Sunday, October 19, 2025

THƠ CŨNG GẶP HẠN

(Tổng thống Trần Văn Hương)

Có một luật sư tên tuổi trên Facebook, trích bốn câu của nhà thơ Nguyễn Bắc Sơn (1944-2015):

 “Ta vốn ghét đàn bà như ghét cứt

Nhưng vì sao ta lại yêu em?

Ôi mắt em nhìn như là bẫy chuột

Ta quàng xiên nên đã sa chân”.

Luật sư cũng làm mấy câu, gọi là xướng họa, với nội dung giễu cợt:

Tôi vốn ghét nhà thơ như ghét cứt

Nhưng vì sao ta dẫm phải mỗi ngày?

Tâm trí họ mênh mông như nhà xí

Nhét cả thế giới qua đường hậu môn?

(Hay: Cứ đau đít lại rặn được chùm thơ?)

(Trong status của luật sư là THƠ NÔN).

Nếu cho rằng bốn câu thơ trích là tởm lợm thì mấy câu đối đáp của luật sư càng tởm lợm hơn: “ tâm trí” (nhà thơ) “như nhà xí”. “Nhét cả thế giới vào hậu môn”. “Cứ đau đít lại rặn” ra thơ.

Khi nhận xét một đoạn thơ, tối thiểu người đọc phải đọc nguyên bài thơ có đoạn trích; đó là nói những ai không đọc nhiều, một điều kiện quan trọng để bình thơ, chứ chưa nói phê bình thơ. Đằng này luật sư lại “chặt đôi câu thơ” rồi “bẻ đôi câu thơ” ra mà phê phán.

Nguyên bài thơ:

TRÊN ĐƯỜNG ĐẾN NHÀ XUÂN HỒNG

(tên người yêu của tác giả).

Khi qua cầu thấy từng chùm ánh sáng

Trên những chiếc lưng trần của lũ cá thu đen

Thấy ngôi nhà em soi mình trong bóng nước

Và thấy tình yêu đầy những nỗi bi hoan

Khi qua nghĩa trang thấy một bầy mả đá

Nghĩ đời mình đâu đến một trăm năm

Nên muốn suốt đời làm tên đãng tử

Trăng mọc đêm nay lạnh chỗ nằm

Trước khi đến nhà phải trèo lên dốc

Mối tình mình cay đắng biết bao

Và tình yêu phải chăng có thật

Hay chỉ là ảo vọng đâu đâu

Ta vốn ghét đàn bà như ghét cứt

Nhưng vì sao ta lại yêu em?

Ôi mắt em nhìn như là bẫy chuột

Ta quàng xiên nên đã sa chân.

                           Nguyễn Bắc Sơn.

Tả khung cảnh đi đến nhà người yêu, thi sĩ  khiến ta hình dung, đây là mối tình khá trắc trở. Có thể chàng nghèo chăng, nhà người yêu “thấy từng chùm ánh sáng”. Những con cá thu sao lại “lưng trần”? Sao lại “đen”? Tội nghiệp cho cá hay tội nghiệp cho chàng? “Thấy ngôi nhà em soi mình trong bóng nước”. Tác giả mặc cảm “Thấy tình yêu đầy những nỗi bi hoan”. Mối tình vừa hạnh phúc mà lại vừa đau khổ (bi, hoan). Thi sĩ “muốn suốt đời làm tên đãng tử” vì thấy cuộc đời hữu hạn (Nghĩ đời mình đâu đến một trăm năm). Rồi ai cũng chết như những người nằm trong mả đá “một bầy” ở nghĩa trang chỗ tác giả đi qua. Mối tình đau khổ và khó khăn, chật vật. ("Trước khi đến nhà phải trèo lên con dốc". "Mối tình mình cay đắng biết bao"). Tác giả hồ nghi “hay chỉ là ảo vọng” rồi còn tư lự  “Và tình yêu phải chăng là có thật”.

Đãng tử nhưng cũng sa vào tình nhi nữ. Để khẳng định mình là nam nhân “hải hồ sông núi”, trước mối tình “lận đận”, tác giả muốn văng tục “Ta vốn ghét đàn bà như ghét cứt”.

Luật sư Luân Lê (tôi xin gọi ra tên) ghét nhất có lẽ là câu này. Những fans nhà cũng hùa theo nhận xét của ông; thi sĩ gì đâu mà “làm thơ như nôn mửa”. Trọng tâm là “đàn bà” so sánh với “cứt”. Ghét như ghét cứt.

Nguyễn Bắc Sơn nổi tiếng với những câu thơ có tầm ngổ ngáo như thế. Chẳng hạn:

“Mai ta đụng trận ta còn sống

Về ghé Sông Mao phá phách chơi

Chia sớt nỗi sầu cùng gái điếm

Đốt tiền mua vội một ngày vui…

(trong bài Mật khu Lê Hồng Phong).

Người lính trong chiến tranh ở miền Nam coi việc uống rượu, đánh bạc, chơi bời... là chuyện bình thường. Chiến tranh đem lại cái chết, không biết lúc nào. Họ không như bộ đội miền Bắc có một lý tưởng “đánh Mỹ cứu nước”.

Tác giả mấy câu thơ “tởm lợm” này coi chiến tranh như trò đùa (tôi: có thể đoán, trò đùa của những nước lớn):

“Chiến tranh này cũng chỉ một trò chơi

Suy nghĩ làm gì lao tâm khổ trí

Lũ chúng ta sống một đời vô vị

nên chọn rừng sâu núi cả đánh nhau

(trong Chiến tranh VN và tôi)

“Ghét như ghét cứt” thật ra là “thương quá đỗi thương”. Chúng ta thường nghe mẹ mắng con: “Thằng chó đẻ, sao cả tháng trời không thăm mẹ”. Thằng chó đẻ “tởm lợm” lắm hay sao. Cứt xuất hiện khá nhiều trong tiếng Việt. Tục ngữ “cứt con mình thơm, cứt con người thúi”. Ca dao: “Em như cục cứt trôi sông. Anh như con chó chạy rông trên bờ”. Ngày xưa, không có cầu tiêu, phân người là nguồn sống cho chó. Cứt nuôi sống chó. Tôi nghe nói, ở miền Bắc thời bao cấp, có  những năm làm con gà, con heo cũng phải xin phép nhưng làm thịt con chó thì không. “Ghét như ghét cứt” là tục ngữ dân dã dù cứt dùng làm phân bón, dùng làm thức ăn cho chó (khi cơm người không có mà ăn) như vậy cứt cũng không đến nổi tởm lợm khi soi xét trong sinh thái văn hóa của người Việt Nam chúng ta.

Ghét sao lại thương? Ghét là thương, đối với tình trai gái. “Anh đáng ghét lắm nha”. Cô gái ghét hay yêu chàng trai? “Nhưng vì sao ta lại yêu em?”. Tác giả thú nhận vì "đôi mắt người Sơn Tây”. Đôi mắt sắc, đôi mắt như chiếc bẫy, kẹp chặt đời anh “Ôi mắt em nhìn như là bẫy chuột”.

Có ai để ý bẫy chuột không? Chuột dính bẫy vì tham ăn. Và tác giả  “dính bẫy” vì tham yêu. Thi sĩ gỡ gạc hay nói gượng cho đỡ sự tự ái của một “đãng tử” trên cõi đời ô trọc: “Ta quàng xiên nên đã sa chân”. Tác giả “nói zậy mà không phải zậy”. “Đôi mắt người Sơn Tây”, “chiều viễn xứ khôn khuây” đã trói chặt đôi chân chàng lãng tử, thực ra là, đãng tử.

Căn cứ vào chỉ một đoạn thơ để kết luận về tác giả là việc làm đáng xấu hổ nếu không nói là thiếu trách nhiệm với cả người đọc lẫn tác giả. Trích ngặt đoạn thơ để phỉ báng nếu là ở nước tiến bộ như Mỹ thì luật sư Luân Lê sẽ phải ra tòa không phải để cãi mà để nhận án phạt.

Thơ không có tục chỉ có người đọc thơ coi nó tục. Có ai nhớ bài thơ này của một vị từng là tổng thống nước VNCH?:

Lao Trung Lãnh Vận

(Thơ trong ngục tù lạnh lẽo).

Suốt ngày ăn ngủ, ngủ rồi ăn.

Chẳng thấy chuyện gì chuyện khó khăn.

Nằm khểnh sờ môi, râu tua tuả,

Ngồi rù gãi háng, dái lăn tăn.

Làm sang phe phẩy tay còn quạt,

Đi tắm trần truồng mổng (*) thiếu chăn.

Ăn, ngủ, ỉa xong đầy đủ cả.

Muốn chi chi nữa, biết mần răng.

(*) Có lẽ là mông.

Trần Văn Hương là giáo sư dạy học rất nhiều năm. Câu đặc sắc nhất của bài thơ chính là “Ngồi rù gãi háng dái lăn tăn” . Bài thơ làm trong khi ông là thân phận tù nhân, nhưng đầy kiêu bạc.

Rù y như trong chữ “gà rù”. Ngồi tù trong tư thế chán chường, bất lực. Nhưng khinh bạc ở chỗ “gãi háng”, rồi “dái lăn tăn”. Thái độ ngạo đời hết biết. Câu thơ này được trích dẫn trên một chuyên mục của tờ Con Ong thì phải (tôi không chắc). Ý tại ngôn ngoại chính là cách thi sĩ hay sử dụng trong các sáng tác của mình. Chỉ những người đầu óc thẩm thấu văn chương mới không  cảm thấy bị khiêu dâm khi đọc thơ Hồ Xuân Hương. Kẻ phàm phu thường hí hửng “tự sướng” khi đọc những bài thơ tuyệt vời của nữ sĩ có một không hai trong văn học VN.

NÊN VUI HAY NÊN BUỒN?

Tin tức làm cộng đồng mạng vui nức nở ngay sau hội nghị trung ương đảng CSVN cho biết, ba ông (từng nằm) trong tứ trụ bị cách tuột các chức (dù không còn chức): Nguyễn Xuân Phúc, Võ văn Thưởng, và Vương Đình Huệ.

Riêng tôi, tôi rất buồn và chẳng hề lấy đó làm vui. Buồn: những người ở vào vị trí chót vót như thế mà lại bị kỷ luật. Không nói ra nhưng người ta ngầm hiểu “phải thế nào” mới bị mất chức. Họ là những vị ưu tú của đất nước. Không ưu tú không thể nào làm lãnh đạo. Nhưng ưu tú sao lại mất chức? Không phải một mà tới ba? Quá trình phấn đấu để lọt vào tứ trụ không phải “dễ ăn”. Không có quá trình công tác “dữ dội”, chẳng ai mà quan tâm cất nhắc họ lên những vị trí tót vời.

Tôi cảm thấy buồn ở chỗ này. Vì sao những người thiếu đạo đức ấy lại được cất nhắc lên cao? Bị kỷ luật, chắc chắn họ phải thiếu một trong hai: Tài và Đức hoặc cả hai.

Nhiều người mừng rỡ khi vị tổng bí thư quá cố thiết lập lò chống tham nhũng. Lò cháy rực lửa. Nhiều củi gộc bị đun. Dân chúng hả hê. Tôi thì không.

Tại sao trồng củi để chụm mà không trồng cây để làm nhà? Củi nhiều đến nổi một vụ tham nhũng (Phúc Sơn) có tới năm vị cấp đầu tỉnh “dính chàm”.  Người ta ca ngợi vị đốt lò như là “thế thiên hành đạo”. Tôi lại buồn cho ông. Tại sao lò của ông ngày một nhiều củi- cả tươi lần khô, cả nhỏ lẫn gộc – cháy ngùn ngụt. Ông không còn sống để thấy cây ông trồng trở thành củi. Sự thanh liêm, một lòng một dạ với dân tộc, sự tận tâm với đất nước của ông chẳng có tác dụng soi dẫn những con người ông từng tin yêu gởi gắm và gần gũi.

Vì sao? Câu trả lời ở cuối bài.

Mỗi lần có quan chức nào bị tù, bị bắt, bị mất chức, dân chúng đều mừng rỡ. Họ nghĩ công lý đang thực thi. Kẻ xấu phải bị trừng phạt. Họ đâu có thấu, muốn đào tạo một quan chức, càng chức vụ cao, nhà nước càng tốn kém công sức: giáo dục, bồi dưỡng, trui rèn, thử thách...để chọn lọc những hạt giống tinh hoa. Và người ta phải sụt sùi chứ không thể hả hê khi những hạt giống tinh hoa ấy bị ném vào sọt rác: mất chức dù ở vào vị trí trọng vọng trong những vị trí trọng vọng nhất của đẩt nước.

Những vị tứ trụ này bị kỷ luật ở giai đoạn “đất nước sắp vươn mình”. Nỗi buồn cho quý ngài chính là niềm vui cho nhân dân: kể từ đây, từ sau sự “sắp xếp lại giang san”, sẽ không còn ai thiếu tài thiếu đức lọt vào guồng máy công quyền, kể cả cấp thấp nhất là xã đến cấp cao nhất là trung ương. Nguồn nhân lực quốc gia sẽ dồi dào, không bao giờ bị lãng phí vì nguy cơ trở thành củi rồi rác

Lời tuyên bố của ông tổng bí thư Tô Lâm “Điểm nghẽn của điểm nghẽn là thể chế” sẽ đi vào lịch sử. Thể chế ấy chắc chắn sẽ phải lấy dân làm gốc. Dĩ dân vi bản.

Ba trong bốn  trụ gãy gánh giữa đường.

CHI BẰNG HỌC

Bức hình bên dưới tôi lưu lại từ Facebook của Luân Lê với câu nhận xét của ông. Không nghĩ sâu xa như ông, tôi muốn nói ý nghĩa gần gũi của bức hình.

Phần chú thích tiếng Anh trên hình: Khu vực người hâm mộ, thủ tướng, khách VIP (very important person) và buổi hoà nhạc (quốc gia).

Đập vào mắt người nhìn là hình ảnh hằng rào dây thép gai. Nếu sống trong thời chiến tranh trước đây, người ta biết thép gai luôn luôn có mặt, mọi chỗ ở các đồn binh, các cơ quan chính quyền và rất hiếm, hay không có ở nhà dân. Thép gai biểu tượng cho sự ngăn cách nguy hiểm. Một chiếc cầu có  thép gai bung hai đầu, chiếc cầu ấy “nguy hiểm “. Khu vực có thép gai thường có mìn, đa phần là mìn định hướng- claymore.

Ngày nay thanh bình nhưng hàng rào thép gai còn xuất hiện, khu vực gần đó có nguy hiểm không? Không nguy hiểm nhưng quan trọng. Không quan trọng người ta không chắn hàng rào thép gai. Bên hàng rào (trong ảnh) láo nháo mấy khán giả tò mò muốn xem buổi hòa nhạc quốc gia.

Ngày nay, tôi ít thấy các đội “kèn Tây” gọi là đội quân nhạc biểu diễn miễn phí không phải vào các dịp có diễn ra lễ trọng thể. Thích nhất là nhìn các loại nhạc cụ, lớn nhỏ, hình thù đủ các kiểu, có chiếc kèn to, tròn, như rồng quấn lấy người thổi. Nô nức xem đội quân nhạc biểu diễn, có cả quân nhạc của lính Mỹ, Đại Hàn. Thích lắm.

Thích nhưng khán giả bên hàng rào thép gai không thể tiếp cận “nơi VIP” của buổi hoà nhạc. Thôi, ở xa cũng không sao. Chỉ “có sao” là chỗ hàng rào thép gai.

Có 2 cách giải thích vì sao là rào thép gai mà không phải rào chắn thông thường.

Một, nếu thông thường, rào không ngăn được khán giả tràn vào khu quan trọng. An ninh khó kiểm soát. Thép gai cao sẽ ngăn chặn chuyện bất trắc xảy ra. Điều này nói lên, nhà chức trách chưa hẳn tin khán giả. Trong đám đông ấy, biết đâu không có “thằng” phản động, lợi dụng sự lơi lỏng của rào chắn, xông vào nơi có những nhân vật trọng yếu quốc gia. Thiếu tin tưởng đám đông quần chúng.

Hai, về phía khán giả, tạm gọi người dân đi, sự ý thức của họ chưa cao. Một hàng rào “tượng trưng”, “hiền hoà” (không phải thép gai) không giữ đúng chỗ họ đứng. Không khác chi, đến ngã tư đèn đang đỏ,  vắng camera giám sát, hoặc cảnh sát, chắc chắn người chạy xe không dại gì không vù qua…cho nhanh.

Ý thức tự giác không phải một sớm một chiều mà hình thành. Nó không phải tự nhiên mà có. Nó có từ giáo dục. Nghe nó “vĩ mô” nhưng thật đúng.

Sau lễ kỷ niệm hùng vĩ thì các đại lộ nơi sự kiện quan trọng xảy ra là rác và rác. Nam thanh nữ tú ở thành phố chứ ai vào đây? Họ không thể cầm luôn vỏ chai nhựa đựng nước uống, giấy gói bánh, hộp đựng thức ăn về nhà hay đem vất vào thùng rác? Rất đơn giản nhưng không hề đơn giản để xứng đáng là công dân văn minh.

Tôi có may mắn đi một số nước tiến bộ châu Âu. Rác là cái họ xử lý rất tốt. Không phải là sự tận tụy của người gom rác, dọn rác. Mà chính là ý thức người dân.

Con cháu chúng ta luôn luôn được giáo dục tự hào là dân tộc anh hùng đánh thắng nhiều đế quốc to. Họ không được giáo dục chu đáo trong hành xử thế nào là văn minh. Vứt rác đúng chỗ là hành vi văn minh.

Ý thức hình thành từ giáo dục. Nếu người dân được giáo dục ý thức văn minh thì việc ngăn cách giữa người dân (tất nhiên ở đây là khán giả) với những nhân vật quan trọng không phải là hàng rào thép gai. Nó nhoi nhói làm sao ấy. Những nơi diễn ra sự việc trọng đại của quốc gia đều thu hút sự quan sát của thế giới.

Không nên có hàng rào chia cắt phản cảm đó. Cần  một thế hệ nữa để hình thành một ý thức mới trong văn hóa và văn minh. Trễ còn hơn không. “Chi bằng học” (*).

(*) Chí sĩ Phan Châu Trinh.

ĐÀ NẴNG, QUẢNG NAM và hơi thở mới.

Kẻ còn, người mất. Đà Nẵng chính thức là tên sau sáp nhập. Là người Quảng Nam, làm sao tôi không xót xa khi cái tên yêu dấu, 550 năm trường tồn, lại chìm vào quá khứ. Tôi có một bài viết về việc chọn tên Đà Nẵng thay Quảng Nam sau sáp nhập. Nhưng vì sao tôi lại xót xa. Xót xa là tình cảm. Con tôi phải ra khỏi gia đình để lấy vợ, theo chồng; chúng tách rời ruột thịt. Cha mẹ ai mà chẳng xót xa. Nhưng chúng có gia đình riêng, hạnh phúc riêng, xót xa biến thành niềm hạnh phúc. Quảng Nam ra đi để Đà Nẵng còn lại. Xót xa mà hạnh phúc. Thành phố Đà Nẵng hay thành phố Quảng Nam? Tôi chắc chắn sẽ nghe câu trả lời không lưỡng lự.

Nhưng ý chính của tôi không phải câu chuyện mất còn địa danh. Không bao giờ tôi xưng mình là người Đà Nẵng. Chiến là người Quảng Nam. Hàng trăm ngàn người Đà Nẵng sẽ nói họ là người Quảng Nam. Lịch sử và văn hóa không bao giờ mất. Nếu vì mất tên là mất lịch sử, mất văn hóa thì không ai gọi Sài Gòn thay Hồ Chí Minh hay quên VNDCCH là thể chế cụ Hồ Chí Minh đọc bản tuyên ngôn độc lập văn minh và dân chủ nhất.

Đà Nẵng là tên còn lại của Quảng Nam. Khi sáp nhập địa giới, nhà cầm quyền có thể đã nghĩ tới sự giao thoa: thành phố với thôn quê; bờ biển với núi rừng; văn minh và chậm văn minh. Tôi nghĩ là như thế. Và tôi khẳng định: tôi nghĩ đúng.

Luân chuyển cán bộ thật ra là khá hay. Cán bộ sẽ mở mắt rộng hơn và khác hơn. Nhưng tôi có cảm giác sự luân chuyển ấy chưa sòng phẳng. Số cán bộ sinh ở miền Nam luân chuyển công tác ra miền Bắc nhiều hay bằng hay ít hơn số cán bộ sinh ở miền Bắc vô Nam? Tôi không rõ. Nhưng nếu sự luân chuyển cán bộ có màu sắc cục bộ địa phương thì chủ trương đó chưa phải hoàn Mỹ.

Luân chuyển để đem cái mới đến nơi công tác mới, đó mới đúng ý nghĩa của luân chuyển cán bộ.

Ở chế độ VNCH, quan chức cấp quận không bao giờ là người địa phương. Không phải địa phương không có người. Người nơi khác đến làm việc sẽ tạo không khí mới nơi nơi công tác: không khí vô tư và sáng tạo. Vô tư vì viên chức ấy không có bà con ruột thịt nơi công tác. Sáng tạo nhờ mang nhãn quan mới đến nơi ở mới. Khi có luồng gió mới thổi vào một nơi nào đó, không khí cũ kỹ sẽ thay đổi, nó tươi hơn, nó mát hơn, và nó thoáng đạt hơn.

Khi những vùng quê Quảng Nam có không khí mà những cán bộ mang từ thành phố Đà Nẵng lên, không khí ấy sẽ khác rất xa. Hành chánh bây giờ chỉ còn tỉnh và xã thì sức mạnh hành chánh dễ tác động đến cơ sở nhiều hơn trước đây khi còn cấp huyện. Chính cái đi trước của Đà Nẵng giúp Quảng Nam đi nhanh. Ví dụ: Quảng Nam có chắc làm du lịch bằng Đà Nẵng? Và văn hóa nữa. Dù có trầm tích văn hóa sâu hơn Đà Nẵng, xiển dương văn hóa, chắc gì Quảng Nam qua Đà Nẵng. Bởi người Đà Nẵng là người Quảng Nam.

Nói cho rõ, tôi không muốn hai địa danh yêu thương của tôi phải đấu đá nhau để xem ai thua ai thắng. Tôi chỉ muốn nói: sự thay đổi sẽ làm cho xã hội tốt hơn khi cái mới luôn là  động lực. 50 năm và có lẽ 70 năm, nhà nước VN mới công nhận kinh tế tư nhân là động lực phát triển kinh tế đất nước. Mới đó chứ. Tuy rất cũ với người.

Mong muốn vươn lên của đất nước bắt đầu từ mong muốn đổi mới ở làng, ở xã, ở nơi thấp nhất. Hãy đặt những vị trí lãnh đạo địa phương là người không phải ở địa phương, nhà nước sẽ thổi hơi thở mới vào một đời sống mới. Không phải quản lý dân mà phục vụ dân thì cán bộ nào không được miễn là cán bộ tài đức. Luân chuyển cán bộ sẽ trở về ý nghĩa tốt đẹp nhất: vô tư và sáng tạo  trong vai trò công bộc thật sự của dân, chứ không phải là khẩu hiệu hô hào và sáo rỗng.

GIỜ QUÊ

Giờ là thời gian. Quê là ở quê. Để phân biệt giờ thành thị. Giờ quê thật ra không giờ giấc gì cả. Có ai đó mời, “trưa ghé nhà tôi ăn cơm nhé”, quý vị sẽ vui vẻ nhận lời và đừng nên hỏi “mấy giờ”. Đối với người thôn quê, hạn chế giờ - ta nói lịch sự hơn, hẹn giờ- là điều thất lễ. Có là quan chức ở cơ quan  đâu mà hẹn “giờ” giải quyết. Trưa có thể là 10 giờ hoặc hơn. Chắc chắn là khách mời không đến “trưa quá” tức là trễ quá. Đến không chỉ có “dùng cơm”. Đến để chuyện vãn trước và sau khi ăn với gia chủ một bữa ăn thân tình. Hạn chế thời gian, tôi nhắc lại, là điều thất thố ở quê. Có câu chuyện vui. Một người bạn hứa đến nhà một người bạn khác ở Sài Gòn. Hai người ít gặp nhau dù là đồng hương Quảng Nam. “Mấy giờ mi tới?”. Người bạn nạt ngay :”Mi là quận trưởng hay sao mà phải có giờ giấc gặp mi?”.

Tôi là người Quảng (Nam) nhưng không ở quê nhiều hơn ở xứ người. Tôi có thói quen như người bạn mời đồng hương ở quê mới vào: Rạch ròi giờ giấc. Ở quê mà rạch ròi như thế là rách việc. Thời gian nghỉ trưa của tôi thường là một tiếng sau bữa ăn. Và một thời gian ở quê vừa rồi, thời gian nghỉ trưa của tôi trở thành vô dụng. Khách quê sẽ đến thăm và không hề để ý đó là thời gian nghỉ ngơi của tôi. Quý nhau mới đến thăm, đó là tục lệ ở quê tôi và có lẽ cũng là tập quán của nhiều người vùng khác. Quý nhau thì đến với nhau giờ nào chẳng quý. Nếu tôi khép cửa lại để nghỉ thì chắc chắn bà con sẽ  “đập” cửa (chứ không phải gõ cửa) nhà tôi và hô to “ngủ trưa rồi hả?” Đó là chỉ dấu cho thấy khách biết mình muốn nghỉ trưa nhưng sự có mặt của họ vào giờ đó nói lên tấm thân tình chòm xóm hay bà con. Họ thật sự vui nếu mình trở mình ngồi dậy mở cửa và nói dối: “Đâu, tôi có ngủ trưa đâu. Vô đi”. Dù quý vị có thỉnh thoảng ngáp thì vị khách sẽ không để ý đâu. Họ để ý đến quý vị. Thế là những câu hỏi thân tình, những biểu tỏ thân thiện, kỷ niệm đâu xa lắc xa lơ nhắc ra, để câu chuyện trở nên thân mật mà thật sự thân mật vì khách đến thăm  rất quý mến tôi.

Người ở quê không quen ngủ trưa. Có lẽ ông bà họ, cha mẹ họ từng là người nông dân nhiều thế hệ. Trưa mà ngủ thì ai lo chuyện đồng áng. Nghỉ trưa hay ngủ trưa gần đây mới có khi thời gian nông nhàn rất nhiều nhờ những thay đổi canh tác, từ tay chân sang máy móc, từ cấy lúa qua gieo hạt, từ gánh lúa sang chở lúa hạt...Những người thăm tôi đều trên bảy mươi và hầu hết là tám mươi trở lên. Họ không ngủ trưa, nghỉ trưa, thì chủ nhà như tôi sẽ không ngủ trưa, nghỉ trưa như họ: Mấy chục năm mới có dịp nói một câu chuyện dài. Trước đây, tôi có về quê, thời gian rất ít. Thăm cho khắp làng là điều không tránh khỏi. Đâu có câu chuyện dài kỷ niệm trong những lần tạt thăm như thế. Ban đầu tôi cảm thấy khó chịu. Nhưng về sau, tôi cảm thấy đầy ắp ân tình. Có quý mình người ta mới đến thăm mình chuyện vãn. Giờ giấc mà kể vô.

Trong các dịp quan trọng như đám giỗ (tôi thấy có lẽ là quan trọng nhất), đám cưới, đám thôi nôi, đám nhà mới, giờ giấc hầu như không quan trọng, tôi muốn nói giờ mời dự. Trên thiệp có ghi 11 giờ nhưng quý vị cảnh giác một tý. Nếu giờ ấy đến, quý vị sẽ khó tìm chỗ ngồi thích hợp và gia chủ cũng rất khó sắp xếp vì chỗ nào cũng có người ngồi. Không hẳn “ăn cỗ đi trước, lội nước đi sau” nhưng là thói quen từ trước. Đến tiệc không phải để...ăn. Đến tiệc để nói chuyện. Quê Quảng Nam của tôi là như thế. Ở chỗ đông người trong các bữa tiệc, yên lặng ăn rồi uống, quý vị sẽ được nhận xét “có miệng ăn mà không có miệng nói”, tất nhiên đó là nhận xét có trong bụng người khác, và cũng tất nhiên chẳng ai nói ra đâu vì lịch sự. Đến trước giờ mời để nói chuyện trước khi ăn, trong khi ăn, và nhất là sau khi ăn. Đương nhiên câu chuyện lúc này gần trở thành cao trào. Nói chuyện ồn ào là đặc trưng của các đám tiệc. Không ai buồn mà nói chuyện. Vui mới nói.

Trong mỗi câu chuyện khi có ai đến viếng nhà quý vị, thời gian là cái không người nào để ý tới. Dẫu bạn có ngáp thật to thì khách vẫn không dứt câu chuyện đang nói với bạn. Thương quý mới chuyện trò. Thương mến nên không bao giờ kể giờ kể giấc.

Và quý vị nên nhớ khi có ai mời quý vị đến nhà họ ăn một bữa cơm hay uống một ấm trà, hay cùng một bữa nhậu,  chớ bao giờ hỏi người mời “mấy giờ” . Hỏi giờ là quý vị giới hạn lòng thành của họ. Tốt nhất nên đến sớm và đương nhiên không vị chủ nhà nào nhìn đồng hồ hay tỏ một thái độ gì đó để “tiễn khách” cho nên quý ví cứ tha hồ ngồi chơi và nói chuyện. Nói chuyện không kể thời gian chấm dứt sẽ là niềm vui cho gia chủ: Mến nhau mới không cần giới hạn thời gian tâm sự chuyện trò.

Ở thành phố cái gì cũng có chừng mực và giới hạn. Ở quê thì không; hay ở đó mới là quê hương?

MẸ, NGƯỜI THẦY ĐẦU TIÊN.

Không phải đi học sư phạm, mẹ mới làm cô giáo. Mẹ học rất sớm không phải ở trường. Mẹ học ở nhà. Ngày xưa mẹ nghe giảng “công, dung, ngôn, hạnh”. Có thể không hiểu hết ý nghĩa nhưng mẹ là người làm việc nhiều nhất, tận tụy nhất, và hăng hái nhất. Không có con trai nào khi tuổi bắt đầu 18 mà biết rửa chén, quét nhà, trông em, phụ giúp hay thay thế cha mẹ làm việc bằng con gái. Giúp việc gia đình là hàng đầu của công, dung, ngôn, hạnh.

Làm gương bằng hành động là bài học đầu tiên mẹ dạy cho con. Không có trẻ nào thấy mẹ mình vất vả mà không ái ngại, nếu không phụ giúp mẹ mình một việc gì bé nhỏ, đỡ đần.

Khi cha cưới mẹ về, hình hài mới tượng, con trong lòng mẹ học rất nhiều điều trong cuộc sống. Chăm sóc yêu thương chồng. Thảo kính cha mẹ. Giao hoà hàng xóm, gắn kết tình máu mủ. Con học mẹ ở mỗi việc làm đầy lòng yêu thương nhân ái của người mẹ tương lai. Trong những đêm khó ngủ, mẹ lắng nghe con trằn trọc trong bụng. Con “thoi”chỗ này, con “đạp” chỗ kia. Bụng mẹ gò lên nhưng mẹ cười sung sướng: mẹ ngủ yên giấc vì bên mẹ là con, bên con là mẹ. Mẹ còn chia sẻ niềm vui ấy cho cha bên cạnh. Con học mẹ bài học nữa: biết chia sẻ.

Chín tháng mười ngày, mẹ mang nặng, và hứa hẹn “đẻ đau” nhưng mẹ vẫn sẵn sàng đón nhận. Mẹ dạy con: lòng nhẫn nại. Bụng mang dạ chửa nhưng mẹ không quên ra đồng khi mặt trời hãy còn yên giấc. Mẹ Việt Nam một nắng hai sương dạy đứa con trong bụng thấy ra sau này trong cuộc sống: làm việc không phải là nỗi khổ mà là niềm vui. Vui vì sự vất vả mang lại cho đứa con trong bụng: con có cơm ăn.

Có những điều mẹ không thể nói với chồng, với gia nương, với xóm giềng nhưng mẹ nói với con trong bụng, một mình: dạy cho con biết tìm tri kỷ.

Khi con cất tiếng khóc chào đời thì mẹ cũng khóc vì mừng: con đã sinh ra; tiếng khóc làm dịu đi cơn đau đớn; nó biến thành nụ cười khi tiếng khóc oa oa càng lúc càng mạnh mẽ của đứa con yêu dấu.

Mẹ theo dõi con không phải từng giờ mà từng giây từng phút. Mẹ dạy con chăm chỉ. Mọi người an giấc cả đêm nhưng mẹ luôn tỉnh thức. Mẹ sẽ thức dậy với con bất kỳ lúc nào con lên tiếng. Mẹ quên mọi thứ. Mẹ chỉ biết mỗi con. Mẹ sẽ không nghe tiếng xe lửa khi ngủ nhưng mẹ sẽ nghe tiếng động của con. Mẹ dạy con: tỉnh thức.

Khi con khóc quấy, có thể đòi ăn, đòi bú, đòi ẵm, đòi nũng nịu. Mẹ biết tất, con muốn gì. Mẹ dạy con sự sáng suốt không phải nhờ trí tuệ mà chính nhờ con tim: yêu thương.

Mẹ là người dạy con những câu thơ, những bài hát, những bài văn qua ca dao, qua tục ngữ , qua những câu chuyện cổ tích. Làm thơ đối với người Việt Nam còn dễ hơn ăn cơm. Từ khi trong bụng mẹ đến khi lọt lòng nằm trong nôi con đã nghe mẹ hát ru để con dễ đi vào giấc ngủ an bình. Mẹ đã dạy con: văn học.

Khi lững chững vào đời, con sẽ như mọi trẻ em khác, đi học. “Buổi mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh. Mẹ tôi âu yếm nắm lấy tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp. Con đường này tôi đã quen đi lại lắm lần nhưng lần này tự nhiên tôi thấy lạ”. Phải rồi, lạ lẫm quá, bởi vì : “ Hôm nay tôi đi học”.

Mẹ dạy con chưa đủ. Mẹ muốn con đến trường, trường học rồi trường đời. Con lớn lên và con trưởng thành. Con muốn tách khỏi mẹ nhưng mẹ không bao giờ muốn tách khỏi con. “Nhân loại vừa cười vừa tách ra khỏi quá khứ”. Mẹ thì không. Mẹ yêu quá khứ như yêu hiện tại và mẹ hy vọng vào tương lai. Có thể con không muốn mẹ can dự vào đời sống riêng tư. Có khi con không vui. Nhưng mẹ luôn luôn coi con là …con của mẹ -đứa con bé bỏng.. Mẹ muốn ôm con vào lòng như khi còn nhỏ. Nhưng không còn được nữa. Con phải vỗ cánh như chim để bay vào bầu trời rộng mở. Nhưng liệu con có bay khỏi bầu trời bao la của mẹ? Lòng mẹ còn hơn biển cả. “Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình “. Nhạc sĩ Phạm Duy thiên tài còn giới hạn lòng mẹ thế sao?

Yêu con, chấp nhận tính khí con, có những đứa làm phật lòng mình, mẹ vẫn yêu; mẹ dạy cho con bài học cuối đời: bao dung.

Mẹ là người thầy đầu tiên và cũng là người dạy cuối cùng của con bằng tình yêu. Không cần con hiếu thảo, không cần con nghe lời, mẹ chỉ cần con để mẹ yêu con mà thôi.