Friday, March 8, 2024

CÂY DI SẢN

Quê tôi làng Trúc Hà (*) vừa có cây đa được công nhận là cây di sản quốc gia. Nỗi mừng của tôi không làm nguôi nhớ cây cổ thụ, mà nếu còn cho tới nay, cái cây vừa được nhà nước công nhận hơn 200 năm tuổi đời chỉ là hàng “con cháu”.

Ở một làng gần đó, tức là Trung Đạo, có cây gạo cổ thụ, vòng thân to khủng. Cha tôi- nếu còn sống sẽ là 120 tuổi- kể lại khi còn nhỏ năm mười tuổi ông đã thấy cây nó to “hàng chục người ôm”.

Khi con người ám ảnh bởi sinh kế, nói trắng là cái ăn, không có gì là họ không làm. Ở đây, tao sống mày phải chết. Cây cổ thụ có tên cây gạo ông Tuân cũng phải chết. Đất của ông, cây gạo của ông, dân làng đặt luôn tên ông. Và nó đã chết.

Thời Việt Minh (1945-1954), cây gạo là chỗ trú ẩn của dân làng mỗi khi máy bay Pháp ném bom. Cây gạo quá lâu đời, chẳng ai biết niên đại, chỉ còn phần ngoài, phần ruột bị hư hỏng. Cây gạo to đến nỗi, ruột rỗng của nó có thể chứa 3,4 chục người núp mưa, đương nhiên là tránh bom lý tưởng. Nếu ít người, cả trâu cũng vào trú ẩn.

Nếu không có tác động của con người, cây gạo ấy có thể sống đến hôm nay. Người có mảnh đất có cây gạo thấy việc canh tác (trồng bắp, đậu) năng suất ít, vì tán lá cây gạo quá to. Thế là mỗi mùa một ít, chủ đất thời kháng chiến chống Pháp bỏ cây bắp thành đống vào bụng thân cây, và đốt. Thân gạo ngày càng mỏng vì cháy sém, có chỗ thành than, thành tro. Và số phận của cây cổ thụ phải đến. Cây có cành to đến nỗi trẻ chăn trâu trèo lên, chạy qua chạy lại , như chạy dưới đất mà không sợ ngã té.

Bão miền Trung, ai cũng biết, rất mãnh liệt. Gạo ngã đổ. Nhưng nó không chết hẳn. Còn một thân nhỏ như con giữ được đôi cành có lá. Tôi năm nay qua 72, lúc còn bé, tôi đã thấy cành nhỏ ấy là cây gạo rất to. Sau những năm hòa bình, cây gạo “vô dụng” ấy nhường chỗ để có đất canh tác, người nông dân cần có miếng ăn. Cũng phải thôi.

Khi ra Bắc tham quan những năm sau 1980, tôi thấy người ta còn chừa lại một số cây gạo ở một số vùng quê. Tháng giêng hay tháng hai (âm lịch) gì đó, hoa gạo đỏ rực những góc trời. Không rõ lúc vào HTX, họ có đói kém không, những cây gạo choáng đất chẳng bị cắt để trồng hoa màu. Người sống vì hoa màu, cây làm cớm rợp cần phải chết. Hay là họ quý trọng cổ thụ hoặc sợ hãi cây cao bóng cả, “ Thần dựa cây đa”?

Khi cái ăn ám ảnh, con người khó mà nghĩ chuyện khác, dù có liên quan truyền thống hay văn hóa như bảo tồn những cây to bóng cả, có tuổi thọ hàng mấy trăm năm như cây gạo, cây đa ở quê- loại cây tán lá rất to, hoa màu bên dưới khó mà phát triển.

Tôi vui mừng không phải cây đa quê nhà làng Trúc Hà được công nhận là di sản quốc gia. Tôi mừng quê tôi không còn thấy tán lá quá to của nó che chắn hàng ngàn mét vuông đất màu mỡ, nếu không có nó, mỗi năm thu lợi biết bao nhiêu là hoa màu thiết yếu cho cuộc sống.

Cây đa không tranh sống với con người vì con người yêu quý nó. Con người no đủ. Dân quê tôi không còn ám ảnh bởi cái ăn. Đó là niềm vui, theo tôi, còn lớn hơn cây đa của họ được công nhận là di sản quốc gia.

(*) Thuộc xã Đại Hưng, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam. (Ảnh của Phạm Duy Hiền)

KHAI SƠN

(Nói về một ngôi chùa đẹp nơi thôn dã).

Người ta hay gọi lập chùa là khai sơn. Vị trụ trì đầu tiên là thầy khai sơn, người đầu tiên dựng chùa. Dựng chùa xuất phát từ tâm của kẻ tu hành. Ban đầu có thể là một cái cốc hay am, nho nhỏ, đơn sơ, bằng tranh bằng tre, có khi là vách đất. Chùa ngày xưa thường lập trên núi, “thâm sơn, cùng cốc”. Vì thế, dựng chùa có tên là khai sơn?

Chùa Phú Sơn, xã Tam Mỹ, Chu Lai, Quảng Nam là ngôi chùa như thế.

Toạ lạc trên đồi cao, gọi là đồi 34 (cao hơn mặt biển 34 mét), trước đây là cái chùa nhỏ xây bằng đá ong và vôi vữa (vôi trộn mật đường, một thứ xi- măng cổ). Sân sau ngôi chùa là một đồn Mỹ, vì thế, chùa không bị bom đạn của chiến tranh.

Chùa trên đồi cao, cách xa chỗ dân cư nên rất yên tĩnh. Càng yên tĩnh hơn khi quanh đồi dốc có các lối đi ngoằn ngoèo bậc thang hai bên là hai hàng cau. Vườn chùa ban đầu là 1,5 hectare; sau, dân chúng hiến cúng thêm, diện tích thành 3 hectare. Trong vườn trồng  cây cho trái, nhiều nhất là cau, kế đến là nhãn và xoài. Bên hông trái ngôi chùa có cây khế cổ thụ, ước tính 100 năm tuổi. Chùa lập từ năm 1930 trên nền một cái cốc không có người ở, vị sư khai sơn là Thích Hành Giải, đã viên tịch; vị trụ trì tiếp theo, 78 tuổi, cũng vừa mới mất cách đây 1 năm. Trụ trì đời thứ 3 năm nay 52 tuổi (bằng số năm hạ lạp- thời gian tu tập- của sư phụ)

TA VÀ NGƯỜI

John Keats:

            “You are you and I am I.

            You are not in this world to live up to me.

            I am not in this world to live up to you.

           If by chance we meet, it’s beautiful”.

           (Bạn là bạn và tôi là tôi.

            Bạn sinh ra trên đời này không phải để sống vì tôi.

            Tôi sinh ra trên đời không phải để sống vì bạn.

            Nếu có cơ duyên chúng ta gặp gỡ nhau, đó là điều tốt đẹp)

            Những người bạn yêu dấu của tôi trên facebook, hầu hết không gặp mặt nhau, không biết nhau, không có một hoàn cảnh như nhau, tất cả cùng sẵn sàng chia sẻ những niềm vui, nỗi buồn, bàn bạc thế sự nổi trôi, trong một vũ trụ vô hình, một không gian bao la, lãng đãng như có mà lãng đãng như không.

            Tôi dịch đoạn thơ thành mấy câu lục bát, không trọn ý, chỉ một câu thứ hai mà đã “ôm đồm” hai câu thơ của bản tiếng Anh, với mong muốn mượn thơ nói lên nỗi lòng:

            Bạn là bạn, tôi là tôi.

            Không sinh ra ở trên đời vì nhau.

            Cơ duyên ý hợp tâm đầu.

            Đẹp sao không thể nơi nào đẹp hơn.

SHIP

Nếu thời Nguyễn Khắc Hiếu có “ship”, giao- nhận hàng, thì thi sĩ không than thở:

“Muốn ăn rau sắng chùa Hương

Tiền đò thì tốn, con đường ngại xa

Mình đi ta ở lại nhà

Cái dưa thì khú, cái cà lại thâm”.

Rau sắng.

Thiệt ra Tản Đà không hẳn thèm rau sắng. Ông đang nhớ vợ. “ Mình đi ta ở lại nhà “. Không có vợ thì dưa cũng khú, cà cũng thâm. Chẳng buồn ăn uống, dưa cà không có nàng, chàng cũng không màng tới.

Nếu có ship, chưa tới nửa ngày, rau sẽ đến bếp nhà thi sĩ, tươi như vừa hái từ trên cây. Chuyển và giao hàng không phải bây giờ mới có. Bưu điện đã có dịch vụ này từ khi nó xuất hiện. Món hàng, bưu kiện, sẽ tới tay người nhận, nhưng rất lâu. Nào đóng gói, cân trọng lượng, lập tờ khai, nộp tiền cước, nhận biên lai, và chờ hàng đi. Người gởi hồi hộp chờ gói quà đến tay người nhận. Vì có trường hợp bưu kiện “biền biệt kinh kỳ “(mất dấu trên đường đi)- tuy rất hiếm.

Ngày nay, chỉ cần một vài cái nhấp chuột hay vài thao tác vào tin nhắn, vài chục phút sau- nếu ở gần, hay một hai giờ sau- nếu ở xa, một hai ngày sau- nếu xa tít tắp, thì gói hàng, thậm chí lẵng hoa, đến tay người nhận tức thì. Trả tiền trước hay sau, hàng gởi đi đến tận tay người nhận hay người đặt hàng. Nhanh chóng, tiện lợi, an toàn, ship trở thành nếp sống của con người thời đại @.

Ship còn có mặt ở nông thôn hay những vùng quê hẻo lánh. Phổ thông nhất là các món nhậu đến đúng địa chỉ nhờ các chủ quán kiêm shipper. Ship củng cố niềm tin giữa người và người. Có thể mua nhầm hàng qua ship nhưng ship không làm phật lòng ai: không nghe trường hợp nào ship… hàng không tới nơi tới chốn. Những shipper uy tín. Chưa nghe phản ảnh shipper lừa đảo. Lừa khách hàng, shipper chắc chắn phải bỏ nghề.

Tôi nghe nói cụ Hồ Chí Minh rất thích tương bần Nghệ An, một loại nước chấm, nếu không tìm hiểu trước, người ăn có thể…thụt lưỡi vì nó quá mặn, không khác món cà pháo, một quả nhỏ ăn đủ cho một chén cơm nóng. Khi thăm em, chị của cụ thường phải mang theo chai tương bần xứ Nghệ, món ăn quê nhà.

Thời của cụ thật thiệt thòi, chẳng khác thời của Tản Đà: không có ship. Nếu có ship, cụ Hồ và cụ Tản không phải thèm món tương, món rau. Bưu điện thì không thể chuyển nước tương hay rau bó. Từ Hưng Yên xa xôi, nếu Bảo Đại còn sống, mấy chai nước tương Tiến Vua không phải quan quân ngựa xe mang vô tận Huế; vua chỉ cần lên Facebook, bấm vào messenger, a lê hấp, ngày hôm sau có ngay món chấm ngon đặc biệt dân dã này. Và nếu muốn, rau sắng, luộc chấm tương cũng sẽ có ngay: nhờ ship.

Ship vạn tuế!

ĐỌC SÁCH, thời VNCH thế nào?

Thỉnh thoảng tôi bắt gặp một hai trẻ tầm lớp 2, lớp 3, cầm trên tay truyện tranh chăm chú đọc trong quán khi chúng ăn xong trước ba mẹ. Hình ảnh những cháu bé đi với người lớn, thường thường là một cái điện thoại trượt trên tay với các ngón nhỏ nhanh nhẹn bấm bấm, có lẽ các cháu đang chơi games.

Tôi thán phục những phụ huynh nào tập cho con mình đọc sách từ nhỏ thay vì lên mạng.

Các gia đình trẻ bây giờ thường có một hay hai con, không có nhiều con như thế hệ chúng tôi, trước chúng tôi.

Việc giáo dục con không đơn giản như xưa nữa: đến giờ học, cha mẹ chỉ nhắc nhở qua nếu thấy con có thể trễ giờ.

Lúc nhỏ, tôi là một học sinh rất ngu ở tuổi tiểu học. Không ở lại lớp (lưu ban) từ lớp năm cho đến lớp nhất (lớp 1-lớp 5) là thành tích đáng phát bảng “danh dự” (giấy khen) rồi. Ở quê những năm cuối 1950, một cậu bé như tôi chỉ có đi bơi sông, bắn chim bằng ná thun, hoặc chơi “u mọi” (trò chơi trẻ con chia 2 phe, ranh giới vẽ bằng chân xuống một sân đất, thường là sân trường hay nền ruộng mùa hè;  mỗi bên cử người “u” bằng miệng, chạy qua “lãnh thổ” bên kia, nếu bị giữ lại mà hết “u” (hết âm thanh phát ra u u như tiếng sáo) thì ở luôn bên đó. Trò chơi kết thúc khi “đối phương” không còn người, nghĩa là thua. Một lối chơi Rugby nhà quê).

Khi xuống Hội An học, tôi bắt đầu chú tâm hơn, vì bị bạn hữu ở thành phố này chê tôi là “thằng dốt”, “thằng nhà quê”.

Hóa ra tôi đâu phải dốt sẵn, dốt truyền thống, dốt ba đời (theo lý lịch).

Không phải là xuất sắc nhưng tôi luôn luôn nằm trong tốp 5 từ đệ thất lên đến đệ nhất (lớp 6 đến 12) nhờ chăm chỉ “cần cù bù thông minh”.

Một trong lợi thế khi được đi học ở phố là có chỗ mượn sách, thuê sách. Trường có thư viện, loại sách bổ trợ cho học tập, ít có sách “ngoài luồng”.

Đọc sách bắt đầu từ bắt chước các bạn đọc sách. Nó đọc mình đọc, sợ chi. Tôi may mắn có người bạn ( mới mất tết năm trước) thằng Phạm Gia Tuấn. Một tay “mọt sách”. Nhà hắn ở gần tiệm chụp ảnh Huỳnh Sau. Bố trước là trưởng ty công an thời ông Ngô Đình Diệm, “thất sủng” sau 1963, có một tủ sách khá phong phú đối với tôi thời đó. Tất cả các sách thuộc nhóm Tự Lực Văn Đoàn có gần như đủ ở tủ sách này. Ông rất nghiêm nhưng sau đó biết tôi đến con ông để mượn sách đọc, ông cởi mở hơn, thi thoảng mỉm cười khi tôi lên tiếng chào ông mỗi khi lên lầu để vào chỗ bạn tôi đang đọc sách hay học bài gì đó.

Học sinh nghèo từ quê ra làm gì có tiền mua sách. Mượn sách đọc là may mắn lắm rồi. Bảo vệ những cuốn sách đa phần giấy vàng ố là nguyên tắc “sống còn” nếu bạn muốn được cho mượn sách lâu dài.

Có một “nguồn” sách nữa đó là tiệm cho thuê sách. Tôi có một người bạn hiện đang ở chỗ cho thuê sách trước kia, trên đường Trần Phú. Nhà anh ta giờ làm nơi du lịch nhà cổ, mỗi lần vào xem mỗi người 50 ngàn đồng (10 năm trước), khách tây khách ta nườm nượp.

Sách thuê ở tiệm này đa phần là tiểu thuyết, chiếm đầu bảng là các loại tiểu thuyết kiếm hiệp, còn gọi là “truyện chưởng”. Sách in trên giấy vàng, chữ không rõ mấy nhưng đọc được. Mỗi ngày 1 hay 2 đồng gì đó mỗi cuốn. Chính chỗ cho thuê này, vì sợ tốn tiền, lũ học sinh chúng tôi buộc phải “ngốn” cho nhanh một hai hay ba ngày một cuốn, đặng trả ít tiền mướn; tiền trả cao hơn nếu kéo dài ngày đọc sách. Nhờ “đồng tiền liền khúc ruột”, chúng tôi lại may mắn có thói quen đọc sách tốc độ như các đường cao tốc hiện nay.

Những nhân vật trong truyện kiếm hiệp thường đẹp như Tây Thi nếu là nữ, và hơn diễn viên Hàn Quốc nếu là nam. Thế giới trong truyện chưởng là thế giới của sự tưởng tượng, mênh mông, đi từ tây sang đông, từ nam lên bắc, một đất nước không biết bao nhiêu là thắng cảnh nối thắng cảnh; nay đang ở Tây Tạng mai đã có mặt ở Động Đình Hồ,  hay trên các đỉnh núi của Thiếu Lâm Tự, khi độc giả nam biến mình thành Trương Vô Kỵ, Lệnh Hồ Xung, độc giả nữ tưởng mình là Triệu Minh (Triệu Mẫn) hay Nhậm Doanh Doanh đẹp hoa nhường nguyệt thẹn. Nàng Nghi Lâm tu hành cũng si tình. Bất giới Hòa Thượng cũng yêu đương tá lả.

Đắm mình trong thế giới ấy, lũ học sinh chúng tôi được đắm mình trên những trang giấy, những quyển sách, những bộ sách. Vốn từ ngữ có chút “giang hồ” ngày càng nhiều trong vốn ngữ vựng của chúng tôi. Nhà trường biết chúng tôi, em nào cũng có “luyện chưởng” (đọc sách kiếm hiệp) nhưng không cấm. Ngay các thầy các cô, lúc vui vẻ, cũng kể chuyện Cô gái Đồ Long cho học sinh chúng tôi nghe, nữa là.

Nhưng một trong những định hướng học sinh đọc sách “chính thống” (những cuốn của nhóm Tự Lực Văn Đoàn cùng những tác phẩm “kinh điển” thời tiền chiến) là cách thức “thuyết trình”.

Lớp từ đệ thất (lớp 6, hay đệ lục tôi không rõ) bắt đầu làm các buổi thuyết trình trước lớp. Các tổ (thường học sinh ngồi 2 hay 3 bàn học gần nhau) phụ trách một tác phẩm như Hồn bướm mơ tiên (Khái Hưng) hay Đôi bạn (Nhất Linh)... Tổ sẽ phân công các công việc: tìm sách, đọc (ai cũng phải đọc), ghi ra nhận xét về tác phẩm, tác giả, lập một dàn bài thuyết trình, cử một trò chữ đẹp chép bài viết, một “thằng miệng mồm” có giọng tốt để trình bày trước lớp. Khi trình bày xong, các học sinh trong tổ sẽ thay nhau trả lời những câu hỏi của các bạn khác đặt ra, câu nào “bí” thầy chủ nhiệm môn văn sẽ gỡ bí giùm.

Nghe đơn giản như thế nhưng chúng tôi tập quen với việc đọc, ghi chép, nhận xét, và “tranh luận” với các bạn khác trong lớp. Đến lượt các tổ khác sẽ thực hiện tuần tự tùy đề tài sách thầy chủ nhiệm chọn hoặc chính chúng tôi chọn với sự bằng lòng của thầy.

Việc “thuyết trình” trong lớp duy trì cho đến hết bậc trung học (trừ  thi tú tài 2, lớp 12,  môn Triết thay môn Văn).

Tự tìm tòi sách, tự đọc sách đã hình thành một thói quen cho học sinh chúng tôi. Cả một đời học sinh chúng tôi chưa bao giờ biết lấy một “bài văn mẫu” nào cả, và cũng chưa bao giờ nghe nhà trường buộc học sinh phải đọc sách loại này, loại sách kia; khái niệm sách “đồi trụy”, “phản động” không mảy may biết đến. Tự do đọc sách. Tự do tìm tòi đề tài đọc. Tự do đọc cả những truyện có nội dung na ná như “phim chiếu cho người từ 18 tuổi trở lên, cấm trẻ em” thường ghi trước rạp chiếu bóng khi phim có những cảnh nhạy cảm như ôm hôn hay hơi hở hang nơi mông, nơi ngực.

Chúng tôi là những học sinh không bao giờ nghe giảng chính trị trong lớp và cũng không có bất cứ một chương, một khóa nào ở trường học nói về chính trị trong khi đất nước lúc ấy đang có chiến tranh, đang có “cộng sản”, đang có “quốc gia”.

Đọc sách lúc đó là niềm vui của học sinh, sinh viên chúng tôi.

Bây giờ học sinh, sinh viên, có quá nhiều niềm vui: Smartphone, games, phim Hàn, ca nhạc, bóng đá, facebook, có cả bia Tiger và thịt chó nữa.

Học sinh và sinh viên, tầng lớp nắm vận mệnh, tương lai dân tộc, bây giờ có quá nhiều niềm vui như thế, không hiểu họ có bỏ một số thời gian cho việc đọc sách hay không, tôi không được rõ lắm, nhưng rất rõ, họ rất ít có thời gian, vì chương trình học ở trường, học thêm ở các trung tâm, ở nhà, rồi nào đội, nào đoàn, nào đảng…đè nặng lên đôi vai của họ rất nhiều.

Chỉ nhìn một học sinh cấp một thôi: một va li sách vở kéo lè kè như va ly hành lý xách lên máy bay, đủ thấy học sinh bây giờ học hành khổ sở, tất bật thế nào.

Bill Gates là ông trùm Internet, cả thế giới xài vi tính có Windows của ông nhưng ông lại là người xài vi tính ít hơn đọc sách. Điều đó nói lên vi tính chưa hẳn thay được sách (cho đến lúc này) đối với “bộ-óc-vĩ-đại-vi-tính” ấy.

Chúng ta ao ước được thấy nhiều hơn những người cha, người mẹ trẻ, luôn cho con cái năm ba tuổi trở lên của họ làm quen với sách (ảnh, chữ) trước khi làm quen với smartphone và dân tộc này sẽ hồng phúc biết bao nếu những đứa trẻ ấy thích lướt sách như (không mong hơn) lướt web.

Những người trẻ thành đạt, mong ước khi vào thăm căn nhà sang trọng của họ, tôi được may mắn nhìn thấy cái tủ trang trọng, hoành tráng, chứa đầy sách chứ không chứa đầy những chai rượu tây đắt tiền.

SỐNG CHUNG VỚI LŨ KHÔNG CÓ NGHĨA BÓ TAY VỚI LŨ

Có một điều ai cũng biết, lần đầu tiên phát hiện mình mắc bệnh, bất cứ bệnh gì, người bệnh rất lo lắng và sợ hãi. Phát hiện bị ung thư, nỗi lo lắng và sợ hãi sẽ không cùng. Tôi cũng vậy. Một thời gian hoang mang và đau khổ. Cuộc sống ngắn ngủi vậy sao. Tôi sẽ từ giã gia đình, người thân, bạn bè…sớm như vậy sao, dù ai cũng biết con người không phải đều 100 tuổi, chứ chưa nói tới trăm năm hạnh phúc.

Tạo hóa ban cho con người một tính năng tôi thấy rất đặc biệt: Thích nghi. Có lẽ nhờ thích nghi, con người mới còn sống sót sau bao nhiêu là dâu bể, hàng triệu năm nay trên mặt đất. Động đất, núi lửa, đại hồng thủy, từng tiêu diệt giống nòi lớn nhất hành tinh: khủng long. Nhưng biết bao tai họa thiên nhiên không tiêu diệt nòi giống loài người nhờ cái “cây sậy” này biết “suy nghĩ” (Con người là một cây sậy, nhưng là cây sậy biết suy nghĩ” - Pascal). Biết suy nghĩ nên con người dễ thích nghi để sinh tồn trước bao nhiêu hiểm họa, tôi xin nói ở đây, hiểm họa mắc ung thư.

Lo lắng, sợ hãi cũng chết tại sao không lo lắng, không sợ hãi để “chống chọi” với ung thư; nói một cách khác, tại sao tôi không thể sống chung với căn bệnh quái ác từng giết chết rất nhiều người? Khi vô thuốc lần thứ ba, tôi không còn sợ ung thư nữa. Có lẽ tôi làm quen với lò lửa nung cháy gan, tim, phèo, phổi của tôi? Không. Chỉ một phần thôi. Các cơn hành hạ mấy hôm đầu của các lần vô thuốc vẫn như trước: ói mửa, nuốt không nổi hớp sữa chứ đừng nói ăn cơm, miệng lở loét, không ăn được cá kho ngót bỏ một hai lát hành tươi, chứ chưa nói cá cần phải tiêu phải ớt mới tránh khỏi tanh. Ngay cả bước ra hiên để nhìn ra cảnh vật bên ngoài, tôi cũng không dám: ánh sáng mặt trời như lò lửa phả hơi nóng vào mặt vào đầu vào da thịt tôi. Một cái nóng tôi chưa từng cảm nhận mà cũng không thể tả ra cho người khác cảm nhận.

Suy nghĩ “sợ cũng chết, không sợ cũng chết” trong tôi hình thành càng vững, càng rõ rệt, những tháng về sau trong thời gian chữa bệnh. “Thôi liều nhắm mắt đưa chân. Thử xem con tạo xoay vần tới đâu”. Hai câu thơ trong truyện Kiều rất thích hợp tâm trạng của tôi những ngày điều trị gian nan ấy. Tôi có thể cười sảng khoái khi ai đó đùa “hòa thượng thích đủ thứ” khi đầu tôi không một cọng tóc. Tôi không còn tha thiết uống bia dẫu một lon mỗi bữa ăn tối (Tôi có thói quen như thế cả chục năm nay). Tôi không còn cảm thấy thương thân trách phận, nước mắt chực trào ra như một vài lần đầu vô thuốc, khi ai đó nhận xét, liệu tôi có sức để chịu nổi hóa trị đủ thời gian hay không.

Sợ cũng chết, không sợ cũng chết, nói như ngôn ngữ bây giờ, là khẩu hiệu tôi hô vang mỗi ngày trong tâm trí. (Ấy là suy nghĩ của người bệnh ung thư như tôi; đâu phải mắc ung thư ai cũng chết). Tôi tìm đọc thêm các sách về Phật giáo. Trong cái uyên áo của Phật pháp, có cái suy nghĩ,

duyên hợp thì có, duyên tan thì mất; sự có mặt của tôi cũng là duyên hợp lại của cha, của mẹ, của ông bà tôi. Bây giờ duyên không còn hợp thì thân này phải tan, nghĩa là phải chết. Có chi đâu mà sợ.

Tuy nhiên, trong vài trường hợp “sợ quá” hóa “gan” (gan dạ). Tôi xin kể câu chuyện của mình. Một lần tôi bất đắc dĩ phải ở lại trong rừng một mình, cho đến gần tối không thể ở nữa để chờ đồng bạn. Quê tôi núi rừng nhiều hơn đồng bằng. Những năm đói khổ vì hợp tác xã thì núi rừng cứu đói nông dân trong đó có tôi.

Tôi vắt cơm gói bằng lá chuối, rìu rựa, đi theo các bác trong làng thành thạo núi rừng vào núi đẽo cây về bán. Núi chúng tôi đồi dốc rất đứng. Để giữ sức khỏe, vào rừng người ta sẽ theo lối đi lượn theo đồi dốc, xa hơn nhưng khỏe hơn; lúc ra người ta thả cây theo

các dốc đứng ở lối khác, lần đó tôi chưa biết. Người ta níu gốc cây nhỏ tụt xuống, không phải vác cây trên vai nặng nhọc. Lần đầu tiên đi rừng theo họ, tôi không rõ có hai cách đi vào đi ra, khác nhau như thế. Trên đường đi không ai lưu ý cho tôi biết điều đó. Thế là tôi ở chờ họ cùng ra cho đỡ sợ nếu đi một mình khi đẽo xong một khúc cây rừng. Chờ đến khi trời tối; trong rừng trời rất mau tối. Khi thấy tối hẳn mà chưa thấy ai, tôi buộc rìu lên vai, vác cây đi bộ, theo lối vào ban sáng.

Ở quê tôi, người ta bảo trong rừng không có ma mà có cọp. Xứ tôi sau các năm 1975, người đi núi vẫn còn thấy cọp; chúng rất dạn dĩ, khi đói có thể tấn công cả người hoặc bắt chó đi theo. Tôi lấy rựa bén cầm tay, vai vác cây đã đẽo; cây khá nặng nhưng lúc đó quá sợ nên quên cả nặng. Đi từng bước, chân đạp lên lá, tiếng động xào xạc; lúc đầu, tôi tưởng có cọp bước theo. Đi trong bóng tối, lần theo đường mòn, chốc chốc tôi quay lưng lại quan sát. Độ một tiếng sau, quá mệt, tôi không còn sợ cọp như lúc đầu. Trong đầu óc lóe lên suy nghĩ: cọp tấn công, tôi sẽ đáp trả, với chiếc rựa của mình trên tay. Nghĩ thế tôi không còn sợ nữa. Sợ quá hóa gan. Không biết là mấy tiếng, thay cây vác từ vai này sang vai kia, và khi quá mỏi, đổi vai vác ngược lại. Rồi cũng tới đích, trước mắt là dòng sông, tôi ra đến bờ sông, bên kia bờ là lối đi về nhà. Trời tối đen như mực trừ trên mặt sông mênh mông, sóng nước chấp chóa, có đôi chút ánh sáng. Buổi sáng, sông cạn nước; buổi tối vì có mưa lũ từ nguồn đổ về, nước sông mênh mông. Một mình bơi qua sông trong đêm, không có gì sợ hãi bằng.

Câu chuyện về con ma-da tôi nghe lúc bé, một loại hà bá sống dưới sông, thường kéo người dìm xuống nước chết đuối, hiện ra trong đầu óc tôi. Nhưng gần khuya, không bơi qua sông tôi phải nhịn đói, chịu rét một mình cho đến sáng. Biết đâu có một con cọp nào đó theo dấu chân người đi kiếm ăn, tôi là mồi cho nó thì sao. Thế là tôi quyết định bơi qua sông.

Nỗi sợ hãi không còn. Sợ cọp, sợ ma-da biến mất. Bản năng sinh tồn làm tôi gan dạ. Tôi vừa bơi, vừa dìu cây cột chặt rựa rìu, đến bờ sông bên kia. Khi về đến nhà tôi thấy nhiều người hàng xóm còn đang lao xao trước cổng, kẻ đuốc người đèn, sáng cả khu vực; ba tôi nhờ họ vào núi tìm tôi nhưng không ai dám lội qua sông vì nước quá sâu. Sợ hãi cũng phải tìm lối sống. Lúc trẻ như thế, lúc già gần 60, không lẽ tôi chịu bó tay trước nỗi sợ ung thư?

Thích nghi với bệnh, các tác dụng phụ khắc nghiệt của thuốc, ngày

càng nhiều nhưng ngày càng chịu đựng. Ý tưởng “sợ cũng chết, không sợ cũng chết” có lẽ giúp cơ thể tôi hình thành một sức mạnh nào đó; giống như khi vui vẻ cơ thể chúng ta tiết ra hormone “hạnh phúc Dopamine.

Tôi nghĩ cái ý tưởng “thách thức” ung thư của tôi cũng na ná câu chuyện “đề kháng” của những người Việt qua Mỹ sống một thời gian dài. Ở xứ văn minh, có lẽ họ ít tiếp xúc với vi trùng. Trở về nước thăm quê, đi đâu họ cũng cầm theo chai nước lọc: họ sợ tiêu chảy. Lúc còn ở Việt Nam, tiêu chảy không bao giờ đến với họ. Người Việt có sức đề kháng cực tốt: gỏi cá, tiết canh vịt, tiết canh heo, có người còn ăn, trong lúc H5N1 làm chết biết bao nhiêu người. Và có bao giờ họ bị đau bụng?

Môi trường sống ở Việt Nam giúp họ làm quen với đủ các loại vi trùng, từ vi trùng con, vi trùng cháu đến vi trùng cha, vi trùng ông nội, ông cố, ông tổ… Họ không bao giờ sợ chúng. Nhưng khi qua Mỹ sống một thời gian, các thứ đều “vô trùng” tuyệt đối, họ rất ghê sợ tiết canh vịt và cũng không bao giờ thấy tiết canh vịt; họ sợ hãi vi trùng vì người Mỹ cũng rất sợ vi trùng. Chế vắc xin covid còn thử tới thử lui tùm lum, an toàn 95% cũng còn người sợ huống hồ vi trùng. Đó là lý do, mấy bác Việt kiều đi đâu cũng kè kè chai nước khoáng khi trở về nước.

“Sợ cũng chết không sợ cũng chết” biết đâu đã tiết ra cái chất giúp mấy bác Việt kiều khi còn ở Việt Nam chống lại vi trùng tiêu chảy, khi qua Mỹ cái chất ấy “ở lại” quê nhà; và biết đâu “khẩu hiệu” này cũng giúp tôi có sức đề kháng cái ông nội ung thư kia? Đến giờ này, gần 11 năm, tôi vẫn còn “chạy tốt” mà không còn sợ 'ổng' đeo theo đe dọa.

Hãy sống chung với ung thư như bà con sống chung với lũ; tất nhiên phải ở trên ghe, phải ở chỗ cao, đối với bệnh nhân ung thư là chữa trị và bồi dưỡng cơ thể, đặng tránh nước lũ nhấn chìm ghe. Sống chung với ung thư không có nghĩa phó mặc số mệnh mình cho nó.

ĐỊNH HƯỚNG?

Cơ quan ngôn luận nào -nhà nước hay tư nhân- cũng đều có định hướng dư luận. Càng tự do ngôn luận càng có nhiều định hướng chứ không phải một định hướng.  Đọc chú thích bên dưới (bức ảnh), tưởng ‘vô thưởng vô phạt’, nhưng không phải, có “định hướng” đó: “ Chiếc xe của người Palestine chở công dân Israel (giữa) vào dải Gaza ngày 7/10”.

7 tháng 10 là ngày tổ chức Hamas tấn công Israel bằng mấy ngàn quả tên lửa vào thành phố, cùng lúc đưa quân vượt qua biên giới, dưới đất, trên không, và trên biển tấn công vào dân thường và binh lính đối phương. Kèm với đó là cuộc thảm sát dân Israel tại một điểm tập trung vui chơi nhân ngày lễ của họ, 250 người bị giết chết, nâng tổng số lên 1200 người. Người phụ nữ bị áp tải trên chiếc xe máy là một trong hơn 150 người bị bắt làm con tin. Lời chú thích bức ảnh trên VNExpress rất “điềm đạm”: “Chở công dân (Israel) vào dải Gaza”, lãnh thổ Palestine, như chở người du lịch hay tham quan. Công dân bị bắt cóc mà như đi chơi.

Nhiều người lên án Israel đánh bom vào Gaza trả đũa hành động sát nhân của tổ chức quân sự Hamas: 1537 người bị chết (trong đó có 447 trẻ em và 248 phụ nữ- theo bộ thông tin chính quyền sở tại, CNN đưa tin).

Vì đâu máu đổ, giữa hai nước Trung Đông? Nói ra thì dông dài và rắc rối. Chỉ nói qua thôi. Gaza có 2 triệu dân Palestine, lọt thỏm (gọi là enclave - dải đất bị bao bọc) trong vòng vây của người Israel. Dải đất chen chúc dân này bị hạn chế hầu như mọi mặt việc đi lại, làm ăn, sinh sống. Họ có chính quyền gọi là Chính quyền Palestine (PA: Palestine Authority) hay có chỗ dịch là Chính quyền dân tộc Palestine.

Năm 2007, sau khi thắng phiếu tranh cử với tổ chức  PA, Hamas nắm quyền quản lý dải Gaza. Tổ chức quân sự Hồi giáo chính thống theo hệ phái Sunny này lại bị Mỹ, EU, Canada, Nhật, Jordan, Ai Cập và Israel gọi là tổ chức khủng bố. Quan hệ giữa hai tổ chức từng quản trị Palestine - Hamas và PA- là khá phức tạp. Theo thỏa ước Oslo năm 1993, cộng đồng quốc tế công nhận PA là đại diện hợp pháp người dân Palestine. Nhưng Hamas lại nắm quyền cai trị tại dải Gaza sau cuộc bầu cử năm 2006. Như vậy, Hamas không phải là Palestine.

Nhiều người VN thấy cảnh chết chóc và tan nát ở Gaza đều cám cảnh cho dân Palestine và có người lên án chính quyền Israel. Cảnh chết chóc của dân thường Israel có ai để ý không? Có cả trẻ em bị chết cháy như than.

Nếu không tỉnh táo, chúng ta cũng sẽ bị cuốn vào vòng xoáy vốn nóng này ở vùng Trung Đông. Vì bị o ép, nên người Palestine phải “đánh” người Israel. Vì tổ chức quân sự - dẫn đầu là Hamas- tàn sát dân Israel nên chính quyền Israel mới dội bom chỗ ở người Palestine gây bao cảnh tan thương. Tổ chức Hồi giáo cực đoan này trở thành tổ chức khủng bố. Họ nói sẽ giết con tin nếu đối phương dội bom lên Gaza mà không thông báo trước cho dân thường biết (rất khôn ngoan; không khác báo động để họ ẩn núp). Israel lại cảnh báo cắt nước, cắt điện, cắt lương thực đối với hơn 2 triệu người cho đến khi Hamas thả con tin ra.

Bất kỳ cuộc chiến tranh nào, người dân đều chịu thiệt thòi nhiều nhất.

Thái độ của thế giới thế nào? Đa phần đều kêu gọi hai bên kèm chế. Hamas bị lên án nhiều hơn Israel. Chỉ có lãnh đạo Iran, Syria  là hoan nghênh việc làm của Hamas nhiều nhất.

Nếu là người nhân ái, chúng ta mong hai bên Palestine (dẫn dắt bởi Hamas) và Israel mau tìm ra giải pháp kiềm chế để sớm chấm dứt cuộc chiến đẫm máu. Máu của người dân đổ trong quá khứ chiến tranh VN  không làm cho chúng ta cảm thông và lay động trái tim trước những cái chết của con người “hai bên” đang xung đột hay sao? Hãy thôi định hướng.