Wednesday, February 7, 2024

CON TRÂU BẦU

Bầu là tên của một con trâu, cha tôi nuôi nó từ nhỏ; mẹ nó có tên Dảnh. Tôi không rõ, trâu Dảnh dấu hỏi hay dấu ngã nhưng nó có cặp sừng không cân phân. Nông dân đặt tên cho trâu như cho người. Cha tôi giải thích, không phải sừng nó khuynh tròn, mà đặt nó tên Bầu. Ông nói, Bầu rất hay. Người ta hay gọi bầu trời hay bầu sữa mẹ. Trời thì rộng bao la, mẹ thì yêu thương vô lượng. Khi cày, kéo, chỉ cần gọi tên là trâu sẽ nghe lời. Tôi không rõ, con vật có ích như heo lại không được đặt tên. Có lẽ “ăn như heo” là tính xấu, hay tuổi đời con heo quá ngắn, chẳng ai đặt tên cho một loài lấy thịt, hầu như là món gắn bó đời sống người Việt, có thể cả ngàn năm.

“Con trâu là đầu cơ nghiệp” vào thời kinh tế phát triển nhờ cây lúa. Trâu Bầu góp công rất nhiều cho cơ nghiệp của cha mẹ tôi. Trâu Bầu sinh ra trước tôi. Khi 6,7 tuổi tôi mới chú ý khi nó cần mẫn, gần như cả đêm, đi quanh trên đống rơm có lúa hạt, trong ngôi nhà ngang cạnh nhà trên của cha tôi. Thỉnh thoảng, bác thợ xảy rơm mang một cái rổ có lót một ít rơm chạy đến con trâu khi nó dừng lại và ngỏng đuôi lên. Con Bầu cũng đi vệ sinh. Nhưng khi buồn tiểu, Bầu cũng dừng lại, ngỏng đuôi, lần này sẽ là một cái thùng thiết mang đến.

Cho đến bây giờ, 60 năm sau, tôi vẫn không hiểu tại sao, người ta biết khi nào trâu đại tiện, khi nào tiểu tiện, để mang đúng dụng cụ vệ sinh đến. Ngày nay, các máy gặt đập liên hợp thay thế nhiệm vụ nặng nề của những con trâu chăm chỉ thời xưa. Chẳng gặp cảnh trâu đạp lúa, để tôi hỏi cho ra lẽ.

Có lẽ gần gũi nhau hàng chục năm, cha tôi rất hiểu tính khí con Bầu, và con Bầu cũng hiểu tính khí cha tôi. Khi có kẻ ăn người ở trong nhà, con Bầu giao cho người khác giữ, cày bừa, đạp lúa, và cha tôi luôn dặn dò họ không được đánh nó, vì nó chẳng lì như trâu. Ngày xưa người ta hay sử dụng một cây roi mây, dài hơn một mét, nhỏ như chiếc đũa ăn, có chừa phần gốc, gốc mây, lớn như ngón tay cái, rất cứng, gọi là “củ trối”. Khi cày bừa, chiếc roi này “hoạt động” liên tục.

Nếu để ý, trâu đang cày, bừa, hay bộng (ban cho phẳng mặt ruộng để nước ngập đều), tiếng vun vút của roi mây và tiếng la hét trâu của người nông dân đều đều xen kẽ nhau. Đánh nhiều quá, trâu hóa liều, roi sau phải mạnh hơn roi trước, trâu mới có thể tuân lời. “Lì như trâu” sẽ xảy ra khi trâu bị bắt làm việc quá sức, thời tiết quá nóng, sự tức giận của người điều khiến quá nhiều. Lúc lì ra, trâu sẽ bị ăn roi quyết liệt, lần này, gốc roi không phải để cầm; gốc roi biến thành ngọn roi. Tiếng bốp bốp vang lên, củ trối đập mạnh vào xương lưng, xương đùi của trâu, hẳn là đau thấu xương.

Trâu Bầu của cha tôi không cần roi nhưng vẫn làm việc theo ý người điều khiển nếu họ hiểu ý nó. Và khi chuyển giao “quản lý”, vị trai cày cho cha đều nghe rõ diễn giải cặn kẽ của cha tôi về “tính khí” con Bầu. Tuy roi vẫn còn sử dụng nhưng cha tôi yêu cầu không được dùng để đánh con Bầu thân thiết của cha.

Từ khi ra riêng (lúc 40 tuổi) với vài ang gạo bà nội tôi “cấp” (ang tương đương 10 lít), cha tôi xây nhà, mua ruộng, nuôi cả gia đình, sau này cho chúng tôi ăn học. Cơ nghiệp ấy có công sức của con trâu Bầu. Con Bầu sống như thành viên trong gia đình tôi.

Mùa nông nhàn trâu thường ở nhà. Thỉnh thoảng, tôi lén chạy ra chuồng trâu, trèo qua hàng rào bằng thanh gỗ, để leo lên lưng con Bầu – cỡi trâu cho thỏa thích. Cha tôi không cho tôi được tiếp xúc với con Bầu cũng nhưng hai đứa con của nó, “một thanh niên, một thiếu nhi”. Ông sợ chúng húc vào người, nếu tôi lớ ngớ chòng ghẹo chúng.

Ngồi trên lưng con Bầu, hai chân thõng xuống, thỉnh thoảng, bắt chước người cỡi ngựa, tôi thúc gót chân mình vào hông nó. Bầu phản ứng bằng cách thở thật to, mấy tiếng phì phì bực bội, đuôi đập mạnh về hướng tôi ngồi, có vẻ nó không bằng lòng với những cú thúc quá mạnh.

Hồi nhỏ, tôi rất thích được cỡi trâu. Lúc vắng cha, tôi xin bác xảy rơm, cho được leo lên con Bầu đang đi quanh đạp lúa. Vài vòng đầu rất thích thú. Tôi lại thúc gót chân vào hông như người ta muốn ngựa đi nhanh. Con Bầu không nghe lời. Nó vẫn đĩnh đạc đi chầm chậm trên đống rơm có lúa, coi như không có tôi đang ngồi trên lưng nó.

Chừng năm phút, tôi bắt đầu chóng mặt, khẩn khoản xin được leo xuống. Hò…hò…Con Bầu dừng lại sau hiệu lịnh của bác xảy rơm. Được đỡ xuống lưng con Bầu, tôi bước tới trước, một tay nắm chiếc tai to của nó, tay kia vuốt lên má phía dưới con mắt to đen, tròn trịa luôn luôn ngấn nước, không rõ có phải là nước mắt than thở, vì làm việc nhiều và thức quá khuya?  “Bầu ơi,chào mi”. Con Bầu khì một tiếng to rồi bắt đầu cất bước khi có lệnh tiếp tục đạp lúa.

Có khi đi tắm sông, tôi may mắn gặp con Bầu cũng đang nằm trong nước, phía dưới chỗ tắm của dân làng. Tôi xin chú giữ trâu (con bác xảy rơm, hơn tôi 5,6 tuổi) được leo lên lưng một chút. Trâu rất thích dầm mình trong nước vừa ngập lưng. Thỉnh thoảng nó cúi đầu xuống nước, một lúc rồi ngẩng lên, lắc thật mạnh, sau tiếng phì thật to. Nước từ hai lỗ tai, lỗ mũi bắn ra rất xa, trong khi đuôi quất xuống nước, qua lại cũng rất mạnh, nước văng tung tóe. Trâu cũng như trẻ con, ưa đùa nghịch khi tắm mát.

Trâu thích nhất có người kỳ cọ lưng nó. Và tôi làm công việc đó. Tôi vốc những những nắm cát mịn dưới lòng sông, xoa lên lưng Bầu. Nó nằm yên có vẻ thích thú. Khi mỏi tay, tôi ngưng chà lưng, chà cổ, con Bầu ngoảnh lại phía tôi, đôi mắt đen to, ngấn nước, nhìn tôi như muốn nói “tiếp tục đi”. Thế là tôi vốc thêm cát, chà xát khắp người nó. Thỉnh thoảng, gặp một hai con ve trốn dưới hai mắt, hay trong lỗ tai bự của nó, tôi tẩn mẩn rứt ra, vứt xuống sông. Con Bầu lắc nhẹ hai sừng như muốn cám ơn. Chú chăn trâu ra hiệu cho tôi ngưng để anh cỡi Bầu về nhà; tôi hơi tiếc nhưng cũng vui vẻ chạy đi, nhảy tùm xuống sông, bơi lội. Tôi vui như mới vừa tắm chung với một đứa bạn thân.

Con vật cũng như con người, đều có số mệnh, và cũng đều sinh tử như nhau. Ngày xưa, quê tôi chuyên trồng lúa; ruộng lúa luôn có nước. Người nông dân chỉ nuôi trâu mà không nuôi bò trong việc nông tang. Mỗi làng, nhờ vậy, hơn một phần ba hộ có nuôi trâu. Số lượng ngày càng nhiều và con trâu bớt còn là vật thân thương như con người. Trâu không cày, không bừa, không kéo gỗ sẽ bị bán đi hoặc làm thịt. Những ngày trọng đại trong năm, như lễ Cầu An, hay cúng Thành Hoàng, người ta mổ hai hay ba con trâu béo tốt nhưng “vô dụng” làng bỏ tiền ra mua, để cả làng mở tiệc, đôi ba ngày. Tôi chứng kiến một cảnh mổ trâu như thế khi còn bé.

Trên một khoảng sân rộng, người ta cột con trâu vào cọc đóng ở giữa, cọc to bằng bắp chân người lớn. Trâu to nhưng ít khi nào dám giật mạnh nếu bị người nắm chặt lấy dây thừng mũi. Bị ghịt chặt dây mũi, trâu rất dễ mất thế. Một số lực điền khỏe mạnh chia thành 2 tốp; mỗi tốp thủ một sợi dây thừng dài nhưng chắc chắn. Tốp quàng sợi dây vào hai chân trước; tốp quàng dây vào hai chân sau. Qua một hiệu lệnh, hai sợ dây thít chặt vào chân trâu, hai tốp giật mạnh, con trâu to ngã đánh huỵch xuống đất, trong tiếng reo hò tở mở của đám trẻ con chúng tôi đang lố nhố bu quanh. Một bác lực điền khác đi lại, tay cầm một con dao to tướng, sáng loáng, có lẽ mài rất bén; một người khác đi theo, khệ nệ khuân một nồi đồng cực lớn, để hứng tiết.

Thoáng một nhát, chiếc dao bén thọc sâu vào cổ con trâu đang giãy giụa. Một số người khác dùng hai đòn cây dài đè thân trâu, dí sát mặt đất, không cho nó vùng vẫy. Trâu rống to, càng lúc càng thống thiết. Tiếng thét của nó không lấn át tiếng ùng ục của máu phụt ra từ cổ, theo con dao to, qua bàn tay nắm chặt chuôi dao, chảy vào nồi đồng đặt dưới hố nhỏ đào sẵn trên mặt đất, vừa tầm cho tiết trâu chảy vào.

Lúc con trâu ngã huỵch xuống đất, tôi cũng reo hò như thắng trận cùng những đứa trẻ trong làng. Nhưng khi thấy máu chảy, nghe tiếng rống thê lương , âm thanh ùng ục theo dòng máu trào ra từ con dao to bản, tôi không còn thấy hồ hởi nữa. Lòng tôi sững lại, chùng xuống. Tôi nghĩ một ngày nào đó, con Bầu nhà tôi cũng theo số phận con trâu này, với tiếng thở phì ngắt quãng; nó đang trút hơi thở cuối cùng. Tôi giật mình đánh thót: trên con mắt đen tròn của con trâu khốn khổ, những giọt nước mắt ứa ra, giọt này lăn theo giọt khác. Trâu cũng khóc trước khi lìa đời như người hay sao?

Tôi không còn hứng thú đứng chờ xem phần thui trâu. Nhìn những đống bổi to chất gần đó, tôi thấy buồn vô hạn. Một ngày nào đó, con Bầu nhà tôi cũng sẽ bị đâm cổ cho chết, ngọn lửa sẽ thui cháy nó. Lớp da sẽ mất đi, kéo theo những sợi lông đen dài mượt mà, tôi từng kỳ cọ cho nó.

Lo lắng của tôi cũng thành sự thật. Con Bầu nhà tôi chịu một số phận oan nghiệt hơn. Do quá già, hay quá yếu, Bầu sơ ý ngã xuống một hố sâu, có cắm chông nhọn, thời chuẩn bị chiến tranh. Khi kéo lên khỏi miệng hố, thân thể nó đầy những vết đâm, lỗ chỗ. Máu có chỗ tươm ra, nhỏ thành từng giọt. Nó đi khệnh khạng nhưng vẫn về được tới nhà. Từ đó, con Bầu không thiết đến ăn uống. Cha tôi cắt những bó rau xanh mướt, bỏ trước mặt nó. Con Bầu như nhìn cha tôi rồi nằm bất động, chỉ có đôi tai còn ve vẩy. Đôi mắt nó buồn rười rượi. Tôi cầm một hai cộng cỏ non đưa vào mũi nó. Con Bầu có vẻ lắc đầu. Nó bỏ ăn từ đó.

Cha tôi từ chối bán nó cho người trong làng mổ thịt. Ông thương con Bầu như con. Cha  sao nỡ nhìn con bị người ta giết chết. Liên tưởng đến cảnh trâu bị trói, bị đâm tôi thấy cha tôi quyết định thật đúng: không thể cam tâm nhìn con Bầu chịu thêm khổ nạn.

Con Bầu được thương lái nơi khác đến mua. Đó là một buổi chiều cuối đông ảm đạm. Sau khi ngả giá chóng vánh, cha tôi đồng ý cho người ta bắt trâu dắt đi. Tôi chạy ra chuồng đứng nhìn con Bầu thật lâu. Nó không còn nằm. Nó đang đứng thẳng, mắt hướng vào cửa sau nhà tôi. Tôi tiến lại gần để vuốt ve, an ủi nó trước giờ phút chia ly. Một lúc sau, người lái trâu trở ra, chú chăn trâu nhà tôi đi cùng; anh giúp dắt con Bầu đi về nhà ông. Trâu không đi theo người lạ; người quen phải dắt, nó mới chịu đi. Con Bầu mệt nhọc nhấc từng bước chân, lững thững đi khỏi cái nơi nó từng gắn bó nhiều năm trời với gia đình tôi, từ cơ hàn đến đủ ăn đủ mặc.

Nghĩ đến trâu có thể khóc trước khi lìa đời, tôi đi theo con Bầu, quanh sau vườn, ra đường làng. Và, điều tôi không ngờ, trên đôi mắt con Bầu long lanh như có nước mắt khi đi qua chỗ cha tôi đang đứng; ông muốn tiễn nó ra đi. Tôi cũng không cầm được nước mắt. Bầu ơi, ngươi vĩnh viễn xa rồi. Tôi buồn bã trở vào. Ở đầu ngõ, cha tôi đang đứng đó, đôi mắt đỏ hoe. Ông  kéo vạt áo lên lau nước mắt. Tôi nghe ông thầm thì: “Hãy tha lỗi cho ta, nghe Bầu”.

“Lễ” đâm trâu!

Sau này, khi người ta tổ chức lễ hội đâm trâu, tôi không bao giờ dám đến. Thấy con trâu bị đâm máu đổ, tôi sợ sẽ nhớ đến con trâu Bầu nhà tôi.

SAU THỜI ÔNG TRỌNG, VIỆT NAM SẼ VỀ ĐÂU?

(Where to now for Vietnam after Trong?)

Nhiều sự kiện của năm qua hé lộ các xu hướng chính, lâu dài trong chính sách đối nội, đối ngoại của Việt Nam. Đất nước này sẽ ít còn song hành với Trung Quốc. Thập niên tới, có lẽ lần đầu tiên, VN không còn một lãnh đạo bảo thủ kể từ thời chấm dứt chiến tranh lạnh, nhưng các vị lãnh đạo sẽ tiếp tục đề cao mô hình nhà nước kiểu lê-ni-nít (toàn trị).

Dù tiếp xúc nhiều, đi lại nhiều với TQ, việc nhiễm Covid-19 ở VN thuộc một trong những nước có tỷ lệ thấp nhất thế giới. Kiềm chế dịch bệnh giúp kinh tế VN tăng trưởng chừng 2,9 % năm 2020, cao hơn tỷ lệ của TQ là 2,3%, trong lúc toàn cầu suy thoái, hầu hết các nền kinh tế khác đều co cụm.

Trong điều kiện đầu tư và giờ làm việc ít lại, tăng trưởng GDP chủ yếu nhờ tăng năng suất, phần nào phản ánh sự chuyển đổi kỹ thuật số có tốc độ chóng mặt ở VN. Chính quyền VN nhận ra chuyển đổi kỹ thuật số là chìa khóa đưa đến hiện đại hóa và công nghiệp hóa. Đại dịch biến khẩu hiệu này thành khẩn thiết.

Năm 2020, 13.000 doanh nghiệp mới tham gia vào 45.000 doanh nghiệp trong nền kinh tế kỹ thuật số nở rộ (budding) của VN. Theo một phân tích về 90 nền kinh tế, Việt Nam – cùng với Azerbaijan, Indonesia, Ấn Độ, và Iran – chỉ đứng sau Trung Quốc, trong nỗ lực thúc đẩy cách mạng kỹ thuật số.

Trong khi minh bạch và năng lực là yếu tố chính trong các biện pháp đối phó đại dịch Covid, các nhà lãnh đạo VN lại không muốn áp dụng chúng vào các mặt điều hành khác. Vì muốn duy trì một quốc gia toàn trị (lê-nin-nít), họ sợ sự minh bạch và e dè giới trí thức.

Khi giới chóp bu đang chọn lãnh đạo mới trong cuộc đua ở đại hội đảng lần thứ 13, thông tin về các tân lãnh đạo được liệt vào hàng “tối mật”. Ở đại hội, đảng CSVN từ khước việc đề cử anh hùng chống dịch, phó thủ tướng Vũ Đức Đam, vào bộ chính trị. Đại hội cũng miễn trừ giới hạn tuổi 65 lần thứ ba, đặc cách cho tổng bí thư bảo thủ Nguyễn Phú Trọng (77 tuổi) tiếp tục nhiệm kỳ thứ ba, vi phạm chính điều lệ đảng của họ.

Việc tái đắc cử của ông Trọng cho thấy thắng lợi của những người bảo thủ trong chế độ vào lúc này, nó cũng đánh dấu khởi đầu cho sự chấm hết thời đại cải cách của những người bảo thủ Việt Nam. Từ sự sụp đổ của các chế độ cộng sản Đông Âu năm 1989, chỉ ba năm sau tiến hành ĐỔI MỚI, tất cả tổng bí thư của đảng CSVN đều là những người bảo thủ. Lần này, ông Trọng đã thất bại trong việc đề cử người kế nhiệm do ông chọn lựa.

Người ông chọn, cựu thường vụ bảo thủ bộ chính trị Trần Quốc Vượng, xếp hạng sau những người khác, mặc cho ông Trọng ủng hộ mạnh mẽ. Chẳng có các nhà bảo thủ tốt hơn để ủng hộ, ông Trọng quay qua chọn lựa duy nhất – tiếp tục lãnh đạo, buộc đảng CSVN phải phá vỡ chính điều lệ của mình.

Việc tái cử của ông Trọng là một phần của sự thỏa thuận lớn hơn. Các chức vụ lãnh đạo quốc gia – chủ tịch nước, thủ tướng, chủ tịch quốc hội – giao cho Nguyễn Xuân Phúc, Phạm Minh Chính, và Vương Đình Huệ, là những người thực dụng (pragmatists) hơn là những người giáo điều (doctrinaire). Sát “tứ trụ” - vị trí thứ năm trong đất nước độc đảng - là thường vụ bộ chính trị, ông Võ Văn Thưởng, một nhân vật trung dung, không bảo thủ cũng không cấp tiến.

Vì vậy, ông Trọng có thể ở phân nửa hay hết nhiệm kỳ, người kế nhiệm ông sẽ nằm trong bốn vị trí tứ trụ, những nhân vật không còn bảo thủ đầu tiên lãnh đạo đảng CSVN kể từ năm 1989.

Khuynh hướng bảo thủ của chế độ ở VN thường liên quan với việc bài xích khuynh hướng thân phương Tây. Nhưng việc hạ đặt giàn khoan HYSY-981 của TQ năm 2014 vào vùng kinh tế đặc quyền của VN – vượt quá lằn ranh đỏ của Hà Nội – là bước ngoặt trong chính sách ngoại giao của VN, đặt dấu chấm hết cho trào lưu chống phương Tây. Từ năm 2014, VN tách dần khỏi TQ, tiến gần đến Hoa Kỳ, tất nhiên là từ từ.

Đại dịch Covid đẩy mạnh xu hướng này, đồng thời cũng giãn rộng khoảng cách giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ. Trong lúc Bắc Kinh lợi dụng tình hình rối reng để tiến dần vào vùng đặc quyền kinh tế của VN thì Hoa Kỳ đưa hàng không mẫu hạm thăm viếng nước này. Qua lời thứ trưởng quốc phòng Nguyễn Chí Vịnh, Hà Nội nhận thấy “ai là bạn thân và ai chỉ là đối tác”.

Tháng 4 năm 2020, VN tham dự các cuộc nói chuyện với nhóm Bộ Tứ do Hoa Kỳ dẫn đầu, bao gồm các nước thân cận ở Ấn Độ Thái Bình Dương, để thảo luận việc tái sắp xếp chuỗi cung ứng ra khỏi lãnh thổ TQ, ngăn ngừa việc quá phụ thuộc vào thị trường này. Trong thời đại dịch, các đặc phái viên cấp cao TQ đi thăm các thành viên ASEAN, không có VN. Mục đích của các chuyến đi đó là ngăn chặn một liên minh chống TQ, lôi kéo họ vào vòng ảnh hưởng của Bắc Kinh. VN chắc bị coi là nước chẳng cần , hoặc bị trừng phạt vì can dự vào Bộ Tứ.

VN là một trong ba nền kinh tế duy nhất không sử dụng mạng 5G của Huawei – hai nước kia là Nhật Bản và Đài Loan. Việt Nam cũng tránh xa “Một vành đai, một con đường” của TQ mặc dù vẫn đãi đưa với sáng kiến này.

Việt Nam đang nổi lên như là một trở ngại cho Trung Quốc bởi một nền kinh tế hóa kỹ thuật số và hàng ngũ lãnh đạo thực dụng bám cứng sự cai trị của đảng CSVN.

Tổng bí thư đảng CSVN.

Bài của Alexander L Vuving, Giáo sự dạy tại Trung tâm nghiên cứu an ninh Châu Á Thái Bình Dương Daniel K Inouye. Bài đăng trên East Asia Forum, 27 February 2021. Nguyễn Long Chiến dịch.

VIỆT NAM HẲN BẰNG LÒNG NHIỀU VỚI CHÍNH QUYỀN BIDEN.

(Vietnam Must Be Pleased With the Biden Administration… For the Most Part)

Sau 4 năm củng cố quan hệ an ninh Việt-Mỹ dưới thời Trump, đương nhiên, khi Biden làm tổng thống, ít nhiều khiến cho Hà Nội bất an. Tuy nhiên, những dấu hiệu sớm của chính phủ Biden cực kỳ tích cực đối với VN. Có vẻ như đội ngũ Biden, cơ bản, dự tính duy trì chiến lược Ấn Độ -Thái Bình Dương của chính quyền Trump, mục đích giữ cho khu vực “tự do và cởi mở”, không bị TQ cưỡng ép, với giọng hòa hoãn hơn, nhưng lại chú trọng hơn việc đoàn kết đồng minh, các nước đối tác.

Như có lần tôi thảo luận, VN ủng hộ mạnh mẽ chiến lược Ấn Độ-Thái Bình Dương dù họ không công khai, nhằm tránh chọc giận TQ. Hà Nội đánh giá cao sự chú ý của Washington ở khu vực, đặc biệt về tranh chấp chủ quyền họ phải đối mặt với Bắc Kinh ở biển Nam Trung Hoa (Biển Đông).

Việt Nam hoan nghênh Hoa Kỳ ủng hộ tự do lưu thông hàng hải (FONOP) cũng như các tuyên bố chính thức. Chỉ một thời gian ngắn nắm quyền, Biden thực hiện ba lần cho tàu bè đi vào Biển Đông, sát Trường Sa (2 lần) và Hoàng Sa (1 lần). Hơn nữa, Ngoại trưởng Antony Blinken tái khẳng định sự thay đổi chính sách Biển Đông của người tiền nhiệm, Mike Pompeo, vào tháng 7 năm 2020, công nhận sự tồn tại và tính hợp pháp đối với các vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của các nước phản đối yêu sách “Đường lưỡi bò”, Trung Quốc cho là quyền lãnh thổ lịch sử, trái với luật pháp và chuẩn mực hành vi quốc tế.

Hơn nữa, chính quyền Biden rõ ràng quyết tâm tiếp tục cạnh tranh tư thế nước lớn với TQ từ thời chính quyền Trump. Đây là điều tốt cho Hà Nội, bởi Washington đang thể hiện quyết tâm lâu dài, ngăn chặn tham vọng của TQ. Trong diễn văn quan trọng về đối ngoại đọc tại bộ ngoại giao hôm ngày 4 tháng hai, tổng thống Biden cho rằng TQ là “đối thủ thực sự”.

Vài ngày sau, trả lời phỏng vấn đài CBS, chương trình “Thách thức quốc gia”, ông mô tả một tình trạng “cạnh tranh cực lực” (“extreme competition”) với TQ. Toàn thể chính quyền Biden một lòng một dạ (in lockstep) với chính sách về TQ. Một ví dụ, TQ trở thành mối đe dọa “song hành” đối với Ngũ Giác Đài, mọi thành viên trong Hội đồng an ninh quốc gia – phụ trách công nghệ, y tế, khí hậu  các thứ - đều chú tâm sát sao dấu hiện trỗi dậy của TQ đối với an ninh quốc gia.

Cuối cùng, Hà Nội hớn hở (hang its hat) về quyết định mới đây của chính quyền Biden, đích thân nêu VN là đối tác quan trọng ở Ấn Độ- Thái Bình Dương. Trong bản hướng dẫn tạm thời chiến lược an ninh quốc gia, công bố hôm ngày 3 tháng 3, ban tham mưu của Biden nêu rõ: “Chúng tôi sẽ…cùng làm việc với New Zealand, Singapore và Việt Nam, cùng với các nước ASEAN khác, để thúc đẩy những mục tiêu chung”

Cũng chẳng lấy làm ngạc nhiên việc VN đón nhận sự gợi ý rõ ràng và tích cực ấy. Trong một sự kiện mới đây ở đại học Virginia, đại sứ Mỹ Daniel Kritenbrink tuyên bố: “Tôi cho rằng, quan tâm và tầm nhìn của chúng ta tương hợp nhau về một khu vực và thế giới chúng ta muốn sinh tồn”.

Nhưng rõ ràng, có nhiều lo âu khi VN chứng kiến việc chuyển giao quyền hành qua Biden. Thứ nhăt, như có lần tôi thảo luận, chính quyền Biden có dấu hiệu đặt trọng tâm chia sẻ không những các lợi ích quốc gia mà còn chia sẻ các giá trị như dân chủ, tự do, và nhân quyền. Đối với Hà Nội, đây là mối lo hệ lụy các hậu quả tiềm tàng, là Washington can thiệp lớn tiếng hơn về ba vấn đề này - vấn đề hết sức nhạy cảm đối với các lãnh đạo CSVN.

Hơn nữa, có thể Hà Nội còn lo âu về việc, liệu chính quyền Biden có thực sự hành động chống lại VN do cáo buộc lũng đoạn tiền tệ thời Trump, cũng như trừng phạt VN vì mua vũ khí quân sự Nga, chiếu theo đạo luật trừng phạt của Hoa Kỳ đối với các nước thù nghịch.

Lần khác, trong lần nói chuyện với một người VN mới đây, tôi thấy còn có nhiều mối quan tâm nữa.

Một là, Hà Nội cố thu xếp thời gian thuận tiện để tổng bí thư đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng thăm viếng Nhà Trắng, hội kiến với tổng thống Biden. Lần cuối cùng, lần duy nhất, xảy ra vào tháng giêng năm 2015, cũng có một cuộc gặp thượng đỉnh dự trù nhưng bị trôi qua, một bước lùi của Hà Nội.

Hai là, sau cuộc gặp Bốn Nước (quad) cấp bộ trưởng, thông báo của Washington không nhắc đến vấn đề Biển Đông, đây là dấu hiệu gây quan ngại cho Hà Nội. Tuy nhiên, quan ngại này cũng vơi đi qua thông cáo của chính quyền Biden sau cuộc gặp Bốn Nước hôm 12 tháng 3: “Chúng tôi sẽ tiếp tục đặt lên hàng ưu tiên vai trò thực thi trật tự luật pháp quốc tế trong lĩnh vực hàng hải, phản ánh đặc biệt qua UNCLOS (Luật của LHQ về công ước luật biển), đẩy mạnh hợp tác, kể cả an ninh biển , để đối phó với những thách thức quy tắc hàng hải dựa trên luật pháp ở biển Hoa Đông, biển Đông.

Sau hết, người bạn VN của tôi nêu lên quan ngại về cuộc gặp các quan chức Mỹ-Trung sắp diễn ra ở Anchorage, Alaska, ngày 18 tháng 3, có khả năng “định hình” lại quan hệ Mỹ-Trung, chừng mực nào đó, có thể ảnh hưởng quan hệ Mỹ-Việt.

Tuy nhiên, tất cả những thách thức ấy, có thể giải quyết, trong điều kiện khi gắn kết song phương trở nên động lực. Tiến về phía trước, chính quyền Biden tìm cách giảm nhẹ các quan ngại vừa nêu ở phia VN, nhằm củng cố hơn nữa sự ủng hộ của Hà Nội đối với chiến lược Ấn Độ-Thái Bình Dương của Hoa Kỳ.

Chính quyền Biden sẵn sàng với một khởi đầu mạnh mẽ nhưng còn phải làm nhiều hơn, chẳng hạn như mời tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng thăm tòa Bạch Ốc. Về phần mình, VN cần có thái độ cởi mở hơn về chính quyền mới, sẵn sàng đón nhận những thay đổi có thể được về cách tiếp cận của Washington trong bốn năm sắp tới.

Bài của  Derek Grossman, giáo sư trợ giảng tại đại học Nam California đăng trên THE DIPLOMAT ngày 13 tháng 3 năm 2021. Nguyễn Long Chiến dịch.

Ảnh: Tổng thống Donald Trump và thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc được các cháu thiếu nhi đón chào tại tòa nhà chính phủ ngày 27 tháng hai năm 2019.

TỰ DO, CHẲNG AI CHO KHÔNG

Freedom is not free. Ở đây là tự do biểu đạt, bằng cách xuống đường chống lại cuộc đảo chính của phe quân sự tại Miến Điện. Tự do ấy trả bằng máu của 54 người bị bắn chết từ khi cuộc biểu tình bắt đầu (có 1 ngày đẫm máu: 38).

Các thành phần tiêu biểu xã hội Miến đều tham gia xuống đường như tu sĩ, bác sĩ, và thầy giáo, học sinh, sinh viên, bên cạnh các thành phần lao động khác. Không rõ cuộc khủng hoảng đẫm máu khi nào chấm dứt và các tiếng nói quốc tế lên tiếng mạnh mẽ sẽ đi tới đâu.

Ngay cả đức giáo hoàng cũng lo ngại: “Từ Miến Điện, các tin tức đau buồn về các đụng độ đổ máu, cướp đi mạng sống đến với chúng ta. Tôi kêu gọi nhà đương cuộc hãy đối thoại hơn là đàn áp, tôi cũng kêu gọi cộng đồng quốc tế, hãy bảo đảm nguyện vọng nhân dân Miến Điện không bị bóp nghẹt”.

Lý do của cuộc đảo chánh được phe quân đội đưa ra, là chính quyền dân cử do bà Suu Kyi dẫn đầu đã gian lận bầu cử. Cáo buộc này làm chúng ta nhớ tới nước Mỹ năm qua. Donald Trump lên án phe Dân chủ đã “đánh cắp” cuộc bầu cử khiến ông thua phiếu.

Nhiều người hâm mộ Việt Nam còn hiến kế, tại sao Trump không tuyên bố thiết quân lực, xóa bỏ kết quả bầu cử, để bầu lại. Kế sách ấy ở Miến Điện trở thành sự thực và sự thực ấy trả giá bằng máu và sự bất ổn chính trị tại một đất nước mới thai nghén dân chủ chừng mười năm nay.

Trump của Mỹ không thể chơi kiểu “giang hồ” như tướng thủ lĩnh đảo chính của Miến. Hàng mấy trăm năm dân chủ của nước Mỹ có nền tảng vững như sắt như đồng, làm sao dân chủ hơn 10 năm của Miến Điện có thể bì kịp.

Hội đồng bảo an liên hiệp quốc không thể ra nghị quyết lên án đảo chánh bất hợp pháp của phe quân đội Miến vì hai bác kỳ đà cản mũi; Nga và Trung Quốc không chịu giơ tay. Bắt nhốt chính quyền do nhân dân bầu ra là chuyện “nội bộ” của nước Miến! Ngưu tầm ngưu mã tầm mã. Trước đảo chánh thời gian ngắn, lãnh tụ phe quân đội hội kiến thiên triều. Thế giới cấm vận các tướng lĩnh đảo chính, có gì phải sợ. Tập có cả đống tiền. Mỹ còn phải vay của y.

Vị tướng sắp về hưu tháng sáu tới muốn làm tổng thống. Cuộc đảo chánh với lý do, phe quân đội tuyên bố bầu cử gian lận, họ thất bại nặng nề trong cuộc bầu cử mới đây, không khác gì nước Mỹ; kẻ thua phiếu thì bô lô bị gian lận trước người thắng phiếu. Nhưng hai nước khác nhau. Kẻ ham mê danh vọng sống trong nước dân chủ không thể giống kẻ ham mê quyền lực trong nước độc tài: không thể muốn là được. Vouloir, c’est pouvoir.

Nước nào có kẻ ham mê quyền lực, bằng mọi cách bá đạo, cố cầm quyền, thì nước đó khó mà dân chủ. Và dân chủ muốn có phải trả bằng máu, nhưng đau đớn thay, máu những người vô tội đổ xuống, kẻ ham mê quyền lực thì như câm như điếc.

Người dân Miến Điện thật đáng ngưỡng mộ.

Vài hình ảnh về Myanmar:

TƯ LỆNH MỸ Ở THÁI BÌNH DƯƠNG: TRUNG QUỐC XÂY DỰNG QUÂN ĐỘI KHIÊU KHÍCH, HUNG HĂNG.

Một tư lệnh Mỹ cảnh báo với quốc hội: Trung Quốc đang trang bị một quân đội ngày càng khiêu khích, mở rộng ảnh hưởng khu vực khi Bắc Kinh đẩy mạnh nỗ lực thay thế sức mạnh quân đội Hoa Kỳ tại châu Á.

Chỉ huy trưởng phụ trách Ấn Độ - Thái Bình Dương, đô đốc Philip Davidson phát biểu trong buổi điều trần tại quốc hội: “Cả cuộc đời binh nghiệp, tôi không thể hiểu những khả năng họ sắp đặt ở khu vực trừ phi đó là một động thái khiêu khích. Tôi nhận thấy TQ đang phát triển các hệ thống, tiềm lực, và một tư thế cho thấy họ chú trọng đến tấn công.

Trong buổi điều trần, yêu cầu chi phí phòng thủ hàng tỷ đô la vũ khí ở Thái Bình Dương, Philip cho biết, gia tăng đầu tư là cần thiết để ngăn chặn tham vọng quân sự của TQ trong khu vực.

Mô tả TQ là “mối đe dọa chiến lược lâu dài  đối với an ninh trong thế kỷ thứ 21” Davidson phát biểu, Bắc Kinh từ lâu thực hiện những bước đi ngày càng gây đe dọa, khi nêu ra hoạt động quân sự quanh Đài Loan, cộng với biên giới tranh chấp với Ấn Độ, thậm chí quanh các hòn đảo của Hoa Kỳ tại Thái Bình Dương.

Ông nói: “Tôi lo lắng họ đang đẩy mạnh cuồng vọng…chiếm chỗ Mỹ, thay thế vai trò dẫn dắt của chúng ta trong một trật tự quốc tế dựa trên luật pháp, điều mà họ nói sẽ muốn như thế vào năm 2050.

Trung Quốc thì bai bải nói quân đội của họ cốt để tự vệ.

Sách trắng của TQ năm 2019: “Phát triển mục tiêu quân sự quốc gia nhằm đáp ứng yêu cầu an ninh chính đáng, đóng góp vào sự lớn mạnh của lực lượng hòa bình thế giới. Trung Quốc không bao giờ đe dọa bất cứ nước nào hoặc tìm cách gây bất cứ ảnh hưởng nào”.

Đề cập Đài Loan, một đảo quốc tự trị dân chủ mà TQ luôn tuyên bố là lãnh thổ của họ, Davidson cho biết Bắc Kinh có thể tính tới chuyện khống chế nước này trong một tương lai không xa. Cho rằng đe dọa ấy gia tăng khi khả năng Mỹ ngăn chặn hành động TQ đang xói mòn, ông nói: “Tôi cho rằng đe dọa ấy hiển hiện trong thập kỷ này, thật sự có thể là 6 năm tới”.

Khi được hỏi, liệu có cần thiết để Hoa Kỳ bảo vệ Đài Loan, Davidson đáp, nếu không hành động, vị thế quốc tế của Hoa Kỳ sẽ bị hủy hoại và uy tín một đồng minh sẽ bị tổn hại.

Lục địa Trung Hoa và Đài Loan thuộc hai chế độ riêng biệt kể từ khi cuộc nội chiến đẫm máu chấm dứt 1949; nhưng Bắc Kinh thề không bao giờ cho phép đảo quốc này chính thức độc lập, họ cũng chối bỏ việc loại trừ sử dụng quân sự khi thấy cần thiết.

Bộ trưởng quốc phòng TQ Thường Vạn Toàn tuyên bố: “Đài Loan là phần không thể tách rời của TQ. Quân đội nhân dân TQ sẽ sử dụng mọi biện pháp cần thiết, kiên quyết đánh bại bất cứ âm mưu của những kẻ chủ trương ly khai, đòi Đài Loan độc lập, và bảo vệ vững vàng chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ”.

Đưa ra vấn đề Đài Loan và tranh chấp lãnh thổ với các nước láng giềng, Thường Vạn Toàn, theo truyền thông nhà nước hôm chúa nhật, binh vực việc TQ gia tăng chi phí quân sự 2021 lên 6,8% khi nói “thế giới không còn an ninh, quốc phòng của chúng ta phải mạnh”.

ĐẢO GUAM, NAY LÀ TẦM NGẮM

Trong lúc quân đội TQ từ lâu đẩy mạnh sự hiện diện của họ gần bờ biển, những chỗ như Đài Loan hay Biển Đông, Davidson tiết lộ, họ đang tăng cường hoạt động chung quanh các lãnh thổ, lãnh hải của Hoa Kỳ ở Thái Bình Dương.

Ông nói: “Chúng tôi thấy hải quân TQ bố trí các nhóm đặc vụ và tàu ngầm đi vòng đảo Guam và đảo Commonwealth thuộc bắc Mariana”.

Ông còn đưa ra một video tuyên truyền của TQ vẽ lên cảnh: máy bay ném bom xuống căn cứ không quân Andersen trên đảo Guam, và lực lượng tên lửa đạn đạo hùng mạnh của Bắc Kinh, bắn tới đảo Micronesia (Mỹ) từ đất liền TQ.

Davidson cho biết, hòn đảo cư trú của 170.000 cư dân Mỹ: “Guam, nay là tầm ngắm. Guam cần được bảo vệ. Bảo vệ họ là bảo vệ đất nước”.

Để đạt mục tiêu, viên đô đốc nói quốc hội cần cấp kinh phí lắp giàn tên lửa bảo vệ Aegis Ashore giá 1,6 tỷ đô la cho Guam. Đảo hiện đang trang bị hệ thống tên lửa đánh chặn tầm cao THAAD, nhưng Davidson cho rằng, chúng không hoạt động đủ 360 độ, một đòi hỏi phải có, để đáp trả đe dọa từ các chiến hạm trang bị tên lửa, tàu ngầm, và máy bay của TQ.

LIÊN MINH DÂN CHỦ KIM CƯƠNG

Kế hoạch tên lửa Aegis, một phần của Sáng kiến ngăn chặn ở Ấn Độ-Thái Bình Dương của Lầu Năm Góc, nằm trong kế hoạch 5 năm 27 tỷ đô la để nâng cấp lực lượng Mỹ tại khu vực.

Bên cạnh hệ thống tên lửa Aegis, Ngũ Giác Đài còn yêu cầu nào là giàn ra đa phòng thủ thế hệ mới cho Hawaii; thêm thiết bị tình báo và do thám; thêm đạn dược; thêm quân số hải quân, không quân, thủy quân lục chiến vào khu vực; và tăng cường huấn luyện, tập trận với các nước đồng minh và đối tác.

Các nước đối tác đó bao gồm các thành viên bốn nước Bộ Tứ (Quad), còn gọi Đối thoại an ninh bộ tứ, một diễn đàn chiến lược của Hoa Kỳ, Nhật Bản, Ấn Độ và Úc. Hôm thứ ba, Davidson nhắc đến sự kết hợp  ấy là “Kim cương của nền dân chủ” ở vùng Ấn Độ - Thái Bình Dương.

Thứ sáu tới, bốn vị lãnh đạo bốn nước sẽ gặp nhau trực tuyến, ở cấp cao nhất cho tới nay, khi sự tập họp còn chưa chính thức.

Davidson hi vọng tổ chức này sẽ “xây đắp một cái gì đó to tát hơn. Không chỉ về an ninh, mà về cách thức chúng ta tiếp cận…nền kinh tế toàn cầu, công nghệ, quan trọng như viễn thông và 5 G, hợp tác duy trì trật tự quốc tế, có nhiều việc phải làm, ngoại giao và kinh tế”.

Lời giải trình của một tư lệnh Mỹ xuất hiện ngay lúc lãnh tụ TQ Tập Cập Bình kêu gọi lực lượng vũ trang “tập trung sẵn sàng chiến đấu” khi đề ra mục tiêu quân sự cho 5 năm tới, theo tường thuật của Tân Hoa Xã.

Hãng này đưa tiếp tin: “Vạch rõ ‘nhiều bất ổn’ và nhiều bất định’ trong những tình huống an ninh hiện nay của TQ, lãnh tụ Tập tuyên bố, toàn quân phải luôn luôn sẵn sàng đáp trả mọi tình huống khó khăn, phúc tạp, kiên quyết bảo vệ chủ quyền đất nước, an ninh quốc gia, và những thành tựu phát triển, ủng hộ hoàn toàn mạnh mẽ cho công cuộc xây dựng tổ quốc hiện đại XHCN”.

Brad Lendon, báo CNN, ngày 11 tháng 3 năm 2021. Nguyễn Long Chiến dịch.

Đô đốc tư lệnh Ấn Độ- Thái Bình Dương Davidson.

MỸ CHUẨN BỊ CHIẾN TRANH VỚI TÀU NHƯ THẾ NÀO

(How the US military is preparing for a war with China)

“Các mục tiêu ‘ngon ăn’ bao gồm các đảo nhân tạo ở Biển Đông”

Tờ The Longer Telegram của NATO đưa ra một kế hoạch toàn diện với một chiến lược mà Hoa Kỳ theo đuổi để đối phó với Trung Quốc, gồm một số điểm mấu chốt trong việc bố trí lực lượng Mỹ ở vùng Đông Á.

Liệu chính quyền mới của Biden có hoàn toàn chấp nhận lập trường tích cực của báo cáo hay không vẫn còn phải trông chờ, nhưng các yếu tố ấy đang được xem xét nghiêm túc. Chắc chắn, đội ngũ mới ở Ủy ban an ninh quốc gia, do Kurt Campbell đầy uy tín dẫn dắt, cộng với các chuyên gia lão luyện về châu Á, sẽ xem xét rất nhiều lựa chọn cho một cấu trúc quân sự đảm nhận một vị thế chiến lược toàn diện.

Trong các yếu tố chính để cấu trúc quân sự là một loạt “các lằn ranh đỏ”, Hoa Kỳ sẽ đáp trả bằng quân sự.

Đó là: “Hành động chống lại Hoa Kỳ, đồng minh Hoa Kỳ, bằng vũ khí hạt nhân, hóa học, sinh học từ Trung Quốc hay Bắc Triều Tiên; bất kỳ cuộc tấn công quân sự nào của TQ chống lại Đài Loan hoặc đảo ngoài khơi của họ, kể cả phong tỏa kinh tế hoặc tấn công mạng vào tổ chức, cơ sở hạ tầng công cộng của Đài Loan; bất kỳ cuộc tấn công nào của TQ vào lực lượng Nhật Bản khi họ thực hiện quyền bảo vệ chủ quyền nước Nhật đối với quần đảo Senkaku, TQ gọi là Điếu Ngư Đài, cũng như vùng đặc quyền kinh tế vùng Biển Hoa Đông; bất kỳ hành động thù nghịch nào của Trung Quốc chiếm thêm và quân sự hóa các đảo ở biển Đông, có mục đích triển khai sức mạnh quân sự chống lại các nước cùng tuyên bố chủ quyền, hoặc ngăn cản tự do lưu thông hàng hải của Hoa Kỳ và lực lượng đồng minh; và bất kỳ cuộc tấn công nào của TQ chống lại lãnh thổ cũng như công trình quân sự của các đồng minh có ký kết với Hoa Kỳ”.

Tại tổng hành dinh Mỹ ở Ấn Độ - Thái Bình Dương, các đội ngũ điều hành chiến lược, chiến thuật đang tập họp các biện pháp triển khai các lực lượng Hoa Kỳ. Các quyết định mới này sẽ được đệ trình lên Ngũ Giác Đài, một phần của công việc “tái duyệt tình huống” tổng thể đang được tân bộ trưởng quốc phòng Lloyd Austin tiếp nhận. Chuyện gì nổi lên?

Một chọn lựa là vai trò nâng cao của Thủy quân lục chiến Mỹ, nhìn lại vai trò lịch sử hoạt động rộng khắp, kể từ trước sự kiện 11/9, ở Thái Bình Dương, trở về  đệ nhị thế chiến. Dưới sự chỉ huy tài ba và năng động của tư lệnh Thủy quân lục chiến Dave Berger, đã không còn việc dàn quân quá lớn, trang bị xe bọc thép quá nhiều, và chiến thuật “đánh nhau mãi” trên đất liền như từng thấy ở Trung Đông.

Thay vào đó, trong bối cảnh của một chiến lược Hoa Kỳ đối phó Trung Quốc, Thủy quân lục chiến sẽ tuyệt đối dựa vào biển, dễ dàng xâm nhập Biển Đông, nằm sâu bên trong các dãy đảo mà Trung Quốc dựa vào đó để phòng thủ. Một khi lọt vào đó, họ sẽ sử dụng máy bay quân sự không người lái (drone), các thiết bị tấn công mạng, Marine Raiders – lực lượng đặc nhiệm tinh nhuệ - hỏa tiễn phòng không, và cả các vũ khí diệt hạm để tấn công lực lượng hải quân Trung Quốc, ngay cả trên đất liền nơi đặt căn cứ tác chiến. Lấy ví dụ, các đảo nhân tạo quân sự hóa của TQ sẽ là mục tiêu dễ tiêu diệt ở Biển Đông. Về bản chất, đây có thể ví như một cuộc chiến tranh “du kích” trên biển.

Ngoài biện pháp chiến thuật tác chiến của thủy quân lục chiến, hải quân Hoa Kỳ sẽ thực hiện nhiều cuộc tuần tra táo bạo hơn, đi qua những vùng biển ngoài khơi Trung Quốc. Một số người sẽ nói đây không khác chi một hành động quân sự “gãi ngứa”. Nhưng ý tưởng chiến lược thật rõ ràng: dần dần lôi kéo các tàu chiến đồng minh tự do tuần tra hàng hải đầy thách thức này. Làm như thế đồng nghĩa với quốc tế hóa việc đánh bạt tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông.

Đặc biệt là, Ngũ Giác Đài hi vọng sẽ lôi kéo các đồng minh NATO như Anh, Pháp vào nỗ lực đó. Thực sự, cuộc họp cấp bộ trưởng quốc phòng mới đây ở Bỉ có bàn bạc vai trò của Liên Minh khối NATO trong sự đối mặt khả năng quân sự đang nổi lên của Trung Quốc. Theo thời gian, Hoa Kỳ sẽ thuyết phục Úc, Tân Tây Lan, Ấn Độ, Nhật Bản, Nam Hàn, Singapore, và Việt Nam tham giao vào những sắp xếp như thế. Tư thế chiến lược hàng hải toàn diện của Hoa Kỳ buộc họ phải tạo ra sự hợp tác hàng hải quốc tế để đối mặt với những lực lượng ngày càng tinh nhuệ của Quân đội nhân dân Trung Quốc.

Ngoài các hoạt động hỗ trợ trên biển, không quân Mỹ có thể sẽ đưa các máy bay chiến đấu và oanh tạc cơ hoạt động tầm xa đến các căn cứ ở Thái Bình Dương nằm rải rác khắp châu Á, cả các vị trí xa xôi trên các đảo nhỏ. Các “nan hoa” như thế sẽ được hỗ trợ từ các căn cứ lớn hơn ở Guam, Nhật, Úc và Nam Hàn. Ý tưởng - gọi là Công tác chiến đấu linh hoạt - mang lại tính cơ động cao cho sức mạnh tập trung cả máy bay chiến đấu lẫn máy bay cường kích đang bố trí trong vùng.

Sau cùng, bộ binh Mỹ sẽ tăng cường sức chiến đấu, tính cơ động, triển khai các đơn vị tiên phong, bảo đảm các lằn đỏ tờ báo nêu ra, bao gồm các căn cứ nâng cấp tại Nam Hàn và Nhật Bản, có thể dễ dàng bố trí đến tận những hòn đảo nhỏ rải rác khắp khu vực.

Cùng lúc, cả bộ binh lẫn không quân đều có điều kiện bổ sung huấn luyện và tập trận thêm với quân đội Đài Loan. Đặt trọng tâm vào Lực lượng không gian Hoa Kỳ, chú tâm tình báo và do thám thực địa, phối hợp cùng cơ quan An ninh quốc gia.

Gom cả lại, có vẻ khá rõ ràng quân đội Mỹ đang tiến tới việc khẳng định sự hiện diện và khả năng tác chiến của mình ở Tây Thái Bình Dương, sẵn sàng đối phó xung đột với Trung Quốc trong nhiều thập niên tới.

Tờ The Longer Telegram cung cấp một chỉ dấu quan trọng cho các chọn lựa mà Ngũ Giác Đài và Tòa Bạch Ốc đang xem xét như là bộ phận của một chiến lược mới, đối diện với sự trỗi dậy của Trung Quốc. Hi vọng rằng, chính sách ngoại giao khéo léo và sự đan xen kinh tế của hai cường quốc sẽ loại trừ bùng nổ một cuộc chiến tranh – nhưng đối với các nhà hoạch định chiến lược Mỹ, đây là những tháng ngày tất bật.

James Stavridis Đô đốc hải quân, cựu chỉ huy trưởng tối cao, lực lượng liên minh NATO; hiệu trưởng trường Luật và Ngoại giao, viện đại học Tuft, Hoa Kỳ.

Bài đăng trên tờ Nikkei Ngày 7 tháng 3, 2021. Nguyễn Long Chiến dịch.

Ảnh:

1-Đường băng và các công trình xây dựng trên đảo bồi đắp trong quần đảo Trường Sa. Ảnh chụp tháng 4 năm 2017 của AP.