá đó, phân nửa ASEAN là chuyên chế, và 6 trong các thành viên toàn trị thì có 5 nằm ở phần lục địa. Chỉ có nước bé nhỏ chuyên chế Brunei thuộc biển, một chế độ quân chủ tuyệt đối bên bờ biển Borneo. Bốn nước ASEAN còn lại – Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore – tất cả đều sát biển, xếp hạng “Hơi tự do”. Nước lẻ loi “Tự do” Timor-Leste, tiếp cận lãnh thổ ba nước khác, đang muốn gia nhập ASEAN.

Mô tả thô thiển như sau: Một, Đông Nam Á “lục địa” thì chuyên chế. Hai, Đông Nam Á thuộc biển thì dân chủ một phần – nằm giữa hoặc hỗn hợp phản ảnh cân bằng giữa hai quốc gia nhỏ nhất liên quan tới biển, xét về số dân, là Brunei chuyên chế và Timor-Leste dân chủ. Ba, các thành viên ASEAN nghiêng về toàn trị là 6/10, 4/10 dân chủ một phần, 0/10 dân chủ. Tất cả theo xếp hạng của Freedom House.

MỤC TIÊU CỦA TRUNG QUỐC: ỔN ĐỊNH TRÊN HẾT

Làm thế nào TQ và ý muốn của họ được đưa vào so sánh sau đây? Vị trí địa lý là số mệnh? Tập Cận Bình và các cố vấn muốn đối tác của họ suy nghĩ như thế. Hãy xem xét đề xuất của Bắc Kinh cho một “Cộng đồng chung vận mệnh ASEAN-TQ (ASEAN-China Community of Common Destiny). ‘Cộng đồng chung vận mệnh” thể hiện sự đồng cảm, giả định, hay ý muốn thôn tính hoặc ở chiếu trên của TQ? Bắc Kinh muốn các nước láng giềng ASEAN coi ý tưởng chia sẻ một cộng đồng như là minh chứng bảo đảm TQ thực lòng quan tâm đến họ, đến khu vực, nhiều hay ít và như thế nào. Nhưng vận mệnh chung sẽ phá tan những viễn cảnh và những mục đích khác nhau. Nếu vận mệnh của TQ là duy trì chế độ độc tài độc đảng dưới một lãnh đạo trọn đời, Bắc Kinh có muốn lấy vận mệnh ấy áp lên phần còn lại là ASEAN? Họ có cố “lục địa hóa” toàn khu vực bằng cách củng cố sự cai trị từ trên áp xuống ở phần ASEAN “Thiếu tự do”, đồng thời buộc các nước “Tự do một phần” trở thành “Thiếu tự do”?

TQ không thể truyền cái chuyên chế lên các láng giềng theo ý nghĩa ý thức hệ. “Chủ nghĩa xã hội đặc sắc TQ” là mớ hổ lốn không xuất khẩu được- chỏi nhau trong lý thuyết, ngẫu nhiên (contingent) trong thực tiễn, và khu biệt (parochial) ngay trong tên gọi. Giống ứng viên muốn chu du khỏi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa mà chẳng có chân. TQ cũng không dựa vào việc biến con người ở Đông Nam Á trở thành những hâm mộ trung tín cho một mô hình TQ. Bắc Kinh đang nỗ lực mở rộng quyền lực mềm và khuyến khích các láng giềng của họ thừa nhận và tự nguyện tham dự vào vòng ảnh hưởng khu vực của họ. Các nước ASEAN, nói chung, đã là đối tác thương mại lớn nhất của TQ và ASEAN sẽ là đối tác hàng đầu khi chuỗi cung ứng phát triển và ngược lại. Nhưng nếu ngoại giao cộng đồng và gắn kết kinh tế thất bại thì chính cái chủ nghĩa định mệnh, chứ không phải chủ nghĩa cộng sản, là cái mà Bắc Kinh đặt cược.

Nói trắng ra, hy vọng của Tập Cận Bình là các nước láng giềng sẽ nhìn vào bản đồ mà chùn bước. Vì sao? Tại vì, như nhà ngoại giao hàng đầu hiện nay, ông Dương Trì, tuyên bố với các đồng cấp ở ASEAN năm 2010: “TQ là một nước lớn và các nước khác là những nước nhỏ, đó là sự thật”. Làm như nước lớn TQ đang phủ dụ các nước láng giềng bé nhỏ: vận mệnh chung của chúng ta là trải nghiệm và chấp nhận sự khác biệt với nhau, bởi vì chúng tôi và các anh, vận mệnh an bài không bình đẳng, dù các anh có muốn hay là không muốn. Lấy ví dụ Biển Đông. Chúng tôi – nước CHNDTH – luôn được định sẵn để thâu tóm tất cả nguồn nước biển, dựa trên chủ quyền của TQ “hình thành hơn hai ngàn năm trước”, theo lời họ Dương, năm 2016.

Biển Đông không phải là lãnh thổ “đệm” của quốc gia nào (lebensraum). Biển Đông được Bắc Kinh coi như kiểu nước Đức (quốc xã) xem Ba Lan hồi tháng 8 năm 1939. Thế mà, TQ của Tập Cận Bình liên tục chế tạo ra cái vận mệnh đặc sắc Trung Quốc trong cái trung tâm hàng hải ASEAN bằng cách chế tác ra “cái đương nhiên” trên vùng biển mà người vùng Đông Nam Á không thể đảo ngược. “Cái sự đương nhiên” ấy gồm việc cưỡng chiếm các thực thể đất đai các nước ở vùng biển ASEAN tuyên bố chủ quyền. Họ biến các thực thể này thành căn cứ quân sự, từ nơi này họ có thể răn đe cả khu vực. Việc gài bẫy xung đột trên biển, hay gần như xung đột, vây hãm, “lấy thịt đè người” nhằm ngăn người Đông Nam Á không đánh cá hay không khai thác được dầu khí dưới lòng biển, ngay cả trong vùng đặc quyền kinh tế của họ, tất cả đều vi phạm Công ước Liên Hiệp Quốc về luật biển.

Bắc Kinh kỳ vọng, một ngày nào đó, sự kiểm soát của mình lên Biển Đông và những thực thể đầy súng đạn ở đó, sẽ là “cái đương nhiên” mà các nước ASEAN phải chấp nhận; sức của họ không sánh nổi với sức của Tàu sẽ khiến cho họ, chẳng còn lựa chọn nào ngoài chuyện phải khấu đầu (kowtow). Thay vì cố cấy vào vùng ĐNA chủ nghĩa chuyên quyền qua hình ảnh TQ, Bắc Kinh chọn cách khuyến dụ chủ nghĩa định mệnh ở ASEAN, cùng với nó là sự cam chịu và thụ động tuân phục vì sự thiết thân mà ra.

Mặc dù mô hình chính trị TQ là toàn trị, Tập không phải là người truyền bá cái chế độ chuyên quyền ra Đông Nam Á. Nếu đã tuyên bố như thế, TQ của Tập sẽ phá sản về mặt ý thức hệ. Họ chẳng còn chút dự trữ ý tưởng nào dùng để thuyết phục thế giới rập theo học thuyết của mình. Nếu là lời khuyên xuất khẩu được, cái công thức mà Bắc Kinh thể hiện – hợp thức hóa chế độ bằng thành tích kinh tế - sẽ thực dụng hơn ý thức hệ. Tuy nhiên, có ba cách mà chính sách đối ngoại của Trung Quốc ở Đông Nam Á ảnh hưởng, và bị ảnh hưởng, bởi tính cách chuyên chế hơn của đại lục ASEAN so với các quốc gia thành viên ven biển.

Ba tác động phản dân chủ gồm: xu hướng ổn định  từ trên xuống dưới của TQ; chuộng khoa trương ra ngoài với các đối tác trọng nể hàm ơn mà không bị chống đối bên trong cản trở; và hiệu quả của việc hợp tác từ trên xuống với người quyền uy duy nhất thay vì phải đối phó với nhiều tác nhân từ dưới lên trong một đất nước dân chủ.

Thứ nhất, sự ổn định: Khi tìm cách ảnh hưởng láng giềng và thế giới bên ngoài, TQ của Tập có thể không minh định ý thức hệ. Nhưng Bắc Kinh thích ổn định. Khi Adam Przeworski mô tả dân chủ như là sự “bất định được thể chế hóa”, ông chú ý đến hiệu quả tiềm tàng của nó. Tính khó dự báo kết quả bầu cử trong một thể chế dân chủ tỏ ra ổn định, ở chừng mực, khi thúc đẩy một ứng viên thất cử không quay lưng với thể chế mà còn muốn tranh cử lần nữa. Cơ hội thắng cử - sự bất định tích cực – có thể bảo đảm thành công lần thử thách khác.

Sự bất định thể chế là “lời nguyền” đối với mô thức của Tập về đảng CSTQ. Ở đại hội đảng lần thứ 20 vào năm 2022, đương nhiên, ông ta sẽ thành lãnh tụ suốt đời. Và có thể không xảy ra điều đó. Nhưng nếu xảy ra và nền kinh tế TQ vẫn phát triển, quyền lực và thẩm quyền dự kiến của đảng CSTQ sẽ đem lại sự ổn định thể chế mà chế độ độc tài rất cần – hoặc cho là cần- cho sự sống còn. Cho đến nay, trong khi tăng trưởng kinh tế nhanh chóng và ngăn trở có hệ thống xã hội dân sự ở TQ chí ít ngăn cản việc viện đến một Thiên An Môn đẫm máu khác. So sánh một cách khái quát, sự đàn áp có hệ thống ở Lào, Campuchia, Việt Nam, đã giúp củng cố các chế độ độc tài cho đến bây giờ. Niềm tin của Bắc Kinh vào sức mạnh vững vàng của ổn định thể chế khiến việc đối phó với những kẻ bất đồng chính kiến không gặp trở ngại là một lựa chọn hợp lý cho mình.

Hãy xem xét Myanmar. Với lợi ích kinh tế và chiến lược của Bắc Kinh trong việc sử dụng quốc gia này làm trạm dừng để Trung Quốc tiếp cận nhiều hơn vùng Ấn Độ Dương, Tập có lẽ bực dọc khi tướng Min Aung Hlaing làm Myanmar trở nên bất ổn và khó lường. Chế độ của vị tướng này vốn không thân TQ. Nhưng có lẽ Bắc Kinh tính toán chọn lựa dân chủ thay cai trị quân sự sẽ gây nguy hiểm cho vị thế của TQ, thậm chí nhiều hơn. Trong những ngày liền sau quân đội tiếm quyền, Bắc Kinh thậm chí không thừa nhận xảy ra đảo chính và chỉ gọi đó là “sắp xếp nội các”, và ngăn cản Hội đồng Bảo an LHQ không được chỉ trích những gì đã xảy ra. Bên trong Myanmar, các cuộc nổi dậy chống TQ xảy ra liền sau đó lên án tin lan truyền TQ khuyến nghị đảo chánh do chính bản chất chuyên chế và đường hướng của họ. Những lời đồn đoán có vẻ không có cơ sở. Nhưng sự thật, đồn đoán lan truyền trong các đối thủ có đầu óc dân chủ của tập đoàn quân phiệt củng cố suy nghĩ rằng cai trị bằng quân đội theo ý thích Bắc Kinh.

Thứ hai: Sự nể vì. TQ của Tập ham mê ca tụng. Các nhà ngoại giao “chiến lang”  TQ ở Đông Nam Á không ngại ngùng thúc giục, và từ đó, ngầm yêu cầu những người hàm ân TQ, như vắc-xin cho nước sở tại dung chống Covid-19, công khai cám ơn lòng quảng đại của TQ – họ rất thích từ ngữ khen ngợi ngập tràn. Ở nước dân chủ, đề cao phẩm giá cá nhân hơn là tôn kính cấp bậc và sự biết ơn bắt buộc, việc “cúi đầu” không hề phổ biến. Ngược lại, dưới chế độ chuyên chế, việc xu nịnh bắt buộc có thể là bình thường và do đó dễ dàng thực hiện hơn để làm hài lòng nhà tài trợ nước ngoài cũng chuyên chế, những người có thể hoan nghênh và khuyến khích sự tôn vinh đó như là bằng chứng cho sự phục tùng cung cúc.

Việc Bắc Kinh thích giao thiệp với các nhà lãnh đạo quen trung thành và ca ngợi cho thấy rõ đường lối của TQ là lên án và trừng phạt những ai ở các nước dân chủ chỉ trích và từ chối sự kiểm duyệt của TQ. Giảm thiểu nguy cơ chọc giận Bắc Kinh có thể là một lý do để hạn chế tự do ngôn luận ở các nước sở tại. Nhìn lại quá khứ, nhìn tới tương lai, lịch sử TQ, một đế chế tự phụ, và sự đeo đuổi của Tập - “hồi sinh” hào quang quá khứ, trước “thế kỷ tủi nhục” vì đế quốc – chẳng có lợi cho việc so sánh một quốc gia phương Tây trên cơ sở bình đẳng với các quốc gia khác.

Thứ ba và cuối cùng: hiệu quả. Nếu TQ chuyên chế là một sản phẩm không cần nhiều tiến triển, trong lúc xã hội dân chủ đảo ngược các ưu tiên đó, thì cái lý đúng là, các nhà hoạch định chính sách TQ có thể, các thứ khác thì như nhau, ưa chuộng giao hảo với các lãnh đạo quốc gia chuyên chế, có thể làm được việc, chẳng bao giờ màng việc thế nào. Làm như vậy sẽ khiến ngoại giao của TQ đơn giản đi. Trong khi ở các nền dân chủ thì cần phải tính đến nhiều tác nhân hơn, cả chuyện nhiều người chỉ trích TQ mà thế mạnh của họ là ngôn luận được bảo vệ.

ĐÁNH LUI, NHÌN TỚI

Cách cắt nghĩa cấu trúc xác định về ảnh hưởng của TQ ở Đông Nam Á – về tầm vóc, cận kề, nền kinh tế “nam châm” – bỏ qua hành vi ngẫu nhiên của con người: khả năng của người dân, của các lãnh đạo, đặt vấn đề và từ chối lệ thuộc vào các điều kiện, hoàn cảnh có quá nhiều lợi thế của TQ. Có lẽ buồn cho Bắc Kinh là cái khả năng, thể hiện quá rõ trong tư duy ở những người tầng lớp ưu tú Đông Nam Á, những người dõi theo và có ảnh hưởng các vấn đề đối ngoại của quốc gia họ. Các quan điểm của các chuyên gia này được đưa ra hằng năm trong các cuộc khảo sát của viện ISEAS-Yusof Ishak, một Think-Tank ở Singapore. Bằng chứng ghi nhận số liệu cho thấy bất tín nhiệm gia tăng đối với TQ, trái lại, ngày càng tăng tín nhiệm cho Hoa Kỳ.

Theo khảo sát năm 2018, những người ưu tú này lại thiếu tín nhiệm cả Tàu lẫn Mỹ mức độ ngang nhau. Vào năm đó, 52% không tin rằng TQ sẽ “thực hiện đúng đắn” các sự vụ quốc tế, trong khi 51% cũng nói tương tự về Hoa Kỳ. Nhưng trong 2019 - 2020, với cả hai nước. các con số đều giữ như nhau và có phần bất lợi về phía TQ.

Qua năm 2020, 63% các người được hỏi ở Đông Nam Á không tín nhiệm TQ, so với 31% không tín nhiệm Hoa Kỳ. Nếu sự thay đổi ấy có vẻ kỳ quặc vì thái độ thất thường do tác động của Donald Trump, thì cần lưu ý rằng khảo sát 2020 thực hiện cuối nhiệm kỳ tổng thống, và câu hỏi về cái mà người ta kỳ vọng Hoa Kỳ và TQ có thể thực hiện trong tương lai. Hy vọng của TQ về các láng giềng trung thành nhận một đòn giáng mạnh trong các câu trả lời đối với câu hỏi liệu các nước ASEAN có buộc phải chọn bên giữa hai cường quốc đang cạnh tranh, thì họ sẽ ở về bên nào. Mặc dù có 39% người được hỏi chọn TQ thì có tới 62 % chọn Hoa Kỳ.

Ý kiến thì dễ thay đổi. Sự tín nhiệm đối với TQ và Hoa Kỳ sẽ biến động song song với biến động trong tương lai. Dù nghiên cứu khảo sát ở trên cho thấy TQ không đáng tin, nhưng các người theo chủ nghĩa bành trướng ở Bắc Kinh có thể thoải mái với với dữ liệu khảo sát về nhận thức của các quốc gia Đông Nam Á về quyền lực tương đối là chuyện đương nhiên, gạt qua bên sự bất tín. Được hỏi năm 2020, nước nào, tổ chức nào ở khu vực (như ASEAN hay EU) là siêu cường kinh tế ảnh hưởng nhất ở Đông Nam Á, 76% nói TQ. Chỉ có 7% nêu tên Hoa Kỳ. TQ lại thắng, dù chưa cách biệt áp đảo, khi cùng câu hỏi ấy đưa ra về ảnh hưởng chính trị và chiến lược. Việc TQ có ảnh hưởng nhất các mặt vừa kể thu về 49% đồng ý, so với 30% số người nghĩ Hoa Kỳ hợp với mô tả đó. Kết quả là, khảo sát vô tình hợp lý hóa việc TQ nuôi dưỡng chủ nghĩa định mệnh an bày (acquiescent) ở Đông Nam Á – vận mệnh hơn cơ hội, chính trị thực dụng hơn chính trị lý tưởng (destiny over opportunity, realpolitik over moralpolitik) – lợi thế nghiêng về Trung Quốc.

Với hoàn cảnh như thế, nước Mỹ phải làm gì? Thứ nhất, hoàn chỉnh thế trận an ninh Hoa Kỳ ở Đông Nam Á, chú ý phù hợp với thay đổi mạnh mẽ của TQ – hợp tác kinh tế. Thứ hai, mở rộng và làm sâu sắc thêm cam kết xã hội dân sự về các trọng điểm tương đối lợi thế của Hoa Kỳ là giáo dục chất lượng cao và dịch vụ y tế. Thứ ba, hợp tác với các cường quốc bậc trung, như Nhật Bản, giúp đáp ứng nhu cầu của Đông Nam Á về xây dựng hạ tầng thông qua mua sắm cạnh tranh, minh bạch tài chánh, phương sách chống tham nhũng. Thứ tư, với mức độ có thể và hữu ích, duy trì tiếp xúc, ủng hộ chính phủ đoàn kết quốc gia chống quân phiệt của Myanmar đang lưu vong, chí ít vì mục đích cứu trợ nhân đạo, và tiếp tục trừng phạt chính quyền Min Aung Hlaing. Thứ năm, xúc tiến thành lập liên minh các quốc gia sẵn sàng tuyên bố không một quốc gia nào có quyền kiểm soát Biển Đông.

TQ không hẳn tiếng tăm, ít hơn hay nhiều hơn, đáng kể hoặc liên tục, ở Đông Nam Á lục địa hơn là vị trí của họ ở các nước vùng biển trong khu vực. Lấy ví dụ, bất tín TQ nhiều nhất là ở VN “lục địa” và ở Philippines “biển đảo”, do nhiều lý do khác nhau. Việt Nam không quên lịch sử chống ách cai trị Trung Hoa và căm thù hành vi bắt nạt hiện nay ở Biển Đông. Hành động bắt nạt này cũng khiến người Phi phẫn nộ, lịch sử hậu thuộc địa của họ có xu thế, với những ngoại lệ, can dự việc “sống chung” với Mỹ. Nhưng sự hiện hữu “chiếc áo cơ chế” bó buộc (chữ tiếng Anh: straitjacket, loại áo dành cho tù để dễ trói tay họ- ND) với cách hiểu TQ, trung tâm của “vận mệnh chung”, hàm ý rõ ràng trong những nước sống gần TQ, từ đó, khó có khả năng phớt lờ cái ông hàng xóm khổng lồ, hống hách, và hay bắt bẻ.

Trung Quốc không cố tình truyền bá chế độ chuyên chế ở Đông Nam Á. Quan hệ của họ với láng giềng có động cơ lợi ích hơn là động cơ ý thức hệ. Tuy nhiên, với ngoại lệ rõ ràng về Việt Nam, người ta có thể hình dung ra một sự cộng sinh độc tài các thứ phát triển giữa TQ chuyên chế và các chế độ độc tài vệ tinh dọc theo biên giới phía nam TQ. Myanmar có thể thành một trường hợp thử nghiệm trong bối cảnh này. Nếu chính quyền quân sự đàn áp đối lập, nếu ASEAN chẳng cảnh cáo thành viên giết người, và nếu sự phẫn nộ của phương Tây đẩy tập đoàn quân phiệt vào vòng tay TQ, thì sự lớn mạnh phạm vi ảnh hưởng của TQ, dựa vào toa rập độc tài, ngày nào đó sẽ chặt nhỏ ASEAN ra từng mảnh tùy theo vị trí địa lý của họ.

TRẦN THIỆN KHIÊM QUA ĐỜI Ở TUỔI 95; NGƯỜI QUYỀN LỰC CỦA VNCH TRƯỚC NGÀY SỤP ĐỔ

Lời người dịch: Tổng thống Biden sẽ cho rút hết quân đội Mỹ khỏi Afghanistan cuối tháng 8. Nhiều quận lỵ đang rơi vào tay quân Taliban. Hoa Kỳ cho phép 2500 người nhập cư Mỹ; những ai từng làm việc với họ, kể cả thông dịch và phiên dịch. Sự kiện này nhắc đến ngày 30.4.1975 ở miền Nam Việt Nam. Hai mươi năm có mặt tại đất nước khốn khổ vì xung đột vũ trang quốc tế, Mỹ không mang lại hòa bình lâu dài cho đồng minh của mình. Tổng thống Mỹ tuyên bố: “Hãy để người dân Afghan tự quyết định tương lai của chính họ “. Đồng minh không có quyền trách cứ họ. Tôi thấy Mỹ là nước ít bị ràng buộc hay ám ảnh nhiều về quá khứ. Chia tay Nam VN rồi Afghanistan một cách “nhẹ tựa lông hồng”. Điều ấy không có nghĩa họ “chẳng có thủy có chung”. Nó nói lên một sự thật, các đồng minh Mỹ nên hiểu “hãy cứu mình là chính”. Nam Hàn thực hiện thành công tư duy này. Một Hàn Quốc vươn lên cường quốc kinh tế sau khi Mỹ rút quân không bao lâu. “Hãy tự cứu lấy mình” ở Nam VN như thế nào? Dưới đây là cái nhìn của một nhà báo Mỹ về nhân vật quyền lực ít ai để ý tới - cựu thủ tướng VNCH đại tướng Trần Thiện Khiêm. Không cứ, hễ báo Mỹ thì đều nói… thật. Bài báo có những chi tiết cho thấy nhiều thành kiến và không chính xác về chế độ VNCH và có thể về nhân vật từng được Mỹ quý trọng. Nhưng nó nói lên phần nào cái nhìn dư luận Mỹ về bối cảnh dẫn đến sự sụp đổ của VNCH. Nhắc đến nỗi đau này, tôi rất xót xa nhưng sự kiện là sự kiện, tôi cần can đảm nhìn về quá khứ và rất áy náy với một người đã khuất, bởi “nghĩa tử là nghĩa tận”.

(Tran Thien Khiem, 95, Dies; a Power in South Vietnam Before Its Fall). Bài của Robert D. McFadden đăng trên The New York Times.

Đại tướng Trần Thiện Khiêm, người đứng thứ hai sau tổng thống Nguyễn văn Thiệu của Nam Việt Nam trong sáu năm cuối chiến tranh, chạy sang Hoa Kỳ ngay trước giờ Sài Gòn rơi vào tay cộng sản năm 1975, và ông qua đời ngày 23 tháng 6 tại quận Cam, California, thọ 95 tuổi.

Cái chết của ông, trong trại dưỡng lão ở vùng Irvine, qua thời gian hồi phục sau cú ngã té, được đồng sự thân cận, thiếu tướng Nguyễn Khắc Bình xác nhận. Tướng Khiêm sống ở San Jose, hầu như không bao giờ xuất hiện trước công chúng từ sau cuộc chiến chấm dứt.

Một bậc thầy mưu đồ chính trị, tướng Khiêm làm thủ tướng Nam VN từ 1969 cho đến những ngày cuối cùng của chế độ, một nhân vật quân sự nhà nghề và là bàn tay quyền lực giấu mặt trong hơn hai thập kỷ người Mỹ can thiệp vào chiến trường VN. Ông tạo ra đảo chính và ngăn chặn đảo chính trong nước mình thập niên 1960.

Với sự chấp thuận ngấm ngầm của tổng thống John F. Kennedy và CIA Mỹ, tướng Khiêm miễn cưỡng giúp sắp xếp cuộc đảo chính quân sự, kết thúc bằng việc sát hại tổng thống Ngô Đình Diệm, một người chuyên quyền nhưng cũng là người gần gũi của ông, nhân vật mà ông và chính quyền Kennedy muốn lật đổ bằng một cuộc đảo chánh không đổ máu.

Tướng Khiêm, một con người với bề ngoài có vẻ khiêm tốn, làm đại sứ chính quyền Sài Gòn ở Hoa Kỳ và Đài Loan thời gian bốn năm. Ông từng nắm nhiều quyền hành đối với: cảnh sát; phụng sự xã hội; lực lượng quân cán chính 1,5 triệu người; “chương trình bình định nông thôn” phối hợp Mỹ-Việt nhằm thu hút “trái tim và khối óc” của nhân dân sống trong các làng mạc, người ta cho là du kích (Việt Cộng) kiểm soát.

Ảnh: Đại tướng Trần Thiện Khiêm lúc làm đại sứ tại Mỹ.

Là cánh tay mặt của tổng thống Thiệu, tướng Khiêm trấn áp đối lập, "chặt tay chặt chân" kẻ ủng hộ đối thủ không đội trời chung, phó tổng thống Nguyễn Cao Kỳ, cựu tư lệnh không quân. Tướng Khiêm là nhà hành pháp cứng rắn và là “con cưng” (darling) của tòa đại sứ Mỹ.

Năm 1969, ông được cựu trung tướng, bạn thân, là tổng thống Thiệu thăng thưởng hai chức – tháng ba, làm phó thủ tướng, tháng tám, lên thủ tướng.  Tướng bốn sao, ông cũng là sĩ quan quân sự cao nhất nước.

Việc đề bạt ông làm thủ tướng đã đưa quân đội vào chế độ tam đầu chế, một chế độ quân sự có vỏ bọc dân sự, củng cố sức đề kháng của chế độ Sài Gòn trước bất cứ cuộc đảo chánh hòa bình nào.

Trong vài năm sau đó, dưới sức ép phản chiến trong nước, Hoa Kỳ bắt đầu rút quân và cắt giảm viện trợ cho Nam Việt Nam. Bắc Việt tuyên bố họ sẽ không bao giờ nói chuyện với chế độ ông Thiệu, và Sài Gòn mất dần chỗ dựa trong chiến tranh. Nhưng đã có một ông Khiêm hớn hở bên cạnh ông Thiệu đón tiếp các nhân vật quan trọng như tổng thống Richard M. Nixon và nội các chính phủ Mỹ.

Khi nạn tham nhũng lớn mạnh ở Nam VN, ông Khiêm bổ nhiệm nhiều người thân vào chính quyền dân sự của mình. Theo các nhà điều tra và truyền thông Mỹ, ông giao hai người anh em giữ chức vụ ngành hải quan, giúp họ thu lợi vô kể từ buôn ma túy, hàng lậu ở phi trường Tân Sơn Nhất và hải cảng quốc gia; Một anh em cọc chèo làm đô trưởng Sài Gòn; một người bà con khác làm tư lệnh cảnh sát quốc gia.

Khi lạm phát tăng cao, ông Khiêm đưa ra các biện pháp thắt lưng buộc bụng và nỗ lực bình định lớn hơn. Năm 1971, ông khẳng định 90% dân chúng sống trong vùng tương đối an ninh. Nhưng cùng năm đó, đối mặt với sự chống đối tăng dần trong dân chúng, chính phủ bãi bỏ hầu hết các cuộc bầu cử, tuyên bố các quan chức từ tỉnh trưởng đến các xã sẽ được chính phủ bổ nhiệm.

Năm 1973, các vấn nạn lớn hơn xuất hiện. Hiệp định hòa bình ký ở Paris giữa Bắc Việt, Hoa Kỳ, và tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, một cách miễn cưỡng. Ông Thiệu coi hiệp định là sự phản bội của người Mỹ từng cam kết ủng hộ VN. Can thiệp trực tiếp của Mỹ vào chiến tranh chấm dứt. Nhưng sau ngừng bắn, chiến sự giữa Nam-Bắc vẫn tiếp diễn. Ông Thiệu bám chặt quyền lực mặc dù cũng giao bớt một số nhiệm vụ cho ông Khiêm năm 1974.

VẨN VƠ THỜI DỊCH BỆNH

Nhiều người lẫn lộn phong tỏa (lockdown) với giãn cách. Chính phủ rất khéo léo sử dụng cái tên chỉ thị 15 và chỉ thị 16 để phân biệt cấp độ “nghiêm ngặt” áp dụng với xã hội trong thời gian đối phó dịch bệnh.

Có hai luồng suy nghĩ hiện nay: phong tỏa xã hội và sống chung với lũ (vì corona sẽ không biến mất khỏi mặt đất như đậu mùa). Cái nào cũng có cái hay riêng. Với điều kiện y tế hiện nay, cơ sở chữa trị và vắc xin thiếu, phong tỏa là lựa chọn bất đắc dĩ và phải làm.

Sống chung với lũ sẽ chẳng áp dụng được: lý do, chả có lãnh đạo nào dám “đánh cược” sự nghiệp chính trị của mình với quyết định táo bạo ấy như thủ tướng nước Anh mới đây khi chủng biến thể delta đang ghé thăm Vương quốc.

Phong tỏa sẽ làm cho hoạt động xã hội ngưng trệ. Xã hội tiến bộ là xã hội có hoạt động nhộn nhịp, cả ngày lẫn đêm. Nơi nào mang lại của cải xã hội nhiều nhất là nơi đó hoạt động ồn ào liên tục nhất. Sài Gòn là một ví dụ. Phong tỏa gây thiệt hại có đo đếm được ở thành phố năng động nhất nước này? Không thể đo đếm được. Sau 14 ngày nữa, nếu dịch không giảm, liệu có vài đợt 14 ngày nữa không? Chẳng thánh nào nói trước. “Thi đua 15 ngày nữa hết F0” là lời nói biểu hiện quyết tâm, không phải lời nói chín chắn và khiêm cung.

Tôi trải qua 90 ngày sống trong tình trạng vừa giãn cách vừa phong tỏa ở miền Trung. Dân Sài Gòn sẽ trải qua những trải nghiệm mà tôi đã trải qua.

Dịch bệnh làm con người xa cách nhau. Cha mẹ sẽ không đến thăm con, thăm cháu và con cháu cũng không dám đến an ủi hỏi han ông bà cha mẹ. Tất cả phải tuân thủ “gia đình cách ly gia đình, xã phường cách ly xã phường”. Lẽ đáng, những lúc “hoạn nạn” gia đình phải là chỗ dựa cho nhau. Đằng này không. Phần ai nấy lo lấy thân. Ai cũng có thể là F0, nghĩa là, ai cũng có thể gieo mối “hiểm họa” cho nhau. Vậy nên, mọi người đều phải “ ái nhi viễn chi”.

Con người không còn giữ mối thân tình như trước. Cha mẹ có thể là “kẻ địch” của con nếu họ mang mầm bệnh đến cho ngườihọ rứt ruột sinh ra. Chưa kể nếu cha chết vì covid chưa chắc con tận mặt cầm tay người thân giờ phút cuối.  “Ra xe tiễn cha đi. Chưa bao giờ buồn thế. Trời mùa đông cô-vi, suốt đời làm chia ly. (*)

SÀI GÒN KHÔNG THỂ GIỐNG CÁC TỈNH

VNExpress có bức ảnh chụp Gò Vấp ứ đọng hàng ngàn người chờ xét giấy thông hành covid trên một con phố dài. Người ken dày người, xe ken dày xe. Corona sẽ đi đâu? Người chờ soát giấy và người kiểm tra giấy, cả hai đều lo lắng không khác nhau: làm sao cho mau chóng lưu thông.

Sài Gòn là đô thị hình thành rất sớm. Hệ thống giao thông chằng chịt nhất Việt Nam. Tôi có mặt ở Sài Gòn từ năm 1972. Cho đến nay, tôi vẫn thường hay hỏi đường đi. Tôi có thể ví đường lớn là động mạch, đường nhỏ là tĩnh mạch, đường hẻm (ngõ, ngách) là mao mạch. Sài Gòn sống nhờ có nhiều mạch máu.

Sài Gòn cũng là nơi hội tụ của người từ Bắc, từ Trung, và từ các tỉnh miền Nam. Vì sao người ta không ra thủ đô Hà Nội hay thành phố Đà Nẵng để sinh sống mà lại vào Sài Gòn? Tôi không nói Sài Gòn bao dung và rộng mở. Sài Gòn là nơi người giàu nhất và người nghèo nhất có thể sống nhờ nó.

Người nghèo thành phố và người nhập cư chiếm gần như áp đảo số dân thực sự của Sài Gòn. Thời dịch bệnh phải phong tỏa, người có ăn ngồi nhà vẫn không đói nhưng người nghèo không ra khỏi nhà sẽ đói. Các tổ chức tư nhân, các cá nhân từ thiện không đủ sức cưu mang họ. Ra đường là lẽ sống đối với họ dù cho ra đường không theo quy định là phạm luật. Không có người nghèo nào gan dạ ra đường để bị phạt tiền (ngoại trừ các người chạy bộ, đạp xe có thói quen tập thể dục từ lâu).

Có người nói dân Sài Gòn không ý thức “giãn cách” bằng dân các tỉnh, thành phố từng cách ly, từng phong tỏa chống dịch. Không. Họ rất ý thức nên mới đứng chờ ở chốt kiểm soát. Nếu vô ý thức, họ sẽ đi vào các ngõ hẻm để tránh kiểm soát. Sài Gòn có hàng vạn đường hẻm. Có đủ bảo vệ để chốt chặn hay không?

Nếu không linh hoạt biện pháp chống dịch với Sài Gòn, khó mà ngăn tình trạng phá vỡ quy định giãn cách của chính phủ, như qua bức ảnh. Và, tôi có thể ví, nếu chặn được các mạch máu của cơ thể thì mới có thể ngăn được người ra đường ở Sài Gòn. Nên lưu ý, chỉ người nghèo mới ra đường. Họ ra đường để đi tìm miếng cơm trong thời buổi khó khăn dịch bịnh này.

TỨC NƯỚC LỞ BỜ

Là chú “tí hon” bên một “đế quốc” Mỹ khổng lồ từng một lần âm mưu “đổ bộ”, và nhiều lần ám sát lãnh tụ Fidel, Cuba vẫn hiên ngang cùng thời đại. Vì sao? Dân chúng một lòng một dạ tin theo cách mạng, kiên trì, gian khổ thách thức cấm vận, không màng chèn ép.

Chủ nhật vừa qua, lòng tin ấy lung lay. Nhiều thành phố lớn nhỏ khắp nước, người dân đổ ra đường biểu tình phản đối chính phủ. Theo chủ tịch nước Cuba, các cuộc xuống đường này là do lũ “tay sai” (mercenary) bị Mỹ xúi giục gây bất ổn đất nước mình. Ông hô hào những người dân “cách mạng” xuống đường tấn công bọn “tay sai” này. Tất nhiên, nhiều người biểu tình đã bị cảnh sát chìm bắt giữ. Có người biểu tình cướp bóc các cửa hàng quốc doanh bán hàng giá “nước ngoài” bằng ngoại tệ.

Các nhà quan sát quốc tế thì cho rằng, sở dĩ dân chúng xuống đường hét to “tự do” (Freedom), “đả đảo độc tài” (down with the dictatorship) chống nhà nước, số người đông chưa từng thấy mấy chục năm nay ở một đất nước “thiên đường” (giáo dục và y tế miễn phí) là do 3 nguyên nhân:

1- Khủng hoảng dịch bịnh: Dân chúng không còn chịu đựng nổi khủng hoảng y tế và kinh tế. Các biện pháp chống dịch của chính phủ ngày càng làm cuộc sống cam khổ hơn. Năm 2020, Cuba kiểm soát tốt Covid nhưng năm nay, dịch bùng phát khủng khiếp vài tuần gần đây. Hôm biểu tình, con số nhà nước công bố cuối ngày là 6750 ca với 31 người chết. Người ta nói con số này còn thấp hơn con số thực tế. Các bịnh viện gần như bất lực.

2- Khó khăn kinh tế: Một ngành mũi nhọn của kinh tế là du lịch hoàn toàn tê liệt vì dịch bịnh. Tình trạng tồi tệ này lại “bồi” thêm lạm phát phi mã, cúp điện, thiếu hụt thực phẩm, thuốc men, và các nhu yếu phẩm khác. Đầu năm, chính phủ đề ra gói cải tổ kinh tế, lương được nâng cao nhưng lại kích thích hàng hóa tăng vùn vụt. Các nhà kinh tế đại học Pontificia Javeriana, bang California dự báo, giá cả có thể tăng 500 đến 900% trong vài tháng tới. Năm ngoái, chính quyền mở những cửa hàng bán thức ăn và nhu yếu phẩm, rất khan hiếm tại đây, và bán bằng ngoại tệ. Dân chúng rất bất mãn các cửa hàng này. Những người giàu có mới sở hữu ngoại tệ. Nhiều người nghèo sử dụng đồng Peso.

3- Tiếp cận Internet: Mấy chục năm trước, Cuba không có internet. Thời Raul Castro (em trai của Fidel) mạng truyền thông có mặt, người dân sử dụng mạng xã hội bày tỏ những bất mãn với chính phủ qua Facebook, Twitter, và Instagram. Người dân có nhiều thông tin không phải từ nguồn chính thống (ở ta gọi là lề phải). Các mạng xã hội này tạo ra diễn đàn cho giới nghệ sĩ, nhà báo, các trí thức đòi các quyền tự do và kêu gọi phản đối. Các cuộc biểu tình hôm chủ nhật được tổ chức một phần qua mạng xã hội, nơi tin tức lan truyền trong chớp mắt. Chính quyền Cuba tuyên bố, mạng xã hội bị “kẻ thù của cách mạng” sử dụng để tạo “chiến lược bất ổn “ có bàn tay CIA.

Các cuộc xuống đường có thể lường trước vì các nguyên nhân dễ thấy. Cái sẽ xảy ra tương lai mới khó mà đoán định. Khi Cuba chứng kiến một cuộc khủng hoảng chưa từng có, thì thế giới đang quan sát hành động của chính quyền và dân chúng Cuba như thế nào.

Số liệu, hình ảnh dựa theo BBC.

Vài hình ảnh về cuộc biểu tình.

“CON CHÁU” CHỢ TỰ PHÁT

Có hai cái khi mất đi người ta mới để ý: sức khỏe và hạnh phúc. Nay, có cái mất đi người ta mới sực nhớ: nó quan trọng quá – chợ, tôi muốn nói chợ tự phát. Chợ tự phát thường nhóm họp dọc theo một con hẻm, một con đường không rộng, ở nơi đó, người mua đa phần là giới lao động nghèo. Với giới khá giả hay kha khá, supermarket - siêu thị - là chỗ của họ; chợ tự phát: NO.

Chợ tự phát ban đầu cũng khốn khổ lắm. Năm lần, bảy lượt, ngày này qua tuần khác, thậm chí tháng khác, chính quyền sở tại ra quân nhiều đợt “ổn định trật tự xã hội” nhưng đều bó tay chấm com,  không dẹp nổi. Không phải họ bất lực. Họ hiểu ra có cầu thì có cung. Có người mua thì phải có chợ. Ở cái thành phố tấc đất tấc vàng kiếm chỗ làm chợ đâu phải dễ.

Lượng người đi chợ đa phần là  lao động nghèo, công nhân các khu công nghiệp, mức sống chưa đầy đủ. Chính quyền sở tại dẹp chợ này thì họ mua ở đâu? Siêu thị dành cho người có thu nhập khá. Chợ truyền thống thì không đủ chỗ cho họ chen chân và thuận tiện cho việc đi chợ chớp nhoáng sau một ngày chúi mũi lao động hay làm việc trong công xưởng, nhà máy.

Người đi chợ vừa dắt xe đạp hay dừng xe máy để mua con cá, bó rau, trái mướp ở chợ tự phát, rất vội vã cho bữa ăn mỗi ngày. Họ không có nhiều tiền để mua tủ lạnh, và nếu mua được họ cũng ngại số tiền điện mỗi ngày cho nó, cái thứ ngày nào cũng “ăn” điện. Nhà chức trách (ở đây thường là phường) cũng “ngó lơ” để chợ “chồm hổm” nó…tự phát. Công nhân và những người lao động nghèo gắn bó với những chợ tự phát này. Họ thấy ra nỗi vất vả của đồng bào mình.

Thế là những đồng bào này đến các chợ “chồm hổm” để mua những thức ăn cho mỗi ngày lao động. Dân Nam hay người đến sống với dân Nam cũng cùng thói quen không thích tích trữ thức ăn. Mua ăn mỗi ngày “cho nó tươi”. Lề đường chợ tự phát sẽ là chỗ cung cấp những thứ rẻ, tươi mà “ngon”, như rau củ quả, cá, thịt, trứng...

Ông thần dịch bệnh từ Vũ Hán của Trung Quốc anh em bất ngờ lại ập đến lần thứ 4. Công ty xí nghiệp sản xuất nào có các ca dương tính thường phải đóng cửa. Công ty nào bảo đảm các quy định giãn cách thì tiếp tục hoạt động.

Chợ tự phát là chỗ tụ tập đông người mua từ Trung Nam Bắc, và là nơi dễ lây truyền dịch bịnh. Chúng là đối tượng nhắm đến đầu tiên: phải chấm dứt. Dân chúng chấp hành nghiêm: người bán có nhà tại chỗ thì đóng cửa, người buôn thúng bán bưng “vãng lai” không dám bén mảng và người mua lao động nghèo, tất cả đều không dám đến. Cái ông có tên chợ “truyền thống” cũng chẳng khá hơn, ổng cùng chung số phận: đóng cửa chống dịch. Chợ đầu mối có ai dương tính cũng hết là đầu mối.

NỖI SỢ, NHÌN TỪ CUBA

(Tản mạn sau ngày không được ra ngoài lúc 5 giờ sáng để đi bộ - thói quen tập thể dục hơn 30 năm nay).

Nỗi sợ thường xảy ra tự nhiên, để cảnh báo con người đối phó một sự việc sắp xảy ra mà con người chẳng thể lường trước nó có nguy hiểm không. Không biết con rắn, độc hay không độc, trẻ em ở tuổi mới nhận biết đều sợ hãi khi thấy nó. Người trưởng thành nhìn thấy vật gì như sợi dây giống hình con rắn trong bóng tối cũng sợ thất đởm. Nỗi sợ giúp con người thuở sơ khai tự bảo vệ mình: hãy tránh xa những gì nguy hiểm. Và không chỉ con người thuở sơ khai.

Nỗi sợ của con người được kẻ thống trị sử dụng để khống chế con người. Chứng kiến cảnh dân chúng xuống đường, chủ tịch nước Cuba chỉ tay ngay về Mỹ. Thế lực thù địch. Ông không thấy ra, chính sự điều hành của mình, của những người đi trước, Cuba, một đất nước xinh đẹp văn hào Hemingway sinh thời rất yêu thích, trở nên khốn khổ: dân không đủ thực phẩm, kể cả thuốc men, điều kiện y tế - một thời là niềm hãnh diện của Cuba.

Có người bảo Cuba bị Mỹ cấm vận nên mới nghèo khó. Việt Nam không bị Mỹ cấm vận? Tại sao VN mở được kìm kẹp kinh tế mà Cuba lại không? Bất lực trong quản trị đất nước nhưng muốn đất nước “ổn định”, chính quyền Cuba cậy đến bửu bối: nỗi sợ hãi. Nỗi sợ hãi giúp những kẻ độc tài duy trì sức mạnh của họ rất hiệu quả. Bắc Hàn là ví dụ sáng nhất. Nỗi sợ củng cố quyền lực một gia đình ba đời độc quyền cai trị đất nước mỗi năm dân chúng đều đói, có năm chính quyền phải ngửa tay xin gạo. Hình ảnh đối nghịch hoàn toàn với người anh em Nam Hàn, dân chúng tự do, không bao giờ sợ hãi, ví dụ một ngày đẹp trời nào đó, một vài người trong số họ bị thảy vào đám chó dữ bỏ đói để chúng xé xác làm mồi ăn.

Lúc còn nhỏ tôi sống ở một vùng quê, chung quanh là rừng núi trùng điệp, lối đi là con đường mòn, tối tăm không bóng điện đường, điện nhà. Bóng tối là nỗi sợ hãi đeo đẳng, cho đến khi tôi ra sống ở thành phố, đèn điện sáng choang, trong nhà, ngoài lộ. Tôi thường bỏ học đi chơi với lũ bạn mỗi đêm. Cha tôi không còn cách nào cấm cản tôi. Ông không hề dùng roi vọt để dạy bảo con cái. (Tôi biết ơn cha, chính điều ấy hình thành nhân cách của tôi sau này: yêu thương chính là sự dạy dỗ). Có những đêm quá khuya, khi về, tôi vẫn thấy ông còn thức để canh cửa. Còn quá bé, tôi mê chơi hơn để ý tâm trạng người cha mong con về mỗi đêm. Thế là những câu chuyện ma được cha kể ra, trên cây xoài rậm rạp, trong cây mít tối om, dọc con đường về nhà tôi. Có con ma lưỡi đỏ choét, lè ra dài mấy thước, đung đưa trong gió dưới nhánh xoài. Có con ma cụt đầu ngồi bên gốc mít  than khóc, mò mẫm chiếc đầu rơi bên cạnh. Từ đó, tôi không hề đi đêm nếu không có người chị cùng đi. Còn nhỏ, tôi luôn nghĩ đó là những câu chuyện thật. Cha đời nào nói dối với con. Khi lớn lên, tôi mới hiểu ra, làm gì có ma và cũng chưa thấy ai bị ma bắt chết bao giờ.

Ý thức giúp tôi tự giác. Nếu khi bé, tôi có suy nghĩ như khi trưởng thành, chắc chắn tôi không bao giờ sợ ma. Cha tôi lấy con ma ra để hù dọa con mình, mục đích tốt cho nó, không đi chơi quá khuya, bỏ học bài và ngủ muộn.

Ngày nay, thời đại tân tiến “không ma”, người cai trị vẫn sử dụng nỗi sợ hãi để khống chế hành vi công dân. Họ muốn “tốt” cho “thần dân” của mình dẫu cho nỗi sợ ấy, họ biết chắc là không có thật. “Ổn định” là trên hết.

Trước đoàn người rầm rập xuống đường, ông chủ tịch nước Cuba nhắc tới thế lực thù địch. Tự nhiên tôi nhớ đến con ma thời còn bé. Con ma bây giờ là bọn “tay sai” (mercenary), “phản cách mạng”, nhận tiền của Mỹ… đang chống phá đất nước Cuba yên bình. Con ma “ám” dân chúng đang xuống đường.

Nỗi sợ khiến con người co cụm vào vỏ bọc bảo vệ như vỏ ốc. Gặp hiểm nguy, ốc thụt vào vỏ,  an toàn nhất. Ốc không dám đi xa. Ốc không dám khám phá. Đi xa và khám phá là đặc điểm của tiến hóa. Ốc luôn mang phận ốc vì không dám đi xa và khám phá.

Khi tìm hiểu giáo dục nước Mỹ, tôi thấy học sinh Mỹ rất tự tin. Nhỏ tuổi hay lớn hơn, khi trả lời người khác, các em dường như không hề sợ sệt. Cách phát biểu đầy tự tin của các em chứng tỏ các em không gặp bất kỹ nỗi sợ hãi nào: nói "sai", phật ý thầy cô, hay phơi bày sự kém sút hiểu biết của bản thân. Tôi tự hỏi, tất cả các phát minh thay đổi thế giới đều phát sinh từ Mỹ, có khi nào nhờ từ nhỏ, học sinh không bao giờ phải sợ hãi kể cả thầy cô?

Họ không như học sinh chúng ta, nỗi sợ đè nặng tâm hồn thơ trẻ: nào là phải nỗ lực ngày đêm để làm vừa lòng cha mẹ bằng những thành tích để họ “ngẩng cao đầu” với người khác; nào là phải phấn đấu đạt nhiều danh hiệu, năm này sang năm khác, để thầy cô, nhà trường được tiếng dạy giỏi, phòng, sở thơm lây.

Người Mỹ dường như không sợ hãi ai ngoài pháp luật. Tổng thống cũng có thể hầu tòa nếu bị cho là làm sai luật. Donald Trump, một người kỳ khôi, không một ngày làm quan chức, vẫn đắc cử tổng thống. Một người quyền lực nhất nước Mỹ, có lẽ cả thế giới, vẫn phải bị dân biểu đem ra “đàn hạch” hai lần mà ông ta không có nổi chút quyền lực tối thiểu như Putin hay Tập Cận Bình, bắt nhốt ai nếu muốn. Vì sao? Vì dân Mỹ không sợ tổng thống. Họ chỉ sợ pháp luật. Dân không sợ thì dân biểu, đố mà sợ tổng thống.

Sự sợ hãi khiến con người trở thành con ốc. Thu mình trong vỏ là yên bình nhất. Có nhiều, ít ốc ở VN? Không rõ nhưng nhân tài không thiếu. Rất nhiều nhân tài. Nhưng như Nguyễn Du: “Chữ tài liền với chữ tai một vần”. Hiền tài là nguyên khí quốc gia. Lịch sử cận đại Việt Nam, có biết bao nhân tài bị hất hủi, bị thủ tiêu, hay bức tử. Chế độ Ngô Đình Diệm không dung nổi nhà cách mạng, nhà văn Nguyễn Tường Tam. Học giả, nhà văn Hồ Hữu Tường là tù nhân của cả hai chế độ đối nghịch nhau. Triết gia Trần Đức Thảo, luật sư Nguyễn Mạnh Tường, 22 tuổi đỗ hai bằng tiến sĩ ở Pháp, là những trí thức yêu nước, cả cuộc đời phải sống nhẫn nhục, bất đắc chí. Lẽ đáng, những hiền tài này, trong hàng trăm, hàng ngàn hiền tài khác, đã phụng sự quốc gia nếu họ tự do, không gặp bất cứ nỗi sợ hãi nào trong xã hội đương thời.

Nỗi sợ hãi làm con người không những mất đi sự tự do mà còn mất đi sức sáng tạo. Sáng tạo sẽ thay đổi vận mệnh người dân và vận mệnh đất nước. Tôi bỗng liên hệ đến tình trạng của các thầy cô giáo – những người tạo tương lai cho đất nước qua giáo dục. Thầy cô giáo có nỗi sợ nào không? Tôi không rõ. Ông trưởng phòng giáo dục, ông hiệu trưởng, ông trưởng bộ môn, ông tổ trưởng, phụ huynh học sinh, cả học sinh và đồng nghiệp thân yêu của mình…có ai là nỗi sợ hãi cho các thầy cô nếu họ không đạt tiêu chí thi đua dạy tốt theo chuẩn mực, kỳ vọng, từ trên đưa xuống, từ gia đình học sinh đưa ra?

Trong giáo dục không có nỗi sợ nào, ngoài nỗi sợ không làm tròn nhiệm vụ của người thầy đối với học trò. Cái nôi của phát triển của giáo dục là nhà trường. Trong nhà trường thầy và trò phải luôn đối mặt với nỗi sợ thi đua, thành tích cá nhân và tập thể, và sợ cả những thứ “vây quanh” họ như tôi vừa nói ở trên, thử hỏi đất nước sẽ như thế nào nếu những công dân tương lai luôn canh cánh trong lòng nỗi sợ hãi thầy cô họ ít nhiều đã truyền vào tâm hồn trong trắng của họ mười mấy năm ngồi ở ghế nhà trường? Tôi nhận thấy xã hội chúng ta hiện nay có rất nhiều người mang nỗi sợ “truyền kiếp” ấy. Thành viên xã hội mang trong lòng nỗi sợ sẽ dễ dàng răm răp tuân theo trật tự có sẵn, xã hội luôn ổn định, cho đến một ngày... không còn ổn định.

Nhìn cảnh biểu tình hôm chúa nhật ở Cuba, tôi thấy người dân ở đó có lẽ bắt đầu thấy ra nỗi sợ mấy chục năm sống trong môi trường “xã hội chủ nghĩa” là không có thật; nó giống nỗi sợ ma của tôi khi còn bé. Khi thấy ra nỗi sợ không có thật, người ta mới thực sự cảm thấy tự do và thực sự tìm ra sức mạnh.

Ảnh: Nỗi sợ lớn đến nỗi người ta phải lật các chiếc ghế này để ngăn ngừa tụ tập đông người.