Wednesday, January 3, 2024

VIỆN SĨ VÀ “HÀN SĨ”.

Một quê hương, hai nẻo đường.

PHẦN I

Quê hương chỉ là cái tên trong quá khứ. Tôi không rõ, có phải làng, xã hay huyện, tỉnh, nơi mình chôn nhau cắt rốn mới có tên gọi quê hương. Đối với tôi, quê hương chỉ là cái tên Thường Đức, một địa danh không còn danh.

Người ta có thói quen gọi địa danh theo sở thích tiện lợi. Thường Đức (Quảng Nam) thành Thượng Đức – một địa danh có một lúc hai tượng đài chiến thắng cũng chỉ về một trận đánh lịch sử năm 1974. “Lịch sử” vì nó là một đơn vị hành chánh cấp quận được “giải phóng” đầu tiên ở miền Nam, mở màn cho trận đánh cấp tỉnh, rồi toàn nước ngày 30 tháng 4 năm 1975. Lịch sử vì nó là trận đánh “quân ta” hy sinh gần 1000 (chính xác là 921 người) binh sĩ tinh nhuệ cấp sư đoàn, dưới sự chỉ huy của một tướng lĩnh dày dạn trận mạc. Và “quân địch” không rõ là bao nhiêu ở đơn vị cấp quận. Xác chết một số người sau mấy ngày chiến thắng trôi lềnh bềnh trên mặt 2 con sông chảy qua quận lỵ; để khỏi thối, dân chúng phải dùng sào để đẩy thi thể sắc phục “lính” trôi theo dòng nước vô tình. “Lịch sử” còn một điều nữa: cứ mỗi năm vào tháng 3, dân chúng các làng đều chung một ngày giỗ cho thân nhân của mình, những người mất tích trong ngày “chiến thắng”.

Quê hương tôi bắt đầu bằng chữ Thượng – Lộc Thượng, cái chữ khiến người ta liên tưởng đến người Thượng, sống rất nhiều trong dãy Trường Sơn bao bọc các làng mạc, xóm thôn. Thượng để phân biệt với kinh (người ở đồng bằng). Sau này, dân tộc Việt lại vô tình có thêm dân tộc Kinh! Thời ông Ngô Đình Diệm, quê tôi thường tổ chức hội chợ (hồi ấy còn gọi là chợ phiên – không đúng lắm) triển lãm nông nghiệp trưng bày sản phẩm của người kinh lẫn người thượng; lúc nhỏ tôi thấy câu khẩu hiệu rất lớn ở giữa: KINH THƯỢNG MỘT NHÀ. Ý nói dân tộc miền thượng và dân tộc vùng xuôi đều là anh em.

Lộc Thượng gồm 3 xã ở thượng nguồn sông Vu Gia: Lộc Bình, Lộc Vĩnh, Lộc Ninh thuộc sự quản lý của quận Đại Lộc. Thời Pháp thuộc ba xã này gọi là tổng Đức Thượng thuộc huyện Đại Lộc. Thời Việt Minh, Đại Lộc đổi thành huyện Đỗ Ngọc Mai, tên của vị trí thức liệt sĩ tham gia chống Pháp đầu tiên bị thực dân sát hại. Thời ông Ngô Đình Diệm, ba xã trên cùng với một phần của quận Hiên (Tây Giang và Đông Giang ngày nay) và quận Giằng (Nam Giang) trở thành quận Thường Đức vào cuối năm 1957. Tại đây có đồn An Điềm (quân Mỹ đóng một thời gian để huấn luyện quân “biệt kích”), bây giờ có trại giam nổi tiếng cùng tên.

Vị trí chiến lược quận lỵ Thường Đức được chú ý từ thời Tây. Thực dân Pháp chú trọng vùng này vì từ đây, dân quân Việt Minh có thể đi qua Lào, vô Nam (ngả Kon Tum), ra Bắc (ngả Nam Đông của Khu Tư – Bình Trị Thiên). Họ lập ra đồn Hiên (gần khu du lịch Cổng Trời) để vừa kiểm soát người dân tộc vừa kiểm soát người Kinh lôi kéo người Thượng theo Việt Minh. Người Mỹ sau này cũng chú ý tới Thường Đức (với đồn An Điềm). Sau đó, nhận thấy sự quan trọng của đường mòn Hồ Chí Minh, với phương tiện dồi dào về vận chuyển, họ bỏ căn cứ này và lập căn cứ mới ở Khâm Đức, cách đó non 100 cây số (nay thuộc Phước Sơn). Khi mất Thường Đức năm 1974, quân đội Sài Gòn có kế hoạch chiếm lại nhưng bỏ dở vì “thời thế” không còn. Mỹ thật sự bỏ rơi miền Nam. Tái chiếm một quận lỵ để lấy lại tinh thần là điều vô ích. Đồi 1062 (ở Thường Đức) là trận thư hùng ác liệt nhất giữa hai quân đội chính quy tại Quảng Nam tính tới thời điểm ấy.

Ở một quê hương mà sự ác liệt của chiến tranh đem lại không biết bao nhiêu mất mát cho người dân quê mình - cả hai bên, mỗi lần về thăm mồ mả cha ông, lòng tôi luôn luôn trĩu nặng. “Giải phóng” hay “chiến thắng”, quê tôi vẫn là nơi thiệt thòi nhất, mất mát nhất, và đau thương nhất. Thời VM, tất cả kiến trúc văn hóa như đình làng (đình nhóm), đình trung, chùa chiền, miếu mạo, đền đài…bị phá nát vì “tiêu thổ kháng chiến”. Pháp ném bom thường xuyên vùng “tự do” của Việt Minh (tức quê tôi). Trước mặt nhà viện sĩ (nhân vật tôi sẽ nói tới) Đặng Huy Huỳnh là ngôi chợ Trúc Hà. Bom và súng “liên thanh” của máy bay Pháp sát hại hơn 20 người đi chợ. Thịt người trộn lẫn thịt heo, thịt trâu. Mẹ của viện sĩ nằm trong số người may mắn sống sót. Chị ruột tôi sắp đẻ cùng chết với mẹ và hai đứa em chồng trong trận bom cùng năm.

Thời “đánh Mỹ”, không một mái nhà nào còn khi xóm làng chìm ngập trong bom napalm và đạn pháo; dân được đưa vào các trại tạm cư thiết lập quanh trụ sở quận lỵ. Số khá giả khác thì tản cư ra Hội An hay Đà Nẵng. Đồng không, nhà mất, không tiêu thổ kháng chiến mà như tiêu thổ kháng chiến. Ngôi nhà ngói năm gian chắt chiu từ mồ hôi nước mắt của cha tôi nằm trong chảo lửa chiến tranh. Dù anh tôi là quan chức của VNCH, ngôi nhà người cha của anh  không khác ngôi nhà của những người theo cộng sản (rất ít): tan hoang.

Thời Pháp thuộc, người dân chỉ biết có ruộng đồng, núi rừng.  Đường đi từ “trung tâm” (nơi chợ Hà Tân bây giờ) đến tòa sứ (Pháp) ở Hội An thật thiên nan vạn nan: đi bộ hơn một ngày đường. Khi có chuyện bất công, chẳng ai muốn thưa kiện. Đi lại để hầu tòa vừa tốn kém vừa gian nan. Dân làng sống trong nỗi uất ức nếu có ông địa chủ hay cường hào nào đó ra tay bóc lột. Việc học hành còn gian nan hơn; nếu muốn lên…trung học thì phải ra Huế. Làng tôi có một (trong 2 người của tổng Đức Thượng) đỗ tú tài 2 trước 1940, sau này làm đến phó tỉnh trưởng. Quan huyện cho người đưa về tận làng bằng võng lọng. Dân làng mang trống chiêng ra đón tiếp. Chủ nhà mổ hai con trâu để thết cả làng.

Năm 1940, Pháp mới cho mở trường sơ, tiểu học Ecole de Đức Thượng; ngôi trường mượn chỗ dạy là đình trung (nơi hội họp và cúng tế) của làng tôi. Thầy phụ trách đầu tiên là ông giáo Xuân (ông ngoại của nghệ sĩ hài Hoài Linh). Nếu muốn thi tiểu học (gọi là primaire), thí sinh phải đi bộ chừng 15 cây số để dự học ở trụ sở huyện đường Đại Lộc (tức Phú Hương – còn gọi là huyện cũ). Vì nghèo, vì không có chỗ học hành thuận tiện, ở quê tôi trước 1945, nhà nào có con đỗ primaire nhà ấy là niềm hãnh diện đối với mọi người. Người đầu tiên đậu trung học (tức diplome) làm bí thư huyện thời Việt Minh là ông Quách Xân (có em ruột hiện nay là viện sĩ hóa học Mỹ, Quách Đăng Triều). Bí thư huyện hồi VM ở vùng tôi thường là thầy giáo có bằng diplome. Sự học rất cam khổ (vì không có trường lớp) nên thất học là chuyện “đương nhiên”.

Nhưng có hai người thuộc nhà nghèo nhưng không chịu “đương nhiên thất học”. Họ không đầu hàng nghịch cảnh: Ăn chưa no làm sao lo tới học. Đó là: viện sĩ khoa học Đặng Huy Huỳnh và “hàn sĩ” Lê Chi Tịch, đôi bạn (người 92, người 90 tuổi) ngày xưa học chung một lớp, cùng một ngôi trường, nhưng lại hai nẻo đi.

                                      (Hết phần I).

“Viện sĩ” và “hàn sĩ”.

PHẦN HAI

Chú ‘bộ đội’ Huỳnh: từng bước gian nan.

Sinh năm 1930 (giấy tờ là 1933), đỗ “primaire” năm mười bốn tuổi, Đặng Huy Huỳnh là học sinh xuất sắc trong số 4 đến 5 người đậu cùng khóa thi năm 1946 ở vùng quê Lộc Thượng, sau này là Thường Đức. Xuất thân trong một gia đình nghèo, có 5 anh em, mẹ thỉnh thoảng buôn gánh bán bưng, cha làm thợ may vá, thường gọi “Thập” Thanh; vì mỗi chúa nhật, ông giữ việc “xướng kinh” và cầm cây thánh giá trong các ngày lễ ở nhà thờ Trúc Hà (xây dựng năm 1926).

Anh trai Đặng Huy Thanh (1927) làm “quốc sự” (tham gia tổ chức chống Tây thời tiền cách mạng) trước khi VM “cướp chính quyền” tháng 8 năm 1945. Thỉnh thoảng thấy anh mình “viết” truyền đơn cho tổ chức, cậu Huỳnh chỉ nghe anh căn dặn “chớ nói với ai, kể cả với ba mẹ”. Đó là lần đầu tiên cậu bé hiểu “yêu nước” nguy hiểm thế nào. Cậu Huỳnh được phân công làm “đội trưởng” đội thiếu niên cứu quốc (làng Trúc Hà). Ông kể, việc làm của “đội trưởng” lúc ấy là, mỗi ngày, “chỉ huy” các bạn đi khắp làng, gom các hũ gạo tiết kiệm (gọi là “hũ gạo nuôi quân”) về giao cho thủ quỹ (gạo). Ông thích thú nhất là vinh dự được giữ chiếc nón lá đựng nhẫn, bông tai, vòng vàng…của dân làng cởi ra hiến tặng cho Kháng Chiến trong “Tuần Lễ Vàng”.

Học giỏi, ông còn hát hay và đóng kịch rất tự nhiên. Ở một vở kịch thiếu nhi diễn trong đình làng, lấy giấy bản màu vàng nhạt (dùng để gói thuốc bắc), cậu Huỳnh dán thành chiếc mũ ca-lô để đội, và thay vì cái xắc là khẩu súng làm bằng bẹ chuối đeo qua vai; hình ảnh đẹp đẽ như trong thơ Tố Hữu:

Ca lô đội lệch

Mồm huýt sáo vang

Như con chim chích

Nhảy trên đường vàng...

Là một vùng quê nghèo, VM bất ngờ xuất hiện, đem đến những đổi thay trước đây không có. Thay vì ra làng họp theo lệnh lý trưởng, dân chúng hồ hởi trong những buổi họp mỗi khi thấy có cán bộ Việt Minh. Xóa mù chữ là công lao của họ. Phong kiến và thực dân muốn cho người dân “mù chữ” để dễ bề cai trị. Cậu bé Huỳnh phấn khích đón nhận Việt Minh.

Tuổi 17, nhưng nhỏ thó, trông như 14, ông đăng ký vào “thiếu sinh quân”. Khám sức khỏe xong, bảy ngày sau có kết quả: Đặng Huy Huỳnh được “đăng lính”. Tôi hỏi, “thầy có ‘động cơ‘ gì không?". Ông cười, hàm răng giả rung rinh. Có động cơ gì đâu. Ông thấy lính VM thật dễ thương. Ở nhà nào, họ cũng lễ phép như con cái trong gia đình. Mẹ ông cũng được họ gọi 'mẹ'. Cha ông cũng như cha họ, những chàng trai vệ quốc đáng yêu. Họ dắt ông ra sông tắm. Lần đầu tiên ông thấy họ có cục…xà phòng (xà bong). Khi về, trên vai họ là đôi gánh với hai thùng nước. Ở quê, nước sông là nước sống. Có nước sông, có đời sống. Không ai đào giếng vì không đúc được bi giếng. Xi măng là từ ngữ không hề có trong tự vựng vùng quê thời ấy. Bộ đội gánh nước về cho nhà cậu. Theo họ là lựa chọn đúng.

Tôi hỏi thêm, ngoài lý do trên, còn lý do nào nữa? Ông nói, bà ngoại hay nhắc đến tên Nguyễn Ái Quốc, một người yêu nước, đứng lên lãnh đạo Việt Minh, đánh đổ Pháp, giải phóng nước nhà. Khi có tên đăng bộ đội, cha mẹ ông rất sững sờ. Vào lính làm sao thằng Huỳnh chịu nổi, “hắn ốm tong, ốm teo” mà. Anh trai ông là người “của tổ chức” thuyết phục gia đình “để nó đi”. Điều ông mong muốn đi bộ đội, rất thật thà, ông nói do bài hát của Đinh Nhu, truyền miệng rất phổ thông ở vùng quê thời mở đầu Việt Minh:

“Cùng nhau đi Hồng binh

Đồng tâm ta đều bước

Đừng cho quân thù thoát

Ta quyết chí hy sinh

Nào anh em nghèo đâu

Liều thân cho đời sống

Mong thế giới đại đồng

Tiến lên quân Hồng

Đời ta không cần lo

Nhà ta không cần tiếc

Làm sao cho toàn thắng

Ta mới sống yên vui”.

Kể đến đây, ông buột miệng hát, rất rõ ràng, rất mạnh mẽ, cùng người bạn đồng niên ngồi cạnh. Hai người tưởng tôi không biết bài hát này. Cha tôi là cán bộ VM từng hát cho tôi nghe với vẻ hồ hởi khi kể những câu chuyện trong những ngày đầu kháng chiến ở vùng quê, gọi là vùng ‘tự do’, phân biệt với vùng ‘bị chiếm’ (có Tây và quân đội ‘quốc gia’).

Những người cộng sản am hiểu tác động của âm nhạc từ rất sớm. Trong “kháng chiến chống Mỹ”, tôi được biết, nhiều người miền Bắc hăng hái ôm súng ra chiến trường “giết giặc” không màng mạng sống, chỉ vì những bài hát oai hùng, lẫm liệt, “giàu sức chiến đấu”. Họ nghe tuyên truyền không nhiều bằng những bản nhạc hùng tráng, thôi thúc thanh niên ra chiến trường “không tiếc máu xương”.

Ông Huỳnh nhớ lại với nụ cười thật thà, “hồi ấy, có biết yêu nước là gì đâu”. Nghe trúng tuyển ‘đi bộ đội’, dù là thiếu sinh quân, ông mừng và mất ngủ mấy đêm. Nhưng cha, mẹ rất lo lắng. Chỉ có ‘anh Thanh’ là ủng hộ. Anh Hai Việt Minh! Tưởng là đóng quân tại quê nhà, cậu bé Huỳnh không ngờ, sau ba tháng tập đi ‘một hai, một hai’, đơn vị ông theo đường Trường Sơn vào tận khu du kích Ba Tơ, Quảng Ngãi. Bộ đội phát cho ông hai bộ ‘quân phục’ (màu đen, vải xi-ta, dệt rất thô). Ông mừng tở mở khi xúng xính trong bộ đồ mới  còn thơm mùi vải.

Người cha đãi con trai một bữa mì Quảng (hồi ấy, rất ‘thịnh soạn’) duy nhất tại làng Đại Mỹ (sát trại giam An Điềm ngày nay). Chú bộ đội ‘con’ không ngờ đó là bữa ăn cuối cùng với người cha thân yêu. Và cũng là lần cuối cùng, ‘chú’ không còn gặp ai nữa trong gia đình: mẹ mất năm 1966; ngoài em trai út, cha, anh hai, và hai em của cậu đều mất trong thời gia xảy ra trận đói kinh hoàng năm 1947, chỉ sau một tháng Huỳnh rời khỏi quê nhà.

Mùa lúa mất sạch, liên tiếp hai vụ. Vì là vùng đất đai trù phú, không ai trồng màu để ăn thay gạo. Lúa bị ‘bù lạch’ (một loại nấm) “ăn” sạch. Hầu hết nông dân không dự trữ nhiều lúa thóc. Người ta vào rừng đào củ ‘nần’ để nấu ăn cứu đói (loại củ rừng to như bắp chân).

Nhiều người ở nơi xa, tản cư, kéo đến vùng trồng lúa để kiếm ăn. Không ngờ, người trồng lúa có kẻ cũng chết đói như họ. Ngày nay, vẫn còn nhiều nấm mồ vô chủ chôn dọc đường đi, gọi là mả ‘thí’, không ai nhang khói. Củ nần luộc bỏ nước đôi ba lần mới ăn. Nhiều người không biết, luộc ăn ngay, có người mất mạng vì ngộ độc. Nhiều gia đình phải đào cả củ chuối chát (chuối hột) trong vườn để luộc ăn thay cơm. Thỉnh thoảng đôi ba hôm, trâu trên đồng bị đạn từ máy bay bắn chết (Pháp muốn tiệt đường sản xuất), người ta xẻ thịt ăn thay cơm. Đói cũng chết nhưng no cũng chết. Có người mất mạng do đói ăn năm bảy ngày, sau lại ăn thịt thay cơm, quá nhiều.

Theo bộ đội, tuy tập luyện vất vả, cậu Huỳnh không phải chịu cảnh đói ăn như gia đình tại quê nhà. Một thời gian ở Ba Tơ, cậu và một số ‘học sinh’ có bằng primaire được chọn qua Lào…hoạt động Vê Tê Troa (VT trois: V và 3 chữ T: Võ Trang Tuyên Truyền. Cụ gọi theo tiếng Pháp). Trước khi đi, ông Phạm Văn Đồng, lúc ấy phụ trách vùng Trung bộ, dặn dò: Tuyệt đối coi người Lào như ruột thịt; coi cây cỏ, ngọn rau của họ như cây cỏ ngọn rau của VN. Cụ nói, chính vì thế, những năm sống trong rừng núi Lào để lôi kéo người dân bản địa tham gia chống Pháp, ông và đồng đội không bao giờ động đến ‘cây kim sợi chỉ’ của họ. Dù có khi đói, đơn vị ông không bao giờ dùng vũ khí để giết thú rừng ‘cải thiện’ bữa ăn như sau này ở Trường Sơn trong chiến tranh đánh Mỹ.

PHIẾM LUẬN VỀ THAM NHŨNG

Năm 1975, những ngày đầu tháng 4 ở Sài Gòn, tình hình chiến sự rộn ràng với những tin đồn không thở nổi: sắp có ngừng bắn, có chính phủ ba thành phần, hoặc Việt Cộng vào, Sài Gòn sẽ… “tắm máu”.

Thầy dạy chúng tôi ở đại học sư phạm Sài Gòn, giáo sư Nguyễn Văn Châu, có lần làm cố vấn cho Nguyễn Văn Thiệu, người Huế, trước giờ chia tay đi Mỹ, nói trong tiết dạy cuối cùng : các em về nói với gia đình tìm đường đi khỏi nước, Sài Gòn sắp mất.

Có thể ra ngả Vũng Tàu hoặc Phú Quốc thuê tàu thuyền chuẩn bị ra biển, có hạm đội Mỹ ngoài đó, chắc chắn họ sẽ đón (?).

Chúng tôi hỏi Mỹ bỏ đồng minh sao. Ổng cười: sau mậu thân 1968, Mỹ nghĩ chuyện “binh” đường rút bằng Việt Nam hóa chiến tranh. Năm 1972, “bắt tay” Trung Cộng, Mỹ không phải "ngăn" cộng sản nữa.

Người Mỹ vốn “nghĩa hiệp” lắm mà? Thầy cũng cười: họ thực dụng lắm, tôi học và nghiên cứu ở Mỹ  rất lâu; họ là người rất thực dụng. Tất cả, quyền lợi Mỹ là trên hết. Chúng tôi cười với nhau nghĩ ông thầy mình "bốc đồng", sau này mới nghiệm ra, thảy đều đúng như ông nói.

Nhưng có cái ông nói về cách trị tham nhũng, không rõ đúng sai. Phó tổng thống Trần Văn Hương, một giáo sư già nổi tiếng liêm khiết, được giao trọng trách “bài trừ tham nhũng”.

Sau đó một thời gian, ông cũng bó tay, với câu nói nổi tiếng (không thua 1 câu nói ai cũng biết của  tổng thống Nguyễn Văn Thiệu),“Diệt hết tham nhũng lấy ai làm việc”. Hồi đó tham nhũng xảy ra ở một số tướng lĩnh hay quan chức cấp cao, không đại trà, rộng khắp, và “phổ cập bình dân học vụ” như bây giờ.

Thầy chúng tôi đề xuất, và "khoe" là có góp ý với ông Thiệu (có người nói ông từng làm cố vấn tổng thống, không rõ đúng sai), “giựt lại tiền” bằng cách bắt nhốt bọn tham nhũng vào tù, rồi đối xử thật khắt khe, khốc liệt nhưng sẽ “nới lỏng” khi họ “ói” bớt tiền ra.Ăn ở, sinh hoạt trong tù đều phải trả tiền. Thuốc lá Pall Mall, 100 đồng thì bán 10 000 đồng (tiền VNCH). Lon coca cola 50 đồng thì bán 5 000 đồng (chưa tới 1/4 lượng vàng lá Kim Thành)…

Những người cầm dùi ở các ảnh sau đều ở tù.

ÔNG THẦY TỘI NGHIỆP

Ấy là tôi nhắc đến những vị thầy dạy tôi trước 1975. Nếu trí nhớ còn tốt, tôi không hề nghe có ngày nào tuyên dương những người dạy học. Cần mẫn như con ong, cái kiến, họ miệt mài với nghề “gõ đầu trẻ” cả cuộc đời mà chẳng có ngày nào xã hội ca ngợi họ, chẳng hạn “Ngày Nhà Giáo Việt Nam”. Cũng chẳng có bài thơ hay bài ca, đại loại “khi thầy viết bảng bụi phấn rơi rơi. Có hạt bụi nào rơi trên tóc thầy". Nhưng học sinh vẫn quý trọng họ - cả cuộc đời mình – những vị thầy, cô từng dạy từ lớp “vỡ lòng”, tiểu học, đến trung học, và cả đại học. Không có một cánh hoa hay bó hoa nào “dâng lên” họ để ca ngợi “người thầy – kỹ sư tâm hồn”.

Mức sống của các vị thầy cô  thời VNCH như thế nào? Bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của một cư dân thành thị kể cả công chức nhà nước. Có sự khác biệt trong “đãi ngộ” (tôi ghét nhất hai từ này) thầy cô, các vị “giáo làng” dạy các lớp “vỡ lòng” sống bằng đóng góp của phụ huynh, khi là vài chục ký thóc – trả theo mùa gặt chứ không phải “mùa dạy” (học kỳ), khi là vài đồng bạc (thời ông Ngô Đình Diệm) hay vài chục đồng mỗi tháng (về sau này). Lương giáo viên tiểu học, trung học đệ nhất cấp (cấp 2), đệ nhị cấp (cấp 3) tính theo công chức, tức có ngạch trật hẳn hoi. Vì sắp làm “giáo sư trung học đệ nhị cấp” (lớp 10 đến lớp 12), tôi biết chắc “chỉ số lương” (quy định của chính phủ) là 470. Trong khi chỉ số lương của kỹ sư (Phú Thọ - Bách Khoa) là 450 cùng chỉ số với phó quận trưởng. Chúng tôi được xếp là công chức hạng A sau bốn năm học đại học sư phạm. Chỉ cần 4 hoặc 5 tháng, một “giáo sư” có thể “sắm” một chiếc Honda 67 cáu cạnh (chừng 6 lượng vàng Kim Thành). Vợ của các giáo sư thường ở nhà “cơm nước” cho chồng và được gọi là nghề “nội trợ”. Ở thành phố nhỏ như Hội An, gia đình nào có con gái gã cho một sinh viên vừa tốt nghiệp đại học sư phạm, gia đình đó được xem “danh giá” lắm.

Thầy cô dạy tiểu học hay trung học không băn khoăn gì về đời sống vật chất. Dạy là nhiệm vụ thiêng liêng của họ. Không cần ai ca ngợi nghề của họ thiêng liêng nữa.

Ở trường, một người thầy “tiêu biểu” sẽ làm gì? Dạy, dạy, và dạy. Họ không phải nằm trong bất cứ tổ chức nào. Thầy giáo hầu hết không “hoạt động” chính trị vì nhà trường không phải là mái trường “xã hội chủ nghĩa”, phải có đội, có đoàn, có đảng. Không vị thầy nào nói chính trị. Không phải vì họ sợ “phạm chính trị”. Chính trị không giảng dạy trong lớp học.

Huynh trưởng của tôi, nhà giáo Nguyễn Anh Khiêm (tác giả cuốn Ký Ức Sơ Sài) là một ví dụ cho “hậu quả” khi nói đến “chính trị” trong học sinh. Xuất thân từ “gia đình cách mạng”, có bố là chủ tịch một huyện thời Việt Minh bị chết trong nhà tù VNCH, thầy – cũng như đa số sinh viên trước 1975 ở miền Nam – rất ghét chiến tranh. Thầy phân tích một bài thơ có “tính cách mạng” nhưng rất hay của một thi sĩ nổi tiếng đang sống ở miền Bắc. Thế là câu chuyện đến tai chính quyền, có lẽ qua một phụ huynh “chống cộng” nào đó. Mất chức khi “phạm chính trị”? Không. Thầy bị “trả” về bộ (giáo dục). Vị phụ trách phân công giáo sư toàn miền Nam than thở với Nguyễn Anh Khiêm “thầy ‘dính’ tới chính quyền làm gì”. Và một nhiệm sở khác (trường phổ thông của một tỉnh sát Sài Gòn) đón chờ thầy.

Tôi nói chuyện này để thưa với các vị trưởng thành dưới chế độ XHCN thấy rằng, việc chấm dứt giảng dạy đối với một thầy giáo không bao giờ xảy ra vì…chính trị, trừ phi vị thầy nào hoạt động “nằm vùng”, hồi đó tâm lý chiến (như tuyên giáo ngày nay) gọi là “ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản”.

Quan chức chính quyền có quyền uy với ngành giáo dục không? Tôi không rõ ở cấp bộ, nhưng cấp ty, tôi rất rõ. Bạn học tôi tên Nguyễn Đại Hùng, con trai của trung tá trưởng ty cảnh sát quốc gia tỉnh Quảng Nam, Nguyễn Đại Toàn. Vì hoàn cảnh thuyên chuyển công tác của bố, hay học không tốt, nó cũng như tôi, học tiểu học rất kém, không đậu vào đệ thất (lớp 6) trường công lập Trần Quý Cáp, Hội An. Nếu là ngày nay, nó sẽ vào trường công cấp kỳ bất kỳ lúc nào, chỉ cần một cú phone tới hiệu trưởng. Trường tư thục là nơi bố nó phải chấp nhận theo lẽ công bình. “Con ông cháu cha” không có chỗ đứng ở đây.

Thầy cô không dạy chính trị vì chương trình học không có “định hướng” chính trị. Không có một dòng nào, một bài học nào, một chương nào trong sách giáo khoa đại để, “Có 50 thằng Mỹ trong đồn. Du kích ta diệt 30 tên, hỏi đồn còn mấy tên?”.

Thầy giáo có bị hiệu trưởng “trù dập” không? Không hề. Hiệu trưởng không có quyền kể cả phê bình, kiểm điểm giáo viên. Hiệu trưởng chỉ theo dõi tiến trình giảng dạy của thầy cô. Họ hoàn toàn không phải bận tâm “nhắc nhở” bất kỳ một giáo viên nào bởi lòng tự trọng của một thầy giáo rất cao. Họ được đào tạo bài bản. Chỉ những học sinh xuất sắc mới có thể thi vào ngành sư phạm. Tôi chưa hề nghe câu cửa miệng “Nhất y, nhì dược, bách khoa tạm được, sư phạm bỏ đi” hay là “chuột chạy cùng sào mới vào sư phạm”.

Quan hệ thầy với trò thế nào: kính trọng. Thầy có “nhậu” với học trò nam không? Không bao giờ. Mời cà phê hay nước ngọt, thầy chưa chắc nhận lời trò, đối với học sinh trung học. Ngày nay, tôi từng chứng kiến thầy trò 100/100 “zô zô” khí thế. Mặt họ đỏ au, nghiêng ngã đi ra từ một quán nhậu, như Quan Công mất ngựa dẫn lính mất gươm.

Đã không có ngày tuyên dương họ, ông thầy VNCH của chúng tôi lại gặp cảnh “khóc hổ ngươi, cười ra nước mắt”. Sau năm 1975, những vị thầy đáng kính trở thành kẻ hàm ân chế độ mới – họ được “lưu dung”. Tội nghiệp. Họ có làm gì đâu mà cần tới lòng bao dung? Ôi, lưu dung.

Ở thành phố nhỏ Hội An, nhiều thầy của chúng tôi bị một ít đồng nghiệp “cách mạng 30” (tức 30/4, theo hùa giới chức giáo dục mới từ trong rừng ra) lên mặt “giáo dục” đồng nghiệp. Đúng là một bức tranh “vân cẩu“. Các giới chức từ miền Bắc vào có người giữ thái độ đúng mực, cảm thông “số phận” của người thầy “lưu dung”, trong lòng họ nể phục những người thầy miền Nam qua tư cách và lòng tự trọng của họ. Nhưng được mấy người. Từ chỗ là công chức hạng A các vị thầy của tôi nhận lấy 13 ký gạo, về sau có cả sắn và bo bo. Họ chịu được kham khổ của cái ăn, cái mặc nhưng họ rất đau lòng khi bị xếp vào hạng giáo chức “lưu dung”.

Ngày nay, “đồng nghiệp” của họ được tuyên dương cao quý mấy ngày trong năm? Hay chỉ là 20 tháng 11 hoành tráng, có các quan chức địa phương đến dự, trong những buổi lễ long trọng; cả buổi, thính giả chỉ nghe “kính thưa, kính thưa” dẻo cả loa phát thanh. Ác nỗi, kính thưa ấy dành cho…ai?. Các vị thầy cô ngồi trong đám đông cảm thấy hãnh diện trường ta có quan chức đến dự, thật long trọng. Thầy cô có cảm giác lâng lâng sung sướng. “Có bao giờ được như hôm nay”.

Tôi kết thúc bài viết này với câu hỏi: người thầy của học sinh thế hệ chúng tôi và người thầy của học sinh thế hệ sau 1975, người thầy nào mới thực sự được tuyên dương?

NGÔ HAY BẮP?

Lợn khác heo thế nào? Lợn thì ăn ngô còn heo ăn bắp. Vì vậy mới có "chỉ đạo" sửa ‘tinh bột bắp’ thành ‘tinh bột ngô’ gây sóng cười dư luận.

Vì sao như vậy? Ngô và bắp là tên gọi cùng một nông phẩm; người Bắc gọi ngô, người Nam gọi bắp. Phật giáo VN thống nhất cũng đang ‘đánh’ với Phật giáo VN thống nhứt. Tân Sơn Nhứt trở thành Tân Sơn Nhất cũng là câu chuyện. ‘Vòng xuyến’ dùng để chỉ ‘bùng binh’ (vòng xoay) cũng là "nỗi ấm ức" của những người Sài Gòn (không phải người thành phố Hồ Chí Minh đâu nghe).

Tiếng Bắc, tiếng Nam (gọi nôm na như vậy) cũng đều là tiếng Việt. Nhưng cách nói – và cách đặt địa danh - gây chia rẽ, vì sao? Nói tự đáy lòng, hầu hết người VN sống bên này vĩ tuyến 17 đều không thích được “giải phóng” bằng chiến tranh. Do đó, họ không thích bên "thắng cuộc" (chữ dùng của Huy Đức) hành xử như người chiến thắng "muốn nói gì, làm gì" cũng được. Đang ăn cơm chuyển qua ăn sắn. Đang ở phố chuyển về nông thôn. Đang tự do mua bán thì chuyển qua tem phiếu. Đang no chuyển thành đói. Đang học hành có học sinh phải nghỉ vì lý lịch của cha mẹ (trong khi học là quyền của mọi người dân).

Từ thực tế lịch sử ấy hiển hiện sự “bất mãn” trong văn hóa. Sài Gòn có tên hằng mấy trăm năm tại sao lại đổi thành thành phố Hồ Chí Minh? Để tri ân một lãnh tụ ư? Như vậy, nước Việt Nam nên đổi tên thành nước Ngô Quyền. Chính Ngô Quyền là người có công tái khai sinh ra đất nước “một ngàn năm nô lệ”. Hình thành dải đất này đâu có bắt đầu từ năm 1945. Việt Nam có từ mấy ngàn năm nay kia mà.

Thế thì ‘bắp’, ‘nhứt’, ‘chánh’…(chứ không phải ngô, nhất, chính) là "văn hóa" của người miền Nam. Vậy là Tân Sơn Nhứt thì phải giữ nguyên Tân Sơn Nhứt. Sửa lại một địa danh cho kêu hơn, cho đúng hơn, nhứt phải thành nhất? Vậy, tại sao quý ngài không sửa lại cái tên Nhổn đi? (trung tâm huấn luyện quốc gia Nhổn). Tiện thể sửa luôn tên “Bố Cái đại vương”. Tên quê tôi là Thường Đức cũng bị sửa thành Thượng Đức bởi tại đây có tới hai tượng đài chiến thắng.

Tên gọi theo tôi nên giữ đúng theo văn hóa địa phương trừ trường hợp tên ấy nhiều người không hiểu. Tiếng nói cũng vậy. Đố có ai nghe người Sài Gòn gọi ‘vòng xuyến’ thay ‘bùng binh’ hay ‘vòng xoay’ dù rành rành cái tên "vòng xuyến A, B, C" ?

Người Nam thật ra là người Bắc di cư vào qua nhiều giai đoạn lịch sử. ("Từ thuở mang gươm đi mở cõi/Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long"). Tiếng Bắc cũng là tiếng Nam nếu người hai miền hiểu nhau. Hoàn cảnh lịch sử Nam Bắc cắt chia (từ thời Trịnh Nguyễn phân tranh) khiến cho sự hòa giải dân tộc không thể một sớm một chiều mà hiển hiện . Cần cả hằng thế kỷ nữa để người ta không xem thường ‘bắp’ mà quý trọng ‘ngô’.

Cả người hai miền cần "tiếng nói chung", thì tiếng nói đó bắt đầu từ đâu? Từ ngôn ngữ. Đậu phộng (đậu phụng) tức là lạc. Lợn tức là heo. Không thể buộc heo phải ăn ngô, lợn phải ăn bắp. Cạc-vi -zit hay danh thiếp chứ không phải "thẻ thăm viếng xã giao" (trong bài báo của VN Express).

Khi buộc phải gọi tinh bột bắp là tinh bột ngô, người ta vô tình (hay cố ý) buộc người Nam phải nói tiếng của người Bắc. Tôn trọng bản sắc vùng miền (trong đó có ngôn ngữ) là tôn trọng nhau. ‘Nhất’ từ đây sẽ không uýnh lộn với ‘nhứt’ nữa. Việt Nam sẽ thật sự là một: Nam Bắc một nhà.

ĂN (TẾT), NÊN BỎ.

Tôi không rõ, ngôn ngữ nước nào diễn tả sự kiện trọng đại trong một đời người bắt đầu từ chữ ăn. Việt Nam tôi rất rõ ràng, ăn là trên hết. Dân dĩ thực vi tiên (hay vi thiên?). Ăn cưới, ăn giỗ, ăn thôi nôi, ăn đầy tháng, ăn mừng chiến thắng. Đất nước tôi giàu ngôn từ. Chỉ mang màu đen thôi, con mèo sẽ là mèo mun; con chó sẽ là chó mực; con ngựa sẽ là ngựa ô. Thế thì, các dịp trọng đại trong cuộc sống, tại sao lại phải bắt đầu bằng chữ ăn ‘tồi tàn’? (Miếng ăn là miếng tồi tàn/ Mất ăn một miếng lộn gan lên đầu – ca dao).

Tôi không rành chữ Hán. Chỉ lom lem tiếng Anh, tiếng Pháp. Nhưng tôi không thấy có từ hay ngữ nào bắt đầu bằng chữ ăn để diễn tả những việc trọng đại cuộc đời. Tôi có biết “Il faut manger pour vivre, et non pas vivre pour manger". Ăn để sống chứ không phải sống để ăn. Ăn là phương tiện. Ăn không phải là mục đích. Sống để ăn có thể là mấy chú lợn (bây giờ không nên gọi là heo, đấy nhá).

Ngày xưa, hay là nửa thế kỷ trước, Tết là dịp để ăn. Không ăn thì ai làm các loại bánh làm gì. Bánh tét (nếu là miền Nam), bánh chưng (nếu là miền Bắc). Bên cạnh là bánh in, bánh cốm, bánh ít, bánh nổ (nếp rang bung lấy nhân trộn đường có gừng, in thành khối, cắt thành miếng), bánh giò (hay dò, rò) bánh tổ (hay bánh ổ) bánh da (ở Quảng Nam làm bằng bột nếp rang chín, trộn với đậu phộng rang, ngào với đường, quấn tròn thành đòn, xắt ra lát cho vào đĩa để ăn từng lát) …

Câu hát ân tình ngày Tết: “Trông bánh chưng chờ trời sáng, đỏ hây hây những đôi má đào”… Trông bánh chưng chín để ăn đó quý vị.  Ở miền Nam thì nồi bánh tét sẽ là dịp con cháu cha mẹ ông bà tụ họp để đun lửa cho nồi bánh chín chờ đón giao thừa.

Ngoài bánh còn gì nữa để…ăn Tết? Làm heo. Ý quên ‘mổ lợn’. Những ngày cuối cùng trong năm, bắt đầu sau ngày ‘đưa ông Táo về trời’, tiếng heo kêu ét ét từ đầu làng cuối xóm. Thịt heo tất niên. Ba bốn nhà huồng nhau mổ một con heo. Mọi thứ từ lòng, thịt, xương được chia đều. Cúng tất niên không thể thiếu miếng lòng, miếng thịt, cục xương. Chết cũng như sống. Con cháu ăn gì ông bà ăn nấy.

Thịt heo là món chính cho ngày Tết, chứ không phải gà, vịt, ngan, ngỗng. Mấy thứ này chẳng qua là để ‘bổ sung’ cho món thịt heo.

Cái ăn ám ảnh con người Việt Nam đến nỗi, trẻ con xem miếng thịt heo, miếng bánh, cây kẹo là niềm mơ ước của thời thơ ấu. Những ngày giáp tết, khí trời se lạnh (miền Trung và miền Bắc) trẻ con thường ngồi bên mẹ khi bà làm bánh, nhất là bánh in. Trời ẩm ướt, bánh in ra không thể phơi; một lò than đỏ hồng, bên trên là miếng thùng thiết, bánh in ra xếp ngay ngắn, khi khô, tức đã cứng, mẹ sẽ sắp những chiếc bánh ấy vào một hộp hay một thúng tròn có nắp: để dành cho Tết. Cho ăn Tết. Bánh in ra sắc sảo là niềm vui cho mẹ. Nhưng có những cái không sắc sảo, dễ bể không sấy được, nhất là bể đôi, chính là niềm vui cho con, những cô bé, cậu bé, ngồi bên ‘xem’ mẹ làm bánh. Ăn chực, ăn chờ…có thể gọi thẳng thừng như thế. Cái bánh ngon lành sẽ dành cho ngày trọng đại: mồng một, mồng hai, mồng ba. Thi thoảng, có đôi cái bể (vỡ) chính là dịp Tết cho những cô những cậu bé như tôi hồi năm bảy tuổi.

Ngày nay, trẻ con không thể hình dung tại sao cha mẹ chúng, có khi ông bà chúng, lại thèm…bánh như thế. Có ba cái làm nên bữa ăn: tinh bột, chất đạm, chất béo. Mấy chục năm trước hay một thế kỷ trước, ba cái cơ bản ấy làm chi có đủ. Trẻ con bây giờ từ chối ăn kẹo nếu đó không phải là chocolate nhập ngoại. Ông bà chúng – chúng tôi ngày xưa- từng nôn nóng cả buổi sáng để trông mẹ đi chợ về. Chắc chắn bà sẽ mua cho con mình những chiếc kẹo ú làm bằng bột nếp trộn đường, rải một lớp bột bên ngoài cho cây kẹo không dính vào nhau. Ngày thường đã vậy, huống hồ ngày Tết.

Cơm nếp, bánh ngọt, thịt heo trong những ngày Xuân… không còn là thiết yếu. Chúng trở thành niềm mơ ước:

“Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ.

Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh”.

Chúng ta có lịch sử nghe đâu tới “4000 năm văn hiến”. Hai ngàn năm từ thuở hai bà Trưng tuẫn tiết là có ghi chép rõ ràng. Vậy, ăn Tết có từ thuở nào? Tôi chắc chắn ăn Tết bắt đầu từ khi người Tàu đô hộ, ngót 1000 năm.

Ngôn ngữ Hán – Việt Nam bị ảnh hưởng rất sâu nặng, có tới hơn 70 % chữ Việt có gốc Hán - có dành từ “ăn” nào cho ngày Tết? Tôi chưa rõ. Và tôi cũng không rõ. Thế thì tại sao dân tộc Việt lại dùng “ăn Tết” để diễn tả một sự kiện trọng đại nhất của cuộc sống con người  trong một năm?

Tết là dịp con cháu trở về tụ họp cùng gia đình khi họ làm ăn hay sinh sống nơi xa. Tết là dịp rảnh rỗi thăm viếng nhau giữa bà con, chòm xóm, láng giềng. Tết là dịp con cháu ra thăm viếng mồ mả những người đã khuất. Tết là dịp hội tụ đông đảo những người thân yêu. Tết là dịp con cháu đến nơi trang nghiêm như nhà thờ tộc họ,  thắp nhang mừng tuổi ông bà. Tết là dịp nhỉ ngơi. Tết là thời gian giúp con người tổng kết với tâm thế bình an những việc làm trong năm, vui buồn, sướng khổ, thành công, thất bại…

Thế thì tại sao lại phải ăn…Tết? Ăn không nên là nỗi ám ảnh cho mỗi người Việt Nam ngày nay. Ăn không còn là “ăn trên, ngồi trốc”. “Ăn cỗ đi trước, lội nước đi sau”. Ăn không còn là “một miếng thịt làng bằng một sàng thịt chợ”. Ăn không còn là “ăn cỗ đi trước, lội nước đi sau”. Ăn không còn là "ăn hối lộ", “ăn chẳng chừa thứ gì”…

Hãy bỏ tục ăn…(Tết). Mà nên thưởng thức Tết, hưởng Tết (như hưởng nhàn), chơi Tết, nghỉ Tết. Nếu là tiếng Anh, sẽ là “enjoy your Tết”. “Tết Holiday”. Không còn “Holiday for eating” (ăn tết).

KISSINGER BỎ RƠI VIỆT NAM NHƯ THẾ NÀO (How Henry Kissinger abandoned South Vietnam).

Lời người dịch:

Tôi còn nhớ, khi báo chí Mỹ hỏi ông ta, tại sao có hiệp định hòa bình  mà hai bên VN vẫn còn đánh nhau, ông ta đáp, đại ý: "Dân VN có truyền thống đánh nhau rất lâu đời; một văn bản không làm cho họ hết đánh nhau". Đọc bài viết này, tôi mới thấy đúng là cáo già nước Mỹ. Tổng thống Nixon còn bị lừa, huống hồ người khác. Và phải công nhận người cộng sản VN rất giỏi chiến tranh.

HENRY KISSINGER VÀ SỐ PHẬN SÀI GÒN

Thứ sáu này là ngày kỷ niệm 50 năm bản hiệp định hòa bình Paris của Henry Kissinger. Hiệp định tưởng có thể chấm dứt chiến tranh bằng sự khẳng định người Việt quốc gia có quyền hưởng một chế độ tự do và độc lập ở Miền Nam.

Tiếc thay, hiệp định của Kissinger không nhắm đến hòa bình mà nhắm đến đình chiến (truce), trong một thời gian, cộng sản Bắc Việt đồng ý sẽ ngưng cuộc chiến tranh xâm chiếm. Cho đến cuối tháng 12, cuối cùng tổng thống Nixon mới nhận ra những thất bại thương thuyết ngầm của Kissinger với Hà Nội. Ngày 14 tháng 12, một Kissinger tức tối mới buộc nói thật với Nixon, các điều khoản đề xuất điều chỉnh tới lúc đó là “không còn kịp”.

Vài phút sau, Nixon nhận xét, Hà Nội “đang dùng thương thuyết chỉ để tiếp tục chiến tranh, dưới một hình thức khác, chứ không phải… chấm dứt chiến tranh”.

Kissinger trả lời:

“Chúng ta miễn cưỡng đi đến kết luận – giờ, thì thưa tổng thống, ngài vừa nói rất đúng, đây không phải là văn kiện hòa bình. Đây là văn kiện để tiếp tục chiến tranh, mà họ (Hà Nội- ND) muốn tạo ra”.

“Chiến tranh tiếp tục ở miền Nam”.

Kissinger khẳng định: “Thưa, đúng”.

Nixon tiếp: “Và hòa bình thì ở miền Bắc. Có thể nói như thế”.

Kissinger: “Thưa, đúng như thế”.

Sau đó, Nixon tập trung vào việc Kissinger bỏ rơi miền Nam: “Hòa bình ở miền Bắc, chiến tranh tiếp diễn ở miền Nam, mà Hoa Kỳ lại hợp tác (với Hà Nội-ND)…áp đặt một chính quyền cộng sản ngược với nguyện vọng của dân chúng miền Nam”.

Về sau, Nixon hồi tưởng lại điều ông thực sự muốn: “Chúng ta là bên muốn có hòa bình cho hai phía. Chúng ta muốn đất nước nghèo khổ tan nát này được chính dân chúng họ quyết định, chứ không phải trên chiến trường”. Đó là đề nghị của chúng ta. Chúng ta kêu gọi miền Nam, kêu gọi miền Bắc chấp nhận điều này. Kêu gọi chấp nhận từ hai phía”.

ĐIỀU GÌ ĐÃ SAI?

Không được Nixon cho phép, và sau đó cũng không báo tổng thống, ngày 9 tháng giêng năm 1971, Kissinger gợi ý với đại sứ Liên Xô Dobrynin một kế hoạch, cho Hà Nội giữ quân trong lãnh thổ miền Nam sau khi ký hiệp định, và rồi sau đó, Hoa Kỳ sẽ không phản ứng, Hà Nội cứ tiếp tục cuộc chiến xâm lăng. Tường thuật cuộc trao đổi với Kissinger, Dobrynin còn báo cáo lên bộ chủ quản ở Mat-xcơ-va: “Kissinger đưa ra nhận xét khá kỳ lạ là cuối cùng, đây không phải là quan ngại của những người Mỹ, mà là quan ngại của chính những người Việt Nam, một khi Mỹ rút quân, họ sẽ lại đánh nhau”.

Trong báo cáo gửi cho tổng thống Nixon ngày 9 tháng giêng việc trao đổi với Dobrynin, Kissinger không nhắc đến đề nghị của ông ta về tương lai miền Nam. Quan điểm công khai của Nixon năm 1971 là Hoa Kỳ và quân đội Bắc Việt cùng rút khỏi miền Nam, để người miền Nam sống trong hòa bình.

Cuối tháng giêng, đại sứ Liên Xô tại Hà Nội chuyển đến thủ tướng Bắc Việt nội dung cuộc trao đổi của Dobrynin tới Mát-cơ-va. Những lãnh đạo cộng sản cho biết: “Nếu Hoa Kỳ chịu rút hết quân trong một thời gian nhất định và nếu không buộc quân đội Bắc Việt cùng rút quân khỏi miền Nam…Hà Nội sẽ tôn trọng ngừng bắn suốt thời gian Mỹ rút quân, thêm thời gian nếu có thể, nhưng không quá lâu, sau khi Mỹ rút quân. Sau đó có nổ ra chiến tranh giữa miền Bắc và miền Nam, xung đột ấy sẽ chẳng dính dáng gì đến Mỹ”. Như thế, cam kết của Kissinger – rằng Washington phủi tay trách nhiệm đối với những người quốc gia chống cộng -  cho thấy việc đối thoại với kẻ thù nằm trong tay người khác.

Hà Nội nhờ cựu viên chức thực dân, là Jean Sainteny, thông báo với Kissinger trong một bữa trưa ngày 25 tháng 5 năm 1971, rằng họ chấp nhận đề nghị của Kissinger. Kissinger cho Nixon biết ông có gặp Sainteny nhưng không nói rõ chi tiết cuộc chuyện trò.

Ngày 31 tháng 5 năm 1971, trong cuộc gặp kín với các nhà ngoại giao Bắc Việt ở Paris, Kissinger nói rõ đề nghị Hà Nội không cần rút quân khỏi miền Nam. Kissinger kết thúc nhận xét bằng câu nói: “Khi Hoa Kỳ rút quân hoàn toàn, tương lai chính trị miền Nam sẽ để cho người Việt Nam quyết định”. Nhận xét này không báo cáo cho Nixon.

Ngày 9 và ngày 10 tháng 7 năm 1971, Kissinger đang ở Bắc Kinh cùng với thủ tướng Chu Ân Lai bàn bạc chuyến đi lịch sử của tổng thống Nixon đến TQ để gặp Mao Trạch Đông. Nhân tiện, Kissinger nói với Chu đề xuất từng nói với đại sứ Liên Xô Dobrynin. Trang 5 tài liệu tóm tắt của Kissinger chuẩn bị với Chu có đoạn: “Nhân danh tổng thống Nixon, tôi long trọng cam kết với ngài thủ tướng rằng Hoa Kỳ chuẩn bị một thỏa thuận, theo đó, diễn tiến chính trị VN thực sự sẽ do nội bộ người Việt Nam giải quyết. Chúng tôi sẵn sàng rút quân vào một thời gian nhất định và để thực tại khách quan định hình tương lai chính trị”.

Kissinger không nói với tổng thống cam kết này của ông với lãnh đạo cộng sản TQ. Bên trái cùng trang, Kissinger viết “Chúng tôi cần một thời gian thuận tiện”.

Phía Nam Việt Nam và Nixon không biết gì về trò mèo này đối với Nam Việt Nam cho tận tháng 12 năm 1972, khi ông ta đi đến thỏa thuận với Hà Nội về văn bản hiệp ước hòa bình và đưa hiệp định đề xuất cho tổng thống Thiệu và tổng thống Nixon. Tại thời điểm đó, Nixon không thể rút lại nhượng bộ của Kissinger rằng Hà Nội có thể để quân tại miền Nam, trước tình thế chống chiến tranh dữ dội của các đảng viên Dân Chủ tại quốc hội Mỹ.

Nhưng trong tháng 11 và 12 năm 1972, với sự giúp sức của Alexander Haig, Nixon cố gắng trong tuyệt vọng điều chỉnh hiệp định hòa bình dự thảo theo hướng gia tăng sự sống sót của Nam Việt Nam, để hiệp định được thông qua và các dân biểu Dân Chủ sẵn lòng phê chuẩn ngân sách viện trợ quân sự cho Nam Việt Nam.

Nỗ lực của Nixon quá ít và quá muộn. Nước Mỹ dần dần thua một cuộc chiến đầu tiên.

Bài của Stephen Young trên Washington Examiner

Ngày 25 tháng giêng 2023.