Sunday, October 19, 2025

GIỜ QUÊ

Giờ là thời gian. Quê là ở quê. Để phân biệt giờ thành thị. Giờ quê thật ra không giờ giấc gì cả. Có ai đó mời, “trưa ghé nhà tôi ăn cơm nhé”, quý vị sẽ vui vẻ nhận lời và đừng nên hỏi “mấy giờ”. Đối với người thôn quê, hạn chế giờ - ta nói lịch sự hơn, hẹn giờ- là điều thất lễ. Có là quan chức ở cơ quan  đâu mà hẹn “giờ” giải quyết. Trưa có thể là 10 giờ hoặc hơn. Chắc chắn là khách mời không đến “trưa quá” tức là trễ quá. Đến không chỉ có “dùng cơm”. Đến để chuyện vãn trước và sau khi ăn với gia chủ một bữa ăn thân tình. Hạn chế thời gian, tôi nhắc lại, là điều thất thố ở quê. Có câu chuyện vui. Một người bạn hứa đến nhà một người bạn khác ở Sài Gòn. Hai người ít gặp nhau dù là đồng hương Quảng Nam. “Mấy giờ mi tới?”. Người bạn nạt ngay :”Mi là quận trưởng hay sao mà phải có giờ giấc gặp mi?”.

Tôi là người Quảng (Nam) nhưng không ở quê nhiều hơn ở xứ người. Tôi có thói quen như người bạn mời đồng hương ở quê mới vào: Rạch ròi giờ giấc. Ở quê mà rạch ròi như thế là rách việc. Thời gian nghỉ trưa của tôi thường là một tiếng sau bữa ăn. Và một thời gian ở quê vừa rồi, thời gian nghỉ trưa của tôi trở thành vô dụng. Khách quê sẽ đến thăm và không hề để ý đó là thời gian nghỉ ngơi của tôi. Quý nhau mới đến thăm, đó là tục lệ ở quê tôi và có lẽ cũng là tập quán của nhiều người vùng khác. Quý nhau thì đến với nhau giờ nào chẳng quý. Nếu tôi khép cửa lại để nghỉ thì chắc chắn bà con sẽ  “đập” cửa (chứ không phải gõ cửa) nhà tôi và hô to “ngủ trưa rồi hả?” Đó là chỉ dấu cho thấy khách biết mình muốn nghỉ trưa nhưng sự có mặt của họ vào giờ đó nói lên tấm thân tình chòm xóm hay bà con. Họ thật sự vui nếu mình trở mình ngồi dậy mở cửa và nói dối: “Đâu, tôi có ngủ trưa đâu. Vô đi”. Dù quý vị có thỉnh thoảng ngáp thì vị khách sẽ không để ý đâu. Họ để ý đến quý vị. Thế là những câu hỏi thân tình, những biểu tỏ thân thiện, kỷ niệm đâu xa lắc xa lơ nhắc ra, để câu chuyện trở nên thân mật mà thật sự thân mật vì khách đến thăm  rất quý mến tôi.

Người ở quê không quen ngủ trưa. Có lẽ ông bà họ, cha mẹ họ từng là người nông dân nhiều thế hệ. Trưa mà ngủ thì ai lo chuyện đồng áng. Nghỉ trưa hay ngủ trưa gần đây mới có khi thời gian nông nhàn rất nhiều nhờ những thay đổi canh tác, từ tay chân sang máy móc, từ cấy lúa qua gieo hạt, từ gánh lúa sang chở lúa hạt...Những người thăm tôi đều trên bảy mươi và hầu hết là tám mươi trở lên. Họ không ngủ trưa, nghỉ trưa, thì chủ nhà như tôi sẽ không ngủ trưa, nghỉ trưa như họ: Mấy chục năm mới có dịp nói một câu chuyện dài. Trước đây, tôi có về quê, thời gian rất ít. Thăm cho khắp làng là điều không tránh khỏi. Đâu có câu chuyện dài kỷ niệm trong những lần tạt thăm như thế. Ban đầu tôi cảm thấy khó chịu. Nhưng về sau, tôi cảm thấy đầy ắp ân tình. Có quý mình người ta mới đến thăm mình chuyện vãn. Giờ giấc mà kể vô.

Trong các dịp quan trọng như đám giỗ (tôi thấy có lẽ là quan trọng nhất), đám cưới, đám thôi nôi, đám nhà mới, giờ giấc hầu như không quan trọng, tôi muốn nói giờ mời dự. Trên thiệp có ghi 11 giờ nhưng quý vị cảnh giác một tý. Nếu giờ ấy đến, quý vị sẽ khó tìm chỗ ngồi thích hợp và gia chủ cũng rất khó sắp xếp vì chỗ nào cũng có người ngồi. Không hẳn “ăn cỗ đi trước, lội nước đi sau” nhưng là thói quen từ trước. Đến tiệc không phải để...ăn. Đến tiệc để nói chuyện. Quê Quảng Nam của tôi là như thế. Ở chỗ đông người trong các bữa tiệc, yên lặng ăn rồi uống, quý vị sẽ được nhận xét “có miệng ăn mà không có miệng nói”, tất nhiên đó là nhận xét có trong bụng người khác, và cũng tất nhiên chẳng ai nói ra đâu vì lịch sự. Đến trước giờ mời để nói chuyện trước khi ăn, trong khi ăn, và nhất là sau khi ăn. Đương nhiên câu chuyện lúc này gần trở thành cao trào. Nói chuyện ồn ao là đặc trưng của các đám tiệc. Không ai buồn mà nói chuyện. Vui mới nói.

Trong mỗi câu chuyện khi có ai đến viếng nhà quý vị, thời gian là cái không người nào để ý tới. Dẫu bạn có ngáp thật to thì khách vẫn không dứt câu chuyện đang nói với bạn. Thương quý mới chuyện trò. Thương mến nên không bao giờ kể giờ kể giấc.

Và quý vị nên nhớ khi có ai mời quý vị đến nhà họ ăn một bữa cơm hay uống một ấm trà, hay cùng một bữa nhậu,  chớ bao giờ hỏi người mời “mấy giờ” . Hỏi giờ là quý vị giới hạn lòng thành của họ. Tốt nhất nên đến sớm và đương nhiên không vị chủ nhà nào nhìn đồng hồ hay tỏ một thái độ gì đó để “tiễn khách” cho nên quý ví cứ tha hồ ngồi chơi và nói chuyện. Nói chuyện không kể thời gian chấm dứt sẽ là niềm vui cho gia chủ: Mến nhau mới không cần giới hạn thời gian tâm sự chuyện trò.

Ở thành phố cái gì cũng có chừng mực và giới hạn. Ở quê thì không; hay ở đó mới là quê hương?

ĐÔNG HÀ.

Quảng Trị còn tên nhưng thành phố Đông Hà sẽ không còn là tỉnh lỵ. Trong chiến tranh, Quảng Trị là nơi chốn tang thương nhất. Cách đây hơn 30 năm, chợ Đông Hà thịnh vượng vô cùng khi hàng hoá từ Thái Lan chảy qua Lào đổ về đây hàng hàng lớp lớp. Từ đôi giày lính đến áo phi công ở đây đều có bán, tất nhiên giá phải tính bằng vàng. Kha khá thì người ta có thể sắm một đôi dép Lào để “đi cùng năm tháng”, gót mòn muốn lủng nhưng quai không đứt.

Thời oanh liệt nay còn đâu. Ngày chúa nhật vào chợ tôi có thể dễ dàng đếm mà không lộn số người đi chợ. Vắng vẻ là nét chính du mặt tiền quanh ngôi chợ rộng “hoành tráng” vẫn rực rỡ sắc màu của thứ kim loại quý nhất: vàng. Các chủ tiệm hoặc đắm mình lướt web hoặc lấy dũa ra bo lại móng  trên các ngón tay sáng đẹp như hoa. Thảng hoặc, có chủ tiệm vàng phe phẩy phất trần trên mặt kính sáng cho những hạt bụi cuối cùng bay đi. Một cái chợ to lớn nhưng số người mua thì không tương xứng. Hiếm có chợ bình thường nào trên đất nước này có nhiều cửa hàng bán vàng như ở đây. Mặt tiền không lẽ bỏ, tôi nghĩ, có lẽ là lý do của sự hiện diện nhiều như thế của các chủ tiệm vàng. Và, điều này là chỉ dấu cho sự phồn thịnh trước đây của một ngôi chợ ở một tỉnh nghèo miền Trung này?

Tuy nhiên, bên trong phía sâu, hàng hoá, rau trái, thịt cá phải nói là không thiếu thứ gì. Nổi bật là chuối chín với những quầy chuối cỡ như tôi không thể nhấc lên nổi: những quả chuối tròn to dài “như những quả chuối ngự”(Vũ Trọng Phụng). Đất vùng Lao Bảo là nơi trồng những giống chuối mốc (sứ) này. Một người dân ở đây giải thích. Ở Đồng Nai đất đỏ ba dan cũng có chuối trái lớn nhưng nhờ chăm bón chứ không nhờ thiên nhiên như ở đây.

Vòm chợ trong cùng.

Đập vào mắt người tham quan sinh hoạt chợ như tôi là các gian hàng bán đồ Thái, đồ Tàu, vải vóc, áo quần và các loại đồ gia dụng soong nồi chén bát, có lẽ là giá nào cũng có nhưng nổi bật nhất là hàng mỹ phẩm Thái Lan. Cửa khẩu qua Lào là nơi đổ về những mỹ phẩm vô cùng bắt mắt này?

Nhưng cách tiếp cận khách hàng chính là nét khá dễ thương ở các cô các chị bán hàng ở đây. Thấy chúng tôi lớ ngớ quan sát cổng chợ, một cô gái chừng qua ba mươi, áo quần đẹp đẽ, với nụ cười như là đã quen biết trước vội vã tiến về phía chúng tôi, và với giọng nói ấm áp: “Cô chú đưa máy cháu chụp giùm cho” khi tôi móc túi lấy ra điền password. Thế là mấy tấm hình chụp ưng ý.

Saturday, October 18, 2025

YÊU NƯỚC VÀ CĂM THÙ, như hình với bóng

Do lịch sử hình thành đất nước, đối với người Việt Nam, yêu nước đồng nghĩa với căm thù. Sống bên một nước lớn, bá quyền, như Trung Hoa, người Việt luôn luôn ở tư thế chiến đấu. Không chiến đấu là mất nước. Dù phải mượn chữ Hán của Trung Hoa  làm ngôn ngữ ghi chép của minh, người Việt vẫn không bao giờ thôi...căm thù quân xâm lược Trung Hoa, trắng ra là quân Tàu.

Dù theo “cộng sản” hay theo “quốc gia”, tôi chắc chắn không ai theo hay yêu  Tàu. Tàu là tên gọi khá trả treo đối với một dân tộc có nền văn minh lâu đời, có thể nói là lâu đời nhất, trên 5000 năm. Việt Nam chúng ta có “bốn ngàn năm văn hiến”, còn kém Tàu một ngàn năm. Nhưng theo tôi suy đoán, VN có lẽ chỉ hơn hai ngàn năm văn hiến. Hai ngàn năm phải mất một ngàn năm “đô hộ giặc Tàu”. Ta chỉ có chừng hơn một ngàn năm tự chủ. Chừng đó thời gian, dân ta phải chiến đấu chống không biết bao nhiêu là cuộc xâm lăng từ phương Bắc. Căm thù quân xâm lăng là bản chất của dân tộc ta. Căm thù chúng đồng nghĩa với lòng yêu nước- ta gọi mỹ miều là ái quốc. Sát Thát được xăm lên người khi dân ta chiến đấu chống quân xâm lược. Không phải thời xa xưa đâu. Thời nay nữa. “Thề phanh thây uống máu quân thù”. Lòng yêu nước ngút ngàn ấy ghi trong quốc ca (từ 1944 đến 1955). Hay “đường vinh quang xây xác quân thù". Căm thù giặc, giết giặc, kể cả uống máu giặc là hành động yêu nước.

Tiếp xúc một số bạn quen là những người “có công với cách mạng” hay “những người theo  cách mạng”, kể cả con cháu họ, tôi có nhận xét, tất cả vì căm thù giặc mới trở thành những người yêu nước. Căm thù, như họ kể, là xác một du kích trước đây lập nhiều chiến tích diệt địch, bị cột vào một sợi dây nối vào chiếc xe jeep, kéo lê trên đường, để thị uy cho ai muốn theo Việt cộng hay là cách  để trừng phạt. Cũng có câu chuyện kể về xác Việt cộng bị phơi ngoài nắng, bốc mùi hôi thối mới được đem đi chôn. Tôi không rõ, việc hành hạ một xác chết có phải là chủ trương của phía “quốc gia” hay chỉ là việc làm của một thiểu số chỉ huy say máu căm thù cộng sản? Dù sao, nếu chuyện này là thật, thì chính nghĩa ngả dần về những người theo cộng sản là điều hiển nhiên.

Diệt Mỹ cứu nước hay phá tan bè lũ bán nước là chí hướng và đó là sự căm thù Mỹ- Ngụy. Tôi thấy, ở chỗ này,  căm thù là cốt lõi của lòng yêu nước. Trong một đoạn nói chuyện trên truyền hình của Tạ Bích Loan với Phạm Xuân Ẩn, khi được hỏi vì sao, nhà tình báo chiến lược này chọn một vai trò nguy hiểm trong lòng địch, mạng sống luôn bị đe dọa, câu trả lời của ông là do lòng căm thù giặc xâm lăng, trước là Pháp sau là Mỹ, và nhất là căm thù các điền chủ, đại điền chủ đối với tá điền ở miền Nam. Căm thù địa chủ cũng là biểu hiện của lòng yêu nước. Đấu tố ngay cả cha mẹ trong cải cách ruộng đất cũng là hành động yêu nước.

Tôi có cảm giác  yêu nước là phải căm thù. Yêu nước nhưng không căm thù được không? Ví dụ: Đóng thuế nhiều như Trấn Thành.  Sản xuất dù chỉ là cọng rau, bó cải. Ra sức học hành khi là học sinh. Giúp đỡ cha mẹ. Nâng đỡ anh chị em. Hòa hiếu với xóm giềng. Không xả rác bừa bãi. Không chạy xe lạng lách. Không nói tục chửi thề. Không gian lận. Không ăn cắp của công. Không lãng phí thời gian làm việc, trong công sở, trong gia đình, trong xí nghiệp, trong cơ quan...Không phóng uế bừa bãi. Không chen lấn chỗ đông người. Luôn luôn đề cao danh dự cá nhân, gia đình, dòng tộc, xóm làng, và đất nước. Phê phán chính phủ những việc làm không hợp lòng dân. Những việc ấy có phải là yêu nước không? Chắc chắn sẽ ít ai trả lời: đó là thái độ hay  hành động yêu nước.

Chỉ là câu chuyện có thiêu người hay không thiêu người mà người Việt, sau khi xem hoặc nghe người xem kể lại, trong phim Mưa Đỏ, lòng yêu nước của một số người bỗng trào dâng khi có ai đó cho rằng “ngụy” có thiêu “bộ đội” trong khi có những cựu chiến binh miền Bắc trong trận đánh Quảng Trị năm 1972- biểu tượng là thành cổ, dù trận chiến không xảy ra tại nơi này- lại cho điều đó là hư cấu của phim dựa vào tác phẩm văn học.

Căm thù không dễ gì phai nhạt sau nửa thế kỷ chấm dứt chiến tranh, không những trong phim ảnh mà cả ở lòng người.

Chỉ khi nào yêu nước với  lòng bao dung  chứ không phải sự căm thù, hiểu biết mà không mù quáng, thì con người Việt Nam mới có cơ hội vươn mình. Người  Nhật yêu nước nhưng không căm thù người Mỹ, kẻ gieo tan tóc, đau thương, trên quê hương họ. Vì đó mà họ đã vươn lên một đất nước phồn vinh? Họ không “Gặm một nỗi căm hờn”...mãi mãi “ trong cũi sắt”. Yêu nước mà không căm thù ai cả, được không?

TRÂM

Nói đến trâm người ta thường nghĩ “trâm anh thế phiệt” hay “dòng dõi trâm anh”. Trâm ở đây, rất khác , là hạt trâm, hay hột trâm, nhưng thường là trái trâm. Nhìn ảnh, người ta tưởng trái trâm to như trái nho đen (của Mỹ). Nó chỉ to bằng đầu ngón út. Trâm có màu đen thẩm, vị ngọt, nhưng hơi chát. Ăn trâm, răng sẽ có màu tím, nhưng hết ăn, súc miệng, màu trắng của hàm răng đẹp sẽ như cũ.

Tôi chắc chắn hầu hết người Việt, kể cả lớn tuổi- thất thập trở lên- chưa bao giờ ăn trái trâm như chúng tôi ở vùng quê mà núi rừng là lẽ sống, là quê hương, là nơi chốn dung thân. Cây trâm to gấp mấy lần cây khế, có thể như cây xoài; cây ổi chỉ là đàn em của cây trâm. Trâm mọc tương đối nhiều ở các chân núi. Trâm ở rừng sâu sẽ cho gỗ, gỗ trâm. Trâm dọc triền núi thường cho trái. Chúng có thân không cao, không thẳng, nên chẳng ai muốn đốn để lấy gỗ làm nhà. Thế là trâm cho trái.

Ngày nay, kỹ thuật nông nghiệp phát triển, trái cây không là niềm ao ước và khao khát đối với trẻ con như chúng tôi 60 năm trước. Trâm là trái quý giá vô cùng. Sống với núi rừng, ông cha chúng tôi rất tôn trọng núi rừng. Chặt một cây to, quê Quảng Nam tôi, người đi rừng đều tỏ lòng thành kính, nếu có nhang (hương) thì thắp nhang, không có thì khấn vái, xin ông bà cho đốn cây. Trâm ở bìa rừng không ai được đốn nhưng chẳng ai muốn đốn: Trâm cho trái.

Ngần tuổi qua bảy mươi, tôi vẫn không nhớ trâm cho trái vào tháng mấy, mùa nào. Nhưng tôi nhớ hái hạt trâm vào những ngày đi bứt đót làm chổi quét nhà. Có lẽ là tháng giêng.

Ngày nay, trâm còn không? Dạ, không. “Núi rừng có điện thay sao” của ông Tố Hữu nhưng ở quê tôi, và có thể là mọi quê, tràm là sao, là “chủ đạo”. Tràm có cách phát âm như trâm nhưng tràm đau khổ hơn trâm. Trâm sống rất lâu và có lẽ mãi mãi trong ký ức của chúng tôi. Tràm thì ba hay bốn năm hóa kiếp một lần. Người ta đốt rừng để trồng tràm liên tục nhưng trâm thì không. Trâm chỉ đốn một lần và không còn hoá kiếp. Trâm chỉ sống trong ký ức mà thôi.

SUỐI NƯỚC NÓNG

Là tên của con suối thuộc làng Đoài Sơn (còn có tên Thái Sơn, Non Thái), xã Thượng Đức (Thường Đức trước đây). Suối nước rất nóng có thể luộc trứng, kể cả luộc gà. Ngày xưa, ông bà chúng tôi không thấy tác dụng của nước nóng như ngày nay. Ở miền Nam, địa danh du lịch nghỉ dưỡng nổi tiếng Bình Châu là nhờ có suối nước nóng. Bằng cách pha với nước thường ở nhiệt độ thích hợp, suối nước nóng ở đây mang lại nguồn thu phong phú: tắm bùn.

Ở quê tôi, suối Nước Nóng không có cái may mắn ấy. Chẳng có ai có ý tưởng khai thác nguồn nước khoáng vì nhiều lý do. Vị trí suối không nằm trên trục giao thông. Đi lại khó khăn. Trước đây, có doanh nhân khởi công nhưng không rõ lý do, công trình bỏ dở. Có 2 ngôi nhà ẩn mình dưới tán cây u tịch, vắng vẻ, bắt đầu hư hỏng.

Suối Nước Nóng hãy còn là nàng Bạch Tuyết nằm ngủ giữa rừng hoang, chưa may mắn gặp vị hoàng tử của lòng mình.

Thay vào đó là con suối ở gần. Nước rất mát. Thiên nhiên cho dòng nước mát lạnh bên dòng nước nóng, thật hài hoà.

Suối có dòng nước chảy quanh năm. Sông có thể đục vì mưa nhưng suối ở đây thì không. Trong veo. Cát và sỏi hiện ra như trong lồng kính chung quanh là nước. Suối có một vũng rộng, nước ngang nách, có thể bơi qua lại. Đặc biệt có 2 dòng nước xối mạnh như thác. Ngồi tựa lưng  bờ đá, hướng vào ngọn nước xối mạnh, nước vỗ lách bách vào lưng, khách cảm  giác phấn chấn, ta hay gọi là mát-xa trong các spa ở đô thị.

Đến chỗ này, người ta phải len qua các bụi cây hai bên lối đi mòn hẹp. Tất nhiên, khách chớ vội. Hãy đi chầm chậm, hít thở không khí trong lành của núi rừng, và lắng tai nghe đâu đó tiếng chim gọi bầy hay nhảy nhót vui tươi.

Ở quê, chỗ vui chơi không nhiều như ở phố. Thiên nhiên chính là chỗ nghỉ yên bình. Dù núi rừng không còn như xưa, suối Nước Nóng là một trong những niềm an ủi cuối cùng thiên nhiên mang lại. Các bạn trẻ hay đến tắm ở đây. Các anh chị sẽ có người trong đó sau này trở thành hoàng tử và đánh thức nàng Bạch Tuyết của làng Đoài Sơn, quê hương Thường Đức.

CÂY CẢI TRẠNG QUỲNH

Lúc còn nhỏ, nghe cha tôi kể những câu chuyện về Trạng Quỳnh, tôi ngất ngây tự hào, người Việt Nam mình sao quá khôn ngoan. Không những khôn ngoan mà còn thông thái nữa.

Vua (gì đó, tôi không nhớ) luôn bực dọc Trạng xỏ lá nhiều thứ, chẳng hạn câu chuyện sau. Trạng cho lính hầu ra chợ bảo những hàng thịt heo thái thịt nhỏ để Trạng ra mua. Nhưng chờ tới chiều, rồi tối, chẳng thấy ai tới. Hàng thịt bắt đầu chửi Trạng. Lính hầu về báo lại, Trạng ra lịnh chửi ai bảo thái (thịt, xắt thịt) chứ không được chửi Quỳnh. Thế là cả chợ chửi thằng nào bảo thái (thịt). Bảo Thái lại là niên hiệu của vua Lê (nào đó, tôi không nhớ rõ). Vua rất tức giận nhưng không thể bắt tội Trạng Quỳnh.

Nghĩ ra kế hay, Vua  bảo lính xuống nhà Trạng để…ỉa cho bõ tức. Lịnh Vua là tuyệt đối tuân hành. Lính tráng khi muốn ỵ đều kéo xuống vườn nhà Trạng. Quỳnh biết mình là kẻ bề tôi, đâu dám cấm tụi lính. Sự thông minh giúp Trạng đối phó tài tình: "Vua bảo các ngươi ỉa nhưng không nói đái. Bọn bay ỉa mà đái ta sẽ cho cắt hết". Cắt cái dẫn nước tiểu ấy mà. Không ai ỵ mà không đái. Tuân lịnh vua, mọi người lính đều phải làm.

Mấy tháng sau, Quỳnh cho lính mang lên vua những cây cải cao như  đòn gánh. Vua ngạc nhiên hỏi, cải gì mà lạ lùng quá vậy. Trạng đáp, cải thường thôi; nhưng nhờ phân của lính, nó mới cao lớn tốt tươi như thế. Cải này to nhờ tưới cứt lính, Trạng mang biếu bệ hạ vài cây ăn lấy lễ.

Vua giận tím mặt nhưng vẫn cười cười cám ơn. Ngài ngẫm nghĩ: Thằng Quỳnh này xỏ lá quá.

Thật ra không phải vậy. Trạng Quỳnh rất khoa học. Cải mà tưới phân người sẽ phát triển cực kỳ. Thầy của tôi, ông Trần Văn Thọ, làm trưởng ty học chánh tỉnh Quảng Nam, giám đốc sở giáo dục bây giờ, kể lại chuyện ông chuyên gánh cứt tù ra đồng tưới cải. Có bữa ngã té, cứt đổ đầy người ông. Ông không sợ hôi hám mà sợ bị phát hiện không “hoàn thành công tác”. Ông nhận xét, phân tươi của người rất phù hợp cho cây cải. Trạng Quỳnh đã đi hàng trăm năm trước cho cái nhận định này của thầy tôi (đang còn sống ở Mỹ).

Xem thấy đâu tỉnh nào ở ngoải trồng cây cải lớn thần kỳ như ảnh, tôi suy nghĩ không biết cải này tốt vì giống hay vì phân tươi của người. Tâm tư quá.

Wednesday, December 4, 2024

GIỌNG QUẢNG NAM, NGƯỜI NÓI CÓ MẶC CẢM KHÔNG?

Trả lời ngay là có. Nhưng mặc cảm ấy chỉ xảy ra ở những cư dân Quảng Nam làm ăn xa xứ. Ở Sài Gòn, (hầu hết) những người này thường cố gắng “nói như người Nam”, phần nào che bớt cái mặc cảm có giọng nói “chẳng giống ai”. Nhưng có người "Nam hóa" giọng mình “quá hớp”. “Đêm chong đèn ngồi nhớ mẹ…” thì họ hát thành “Đêm chong ĐẰNG ngồi nhớ mẹ…”. Họ mặc cảm về âm E với âm A. “En không en tét cá đèn đi ngủ” (Ăn không ăn tắt cái đèn đi ngủ”.

Không mặc cảm sao được khi giọng nói của mình “chẳng giống ai”. Đã khác mà giọng ấy còn làm trò cười cho những người rắn mắt thích chọc ghẹo người khác vùng miền. Có những câu chuyện đánh nhau sứt đầu bươu trán trong quân đội khi thanh niên Quảng vào các trại huấn luyện quân sự ở Đồng Đế (Nha Trang). Ở quê tôi có câu “Chửi cha không bằng pha tiếng”. Pha tiếng hay nhái tiếng không thể chấp nhận được.

Giọng Quảng Nam không phải “nổi tiếng” nhờ có hai anh hề Hoài Linh và Trường Giang. Nó nổi tiếng trong câu chuyện thời sự thập niên 1960. Trong một cuộc điều trần trước quốc hội (hạ viện), chủ tịch ủy ban hành pháp trung ương (tức thủ tướng) Nguyễn Cao Kỳ hướng tay chỉ về một dân biểu Quảng Nam và nói: “Mời ông nêu théc méc (thắc mắc)”. Vị dân biểu đứng lên, sửa lại mục kỉnh, với tay ra trước cầm lấy cặp tắp, lẳng lặng rời chỗ ngồi, quay ra ra sau cúi chào đồng nghiệp. và không một lời đáp, một mạch bước ra khỏi hội trường, trước sự sửng sốt của mọi người. Trong phiên họp ngày hôm sau, trước khi khai mạc, thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ nghiêm trang xin lỗi hành vi bỡn cợt vị dân biểu ngày hôm trước. Báo chí lúc ấy phê phán vụ “pha tiếng” này của vị lãnh đạo quốc gia.

“Pha tiếng” không hẳn chấm dứt từ lúc ấy. Nó còn có đến tận bây giờ. Đây là câu chuyện trong bàn nhậu ở miền Nam mỗi một tôi là Quảng Nam. Mấy người bạn nói quê tôi có bà Mẹ Việt Nam anh hùng nhiều nhất nước nhờ… cãi nhiều. Ngậm và không nhai nổi miếng miếng mực khô trong miệng, tôi nín thở nghe “một thằng” kể chuyện như sau. Có ba anh du kích núp dưới hầm bí mật bên trên là xe tăng của lính Mỹ đang quần thảo, xích sắt nghiến ầm ầm. “Xe ten (tăng)”. “Không, thiết giốp (giáp)”, một giọng nói cất lên. “Trật lất. Xe bạc (bọc) thép’, người thứ ba quả quyết. Cuộc cãi vã bắt đầu. Nhờ dưới hầm nên tiếng cãi dẫu rất to, chẳng thằng địch nào nghe được. “Trăm nghe không bằng một thấy”, một trong ba anh du kích ra vẻ quyết định: “Mở nắp hầm lên xem”. Cả ba nhất trí. Và thế là bọn lính Mỹ nã đạn vào. Dưới hầm không nghe tiếng cãi nữa.

Tính vốn hiền từ nhưng tôi không khỏi tức giận chửi (thầm trong bụng) “Tổ cha bọn mi xuyên tạc”. Xe thiết giáp thành xe thiết giốp. Xe tăng thành xe ten. Xe bọc thép thành xe bạc thép. Ôi, cái thằng Nam bộ này nhái y chang giọng Quảng của tôi rồi. Tuy là chuyện tếu trong bàn nhậu nhưng tôi thề trong bụng không bao giờ ngồi chung bàn với họ nữa. Tự ái quê hương, biết đâu tôi không “thượng cẳng chân, hạ cẳng tay” với những thằng bạn của mình.

Cố gắng “nói như người Nam”, tôi vẫn bị người Sài Gòn nhận xét tôi nói giọng “nẫu” (lầm với Bình Định) còn quê hương thì  phê bình tôi  “mất gốc”; họ bảo tôi “nói giọng Sài Gòn”.

Bản tính người Quảng Nam rất kiên định. Họ không bao giờ thay đổi quan điểm khi đã hình thành quan điểm. “Cãi” là một trong nhiều cách họ bảo vệ cái quan điểm ấy của mình. Giọng nói, do đó, cũng khó mà bị “đồng hóa” bởi giọng nói của cư dân khác. Giọng Quảng Nam có một đặc trưng riêng. Và tôi rất hạnh phúc khi có được cuốn sách nghiên cứu có tựa “Nguồn Gốc Và Sự Hình Thành Giọng Quảng Nam” của giáo sư ngữ học Mỹ (gốc Việt) Andrea Hoa Phạm.