Wednesday, January 31, 2024

NỖI ĐAU NGƯỜI MẸ

Có bạn trẻ cho rằng, quan tâm nỗi đau của bà mẹ sắp mất con Hồ Duy Hải, thì có ai quan tâm nỗi đau mất con của hai bà mẹ cô gái bị sát hại ở Long An?

Câu hỏi tưởng đúng nhưng sai khi so sánh hai nỗi đau ấy, nếu tòa án không chứng minh thuyết phục Hồ Duy Hải cướp mạng sống hai người con của hai bà mẹ. Vụ án kéo dài 12 năm chưa kết thúc chứng tỏ kết luận của tòa sơ thẩm và chung thẩm chưa thuyết phục. Tòa tuyên án đúng người đúng tội thì Hồ Duy Hải đã ra người thiên cổ.

Tòa án nhân dân tối cao là cơ quan phán quyết pháp luật phải “tối cao”. Nhưng kết luận của tòa “có sai sót trong hoạt động điều tra nhưng không làm thay đổi bản chất vụ án”. Đây, hàm ý Hồ Duy Hải phải chết. Nếu làm toán, 2x2=4 là phép giải thông thường. Theo “logic” của ông tòa cao nhất, ta suy luận, điều tra sai (2x2 hay 2x3, không sao) miễn có kết quả đúng, bản chất không thay đổi (=4).

Điều tra sai chỗ nào? Đây, các nhà am hiểu luật đưa ra:

1-Vật chứng gây án (quan trọng nhất): dao, thớt, ghế inox không còn, lẽ đáng chúng phải được lưu trữ cẩn mật. Dao, thớt mua ngoài chợ về. Ghế không phải chiếc ghế hung thủ gây án.

2-Chậm giám định vết máu (nghi của hung thủ), không coi trọng dấu vân tay. Bốn tháng sau, máu mới giám định, không hiệu quả vì máu phân hủy. Dấu vân tay trên chiếc thớt gây án không thấy lưu giữ, hay bỏ sót không lưu giữ. Và, dấu vân tay nghi của hung thủ không trùng gớp dấu vân tay của Hải.

3-Biên bản hỏi cung bị sửa đổi không có xác nhận của người khai.

4-Biên bản nhận dạng hung thủ lại không có chứng kiến của người nhận dạng tại tòa.

5- Một nghi can tên Nghị, báo chí lúc ấy đặt nghi vấn, lại không được đối chiếu vân tay. Anh ta là người đã yêu và ghen, một trong 2 cô gái bị giết. Anh ta bỏ đi một ngày đêm khi biết người từng yêu bị giết chết. Hồ sơ về anh ta được loại khỏi vụ án.

Vụ án cực kỳ nghiêm trọng vì có 2 người bị giết, tại sao điều tra lại “sai sót”? Vụ án sai sót khâu điều tra, tại sao không “xóa đi”, điều tra lại ngay lúc ban đầu, để kéo dài đến 12 năm, gây tổn hao tinh thần, vật chất của những người liên quan lẫn những người dân quan tâm vụ án?

Đến đây, chúng ta có thể kết luận kẻ thủ ác có đúng là Hồ Duy Hải hay là một người khác? Nếu chưa đúng kẻ thủ ác thì nỗi đau của bà mẹ 12 năm đi tìm công lý, không thể đặt cạnh câu hỏi “Mẹ Hải đau đớn mất con, mẹ của hai cô gái bị giết thì sao?”. Nỗi đau giống nhau (mẹ mất hay sắp mất con) nhưng nguyên do gây ra nỗi đau ấy không giống nhau. Hải chưa được chứng minh là kẻ phải đền tội đích đáng, để làm vơi đi nỗi đau của hai bà mẹ bằng một công lý sáng tỏ.

Nếu là những người trẻ yêu mến sự thật, chỗ dựa của gia đình, hy vọng của của quốc gia, họ phải luôn luôn tỉnh thức, luôn luôn nhận xét, đâu đúng, đâu sai, bằng lương tri của mình, không để người lợi dụng đống thông tin trên mạng, khuynh loát, chi phối nhận thức của mình.  Không thể hễ nghe “đài”, “báo” lề phải, lề trái "phán" thì tất cả đều đúng. Hãy dùng trí huệ cá nhân làm hành trang cho mình trong cuộc sống.

Khi có trí huệ, người trẻ sẽ không dễ gì tin Trịnh Xuân Thanh trốn tuốt ở đâu bên Đức, xuất hiện lên truyền hình Hà Nội, rồi “tự thú”, mà không lý luận để tìm hiểu, ông ta về Việt Nam nhờ Tề Thiên Đại Thánh hay đằng vân giá võ?

Nhà Phật: “Muốn thương yêu   phải hiểu biết”, rất đúng trong trường hợp thương yêu hai bà mẹ của người bị giết, cũng như bà mẹ của một người có con sắp bị giết. Hiểu thấu cội nguồn nỗi đau của các bà mẹ, chúng ta sẽ thương yêu họ hơn.

MUỐN THƯƠNG YÊU PHẢI HIỂU BIẾT

(Bài cuối nói về vụ án Hồ Duy Hải)

Cũng vô lý, thương yêu đến từ trái tim, có đến từ khối óc đâu, tại sao muốn thương yêu phải hiểu biết. Một đứa bé bỗng dưng khóc quấy, dỗ dành nhiều lần vẫn không nín, người chị 10 tuổi đang ẵm phết thêm mấy phát vào mông, đứa bé càng khóc dữ. Người mẹ thấy thế bèn bế con lên, sờ vào trán, em bé đang khóc vì sốt, không phải đang khóc vì quấy. Khi hiểu nguyên do, mẹ chườm đá cho con, dù chưa hết sốt, đứa bé không khóc nữa.

Có báo lên án mẹ tử tù Hồ Duy Hải quá mù quáng đeo đuổi kêu oan cho một kẻ giết người. Họ chưa hiểu trọn nỗi đau của một mẹ có người con sắp thành tử tù. Họ cũng không hiểu người tử tù kia có thể bị hàm oan. Nếu họ hiểu chứng cứ buộc tội Hồ Duy Hải không phải là con dao, cái thớt mua ngoài chợ, mà căn cứ vào lời “nhận tội” của anh ta. Nếu họ hiểu nhiều tù nhân được trả tự do vì án oan, hàng chục năm bị giam giữ, có tang chứng, vật chứng gây án hẳn hoi, cũng thú tội thành khẩn, họ sẽ thương bà mẹ kia đằng đẵng bao nhiêu năm đi tìm công lý, nhà cửa không còn. Không bà mẹ nào tàn nhẫn đến độ lấp liếm sự thật con mình giết con người mẹ khác, coi nỗi đau sắp mất con lớn hơn nỗi đau hai người mẹ đã mất con, để phải bỏ ra 12 năm trời đi khắp nơi kêu cứu, van lơn, cầu khẩn.

Nhiều người muốn kẻ giết người dã man kia phải đáng tội tử hình. Nhưng nếu họ hiểu vụ án không có gì oan khuất thì Hồ Duy Hải đã đền tội 12 năm trước, quốc hội không lên tiếng, viện kiểm sát nhân dân tối cao - một nơi hiểu biết pháp luật nhất - không kháng nghị bản án chung thẩm tội giết người, chưa kể không biết bao nhiêu bài báo, bao nhiêu dư luận, nói lên bản án chưa thuyết phục, chưa đúng người đúng tội.

Nếu người ta hiểu ra động cơ giết người của Hồ Duy Hải: vì tình, vì tiền, hay cả hai? Nếu vì tình thì Hải được loại trừ, mà phải là Nguyễn V. Ngh. người yêu cũ của H., nạn nhân bị giết trước ở bưu điện, nghi can có tiền sử nghiện ma túy đầu tiên bị bắt giữ, anh ta khai có đến bưu điện đêm đó, không vào, rồi ra về. Trong chỗ kín của cô gái, khi khám nghiệm tử thi, người ta thấy có dịch nhầy; tại sao không xét nghiệm dịch nhầy, xem có đúng là tinh trùng không? Nếu đúng có tinh trùng thì việc bắt hung thủ chỉ trong một nốt nhạc, bởi các nghi can đều được cơ quan điều tra hỏi đến.

Các vật để lại gồm tóc, dấu máu, dấu vân tay trên thân thể nạn nhân, khi chống cự lại kẻ ra tay tấn công sát hại, có được đối chiếu để tìm ADN, với Hồ Duy Hải (dấu vân tay không trùng khớp), với Nguyễn V. Ngh. hay không? Nếu chỉ căn cứ vào “lời nhận tội” thì người hiểu sự việc sẽ cảm thông cho tử tù, có thể anh ta vì áp lực hay sợ hãi nào đó, rồi khai báo lung tung, bất nhất?

Động cơ giết người vì một số cạc điện thoại, một ít vòng vàng? Một sinh viên tay yếu chân mềm (theo hình ở tòa),mới ra trường như Hải có dám đến một “cơ quan nhà nước” như bưu điện gần một chốt dân phòng, lúc 20 giờ 30 để ra tay giết một lúc tới hai người? Nhiều người am hiểu tại chỗ không thấy Hải là khách quen thân với hai cô gái bằng nghi phạm Ngh., người thường hay ngủ lại đêm, hay Misol, bồ mới của H.

Hải bị bắt 2 tháng sau đó nhận tội; có thể vì thua tiền cá độ nên giết người? Ai thua tiền cá độ cũng có thể giết người hay sao? Dịch nhầy có trong âm đạo nạn nhân chứng tỏ anh ta tấn công tình dục không được nên ra tay sát hại? Có người phụ nữ nào sắp bị mất mạng lại hưng phấn tiết ra dịch nhờn? Chỉ có dịch nhờn, trường hợp trước khi bị giết, nạn nhân bị hiếp, nhưng vụ án không nghiêng về hướng này. Giết người có thể xảy ra sau khi nạn nhân "bị ép" giao hợp; sau đó, có thể vì quá ghen H. với người yêu mới, Ngh. nảy sinh mâu thuẫn, dẫn đến hung thủ dùng dao (có sẵn đâu đó) kết liễu cô gái vì không kìm chế, lúc V., bạn nạn nhân, ra khỏi nhà mua trái cây. Hải không thể liều lĩnh hiếp dâm cô gái khi biết sắp có người về. Vì lỡ giết H, hung thủ buộc phải giết luôn V. để bịt miệng. Việc giết người xảy ra bất chợt, không chuẩn bị trước, con dao gây án mới bị bỏ lại. Kẻ giết người không chuyên nghiệp, không chuẩn bị sẵn hung khí, khi trốn đi, y rửa sạch và cất lại con dao oan nghiệt sau tấm bảng gần chỗ nằm nạn nhân. Nếu Hải rắp tâm giết đến 2 người, để cướp của, anh ta phải một sát thủ máu lạnh, chuyên nghiệp, tại sao không mang dao ấy đi để phi tang?

Chiếc thớt dính máu đập đầu người đi mua trái cây, có trong tấm hình chụp, biến đi đâu mất, đến nổi phải mua cái thớt ngoài chợ, nói là để Hải nhận dạng. Nếu đúng nhận dạng vật gây án, người ta phải mua ba cái thớt cho Hải dễ so sánh, xem cái nào giống cái thớt gây án. Nhưng cái thớt gây án bị tiêu hủy thì mua thớt về để so sánh làm gì?

Khi hiểu được những chứng cứ không thuyết phục trong vụ án chấn động cả nước, người ta sẽ thương bà mẹ kia hơn, thương một người ròng rã 12 năm trời đi tìm công lý cho con. Họ sẽ không lên án bà thương con một cách mù quáng. Tình thương mẹ dành cho con, ra sức đi tìm công lý, tại sao lại mù quáng?

Số phận của Hồ Duy Hải không biết sẽ thế nào trong tương lai. Cửa sống dành cho anh ta đang khép lại, rất hẹp, có thể là đóng chặt, vì tòa án nhân dân tối cao - một cơ quan phán quyết cao nhất - đã bác kháng nghị của viện kiểm sát nhân dân tối cao, nghĩa là y án tử hình.

Chúng ta sẽ không thương Hồ Duy Hải nếu hiểu rõ những chứng cứ buộc tội anh ta phù hợp pháp lý, tuyệt đối đúng 100%. Anh ta lẽ ra phải đền tội cách đây 12 năm kia. Hai cô gái bị giết oan khuất, gia đình của họ, hai bà mẹ đau khổ, sẽ mãn nguyện khi công lý tìm đến con họ, gia đình họ từ lâu.

Nhưng nếu chúng ta hiểu những chứng cứ buộc tội Hồ Duy Hải chưa thuyết phục, nghĩa là đúng pháp luật, không có “sai sót” trong khâu điều tra - điều tra rất quan trọng vì nó quyết định bản chất vụ án – thì chúng ta sẽ thương anh ta và bà mẹ từng đau đớn nhiều năm.

Pháp luật tiên tiến như ở Mỹ có một án lệ “thà bỏ lọt tội phạm còn hơn bắt tù hay giết oan một người vô tội”. Ở đây chúng ta chưa biết chắc Hồ Duy Hải có đúng là tội phạm (vì chứng cứ chưa vững) hay là người bị hàm oan?

“Muốn thương yêu phải hiểu biết” một câu nói rất hay của nhà Phật

NGƯỜI VỀ TỪ CÕI CHẾT

Câu chuyện đang là đề tài nóng, còn hơn câu chuyện về vụ án Hồ Duy Hải, hay câu chuyện về covid-19 đang chia rẽ nước Mỹ và thế giới với Trung Quốc.

Một ông bí thư xã nợ nần do làm ăn thua lỗ hơn 10 tỷ, mua một bảo hiểm khi chết sẽ lãnh 18 tỷ. Ban đầu ông ta đào mộ một người chết khoảng 7 ngày để xây dựng kịch bản tai nạn chết người, hòng lãnh tiền bảo hiểm trả nợ, nhưng mệt mỏi quá, bèn xoay qua chuyện tìm kiếm một xác chết khác, người cháu vợ. Sau khi ăn tối do anh này nấu trong rẫy khá xa nhà, nửa đêm thức dậy, ông ta lấy búa đập vào đầu người cháu 25 tuổi đang say giấc. Giết người xong, kẻ thủ ác bỏ xác lên xe, chạy ra đường lộ, dựng hiện trường giả, bằng chính chiếc xe của mình. Xăng, dầu mua sẵn được đổ lên xe, sau khi xác chết được đặt vào trước tay lái, đeo cả đồng hồ ông ta hay đeo. Xe cháy đen, xác chết gần như thành than. Xác cho là của ông bí thư được gia đình làm đám tang trọng thể. Hàng ngàn người trong xã đi viếng trong niềm tiếc thương, một người họ mô tả “rất hiền lành, đạo đức”. Kịch bản dàn dựng dày công nhưng không qua nổi cơ quan điều tra. Năm ngày sau khi “mồ yên mả đẹp”, ông ta bị bắt, và khai nhận toàn bộ tội ác.

Nếu không đọc báo, người ta nghĩ đây là một câu chuyện rùng rợn trong truyện trinh thám hay một cuốn phim bạo lực cực kỳ hấp dẫn: Người sống đi về từ cõi chết. Thời gian nữa, người sống ác độc kia sẽ “trở về cõi chết” nếu tòa không chiếu cố ông ta “có nhân thân tốt, đóng góp nhiều”.

Vì sao một người có nhân thân tốt, đóng góp nhiều, hiền lành, đức độ, bỗng trở thành tội phạm cực kỳ nguy hiểm? Trong lúc là chủ tịch, bí thư xã, người ta có thấy ông có hành vi nào “hơi ang ác” không? Chắc chắn là không. Chức vụ ông ta có được phải do đức và tài hoặc hồng và chuyên.

Tuesday, January 30, 2024

AI CŨNG GÙ

Vụ gian lận điểm ở Hòa Bình lại dấy lên dư luận, sôi nổi còn hơn lúc bị phanh phui năm ngoái.

Hình ảnh một số  "bị can" tổ chức gian lận bước ra khỏi tòa, có cảnh sát đi kèm, như một cuộc đón tiếp các cầu thủ đem lại chức vô địch đá banh. Gương mặt của họ hớn hở, hành động xấu xa coi như chẳng xi-nhê. Có gì mà lăn tăn.

Có cô giáo (bị can) còn nhận định: "Nâng điểm thi (gian lận điểm) không nguy hiểm cho xã hội". Một nhà giáo dục khác:  "Ai cũng gù, mình thẳng lưng là khuyết tật".

Bị can cười tươi khi ra khỏi tòa.

Chúng ta không thể căn cứ vào hình ảnh và "tuyên ngôn" của các ông bà ăn cắp lòng tin - bằng gian lận điểm - mà phán xét cả một nền giáo dục, hay một xã hội, đã xuống cấp đạo đức.

Tôi xin nói khía cạnh nhận thức của những người, vừa vi phạm pháp luật vừa vi phạm đạo đức, phản ánh một thực trạng: cái xấu là phổ thông, cái tốt là...cá biệt. Không như thế, những kẻ phạm tội trên lại bào chữa cho tội lỗi của mình, với thái độ chẳng có gì là cắn rứt lương tâm. Họ có là phần nổi của tảng băng chìm? Cơ chế tạo ra họ, hay họ làm hỏng cơ chế?

"Nhân chi sơ, tính bản thiện. Tính tương cận, tập tương viễn". Con người sinh ra tính bổn thiện, do thói quen, do ảnh hưởng xã hội, cái tính thiện càng xa dần bản chất? Jesus bên ky-tô- giáo: Chỉ những ai như con trẻ mới vào được nước Chúa. Ý ngài nói con người phải trong trắng như trẻ mới có thể lên thiên đàng. Vì chưa bị nhiễm thói tật xã hội, trẻ con lương thiện hơn. Xã hội nhiễu nhương, giáo dục sẽ làm phần việc của mình: ngoài việc nâng cao hiểu biết để sống, nó còn giúp con người trở lại bản chất trong trắng của trẻ thơ.

Chúng ta không bàn luận ý nghĩa của bức ảnh, các câu nói để đời, của các người "giáo dục" làm chuyện phi giáo dục. Chúng ta muốn biết con người cá nhân hay cấu trúc hình thành cá nhân làm xã hội tốt lên hay xấu đi?

Chính con người, thời thượng chính trị một chút, "nhân sự" quyết định xã hội, hay xã hội quyết định con người, ở đây là "nhân sự"? Cơ cấu điều hành xã hội tốt sẽ sản sinh ra nhân sự tốt hay ngược lại? Nói nôm na, thể chế quyết định nhân sự hay nhân sự quyết định thể chế? Tôi thường hiểu: thể chế cùng con người quyết định tương tác, nhưng thể chế là nền tảng, con người là xúc tác.

Dân chúng trước 1986, năm "đổi mới", đều khốn đốn vì đói, dù đất ruộng còn nhiều, dân khoảng 2/3 so với bây giờ. Vì sao hết đói? Khi giao ruộng cho dân, trả lại cái quyền sử dụng truyền đời của họ, tức theo quy luật tự nhiên, gạo không những đủ ăn mà còn xuất khẩu tha hồ. Thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong (thuận lẽ trời thì còn, trái lẽ trời thì mất). Thiên, tôi hiểu còn là lẽ trời, quy luật vũ trụ.

Người ta lo lắng chọn lựa "nhân sự" là điều dễ hiểu. "Thực nhân tài" mới "cứu nhân tai". Một thể chế mà tệ tham nhũng, hối lộ, cửa quyền, làm ít, xài to, xuống cấp nhiều mặt, cần phải có một "nhân sự" cấp cao cứu vãn tình thế, mong ước không chỉ của các vị ở Hà Nội, mong ước còn là của cả nước.

Nhưng nếu không thay đổi cách tuyển chọn "nhân sự" một cách triệt để,  mà chỉ "cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư", "học tập và làm theo" (không biết bao nhiêu năm), liệu trong tương lai, đất nước có vị nhân sự nào xuất hiện như một Lý Quang Diệu của Singapore? Những tiêu chuẩn nhân sự đưa ra rất cao, chú trọng nhiều vào đạo đức cá nhân, sự liêm khiết, lòng trung thành, những tiêu chuẩn khó mà đo đếm. Ông bà xưa: tri nhân, tri diện, bất tri tâm. Biết người, biết mặt, ai biết được tâm.

Theo tôi, muốn có "nhân sự" tài đức vẹn toàn, sự chọn lựa  phải ở hai phía: đảng và dân. Chỉ một bên chọn, nhân sự không thể như ý muốn mọi người.

Nhân sự đó sẽ giải quyết bài toán hóc búa, một "bị can" gian lận điểm tuyên bố như một tổng kết triết học: "Ai cũng gù, mình thẳng lưng là khuyết tật".

Câu nói bất chợt để biện bạch, bào chữa cho sai phạm thì có thể thông cảm. Nhưng nếu đó là một tổng kết rút ra từ thực tế, bài toán dành cho "nhân sự tối cao" tương lai chắc sẽ hết sức cân não, hóc búa bội phần.

Gù được như Tể tướng Lưu gù thì vạn phúc;  gù như trong câu tổng kết kia thật quan ngại, quan ngại, quá quan ngại.

HÀNH ĐỘNG QUYẾT LIỆT

Giúp Việt Nam thành công trong chống dịch

Dù có chung biên giới với TQ, số dân 97 triệu, VN chỉ ghi nhận 300 ca nhiễm vi rút Covid-19 riêng trên lãnh thổ, và không một người nào chết.

Các chuyên gia cho biết, không giống các nước có số người nhiễm, số người chết quá lớn, VN khép hẹp cánh cửa lây nhiễm khá sớm và khá bài bản.

Dù ít tốn kém, có vài nhược điểm, biện pháp quyết liệt, đòi hỏi nhiều công sức cũng chẳng kịp giúp các nước khác học tập kinh nghiệm thành công của VN.

BIỆN PHÁP CỰC ĐOAN MÀ CẨN TRỌNG

Tiến sĩ Todd Pollack, đại học Harvard, tại Hà Nội: “Khi phải đối phó với một mầm bệnh mới, cực kỳ nguy hiểm, tốt nhất là cần hành động quyết liệt (overreaction)”. Biết hệ thống y tế của mình sẽ tràn ngập bệnh nhân ngay cả vi rút chỉ lan truyền chưa mạnh, VN chọn phương án phòng ngừa trên diện rộng.

Đầu tháng giêng, khi chưa có ca nhiễm nào, chính quyền VN đề ra “hành động quyết đoán” chuẩn bị đối phó với dịch viêm phổi cấp bí hiểm khi có 2 người bị chết ở Vũ Hán (nơi phát ra dịch).

Khi ca nhiễm đầu tiên của một người bố từ Vũ Hán thăm con ở Sài Gòn, kế hoạch khẩn cấp của VN bắt đầu khởi động. Giáo sư Guy Thwaites, đại học Oxford Anh, người cộng tác với chính phủ về chương trình chống bệnh truyền nhiễm, cho biết: “Họ (chính phủ) phản ứng cấp kỳ theo cái cách cực đoan vào thời điểm đó, nhưng kết quả lại khá hợp lý về sau”.

VN áp dụng các biện pháp mà các nước mấy tháng sau mới áp dụng: hạn chế đi lại, theo dõi suýt sao, sau cùng là đóng cửa biên giới với TQ, tăng cường chốt kiểm soát ở biên giới, những nơi có nguy cơ.

Trường học đóng cửa từ Tết, cuối tháng 1,  cho đến giữa tháng 5. Một chiến dịch cấp bách theo dõi nguồn lây, rộng khắp, nhiều công sức được đưa ra.

VN đã quen với bùng phát dịch bệnh trong quá khứ. Dịch Sars 2013 tới dịch cúm gia cầm năm 2010, quá nhiều bệnh lây khác như sởi và sốt xuất huyết, theo nhận xét của giáo sư Thwaites. Ông nói: “ Chính quyền và người dân hết sức quen với đối phó dịch bệnh, luôn cảnh giác chúng, có lẽ còn hơn những nước giàu có. Họ biết cách đối phó chúng”. Giữa tháng 3, VN đưa đi cách ly 14 ngày cho bất kỳ ai về nước, kể cả những ai tiếp xúc với người nhiễm bệnh. Chi phí cách ly chính phủ trả, dù tiện nghi cách ly chẳng đầy đủ mấy. Một phụ nữ từ Úc về “trốn” dịch ở VN than vãn: “Chỉ mỗi một chiếc chiếu, chẳng gối, chẳng mền, cùng với một chiếc quạt máy trong căn phòng hầm hập”.

NGĂN NGỪA KHI CHƯA CÓ TRIỆU CHỨNG BỆNH

Cách ly diện rộng là yếu tố quyết định, có bằng chứng cho thấy, hơn phân nửa người nhiễm bệnh không có triệu chứng. Mọi người bị cách ly được xét nghiệm dù bệnh hay không bệnh. Gần 40% các ca bệnh ở VN không có ý niệm họ đã nhiễm vi rút nếu không được xét nghiệm. “Nếu có mức độ cao người mang mầm bệnh chưa phát triệu chứng, chỉ có mỗi việc phải làm để khống chế dịch như cách thức VN đã làm”.  Giáo sư Thwaites nói tiếp: “Nếu không cách ly những người nghi bệnh, họ sẽ đi khắp nơi và lan truyền vi rút”. Đây là lý do giải thích vì sao không có người chết vì dịch tại VN.

Báo chí nước ngoài khen ngợi VN giai đoạn đầu chống dịch Covid.

Hầu hết những người về VN là sinh viên, khách du lịch, các doanh nhân đi lại, có xu hướng trẻ và khỏe mạnh hơn. Họ có cơ hội chống chọi lại dịch bệnh hơn khi cách ly, không đem lại hiểm nguy cho thân nhân già yếu, đối tượng có nguy cơ nhiễm vi rút corona, chiếm tỷ lệ chết khá cao, những người có thể thu hút chăm sóc nếu họ ở tình trạng hiểm nguy khi mắc bệnh.

Khi không phong tỏa toàn nước, VN có điều kiện khoanh vùng những ổ dịch. Tháng giêng, một số ca nhiễm vi rút ở Sơn Lôi gần Hà Nội, 10.000 người chung quanh bị cách ly ngay. Trường hợp tương tự cũng được áp dụng đối với 11.000 người ở xã Hạ Lôi. Không ai được vào ra những nơi đó sau 2 tuần khi không có ca nào được ghi nhận thêm. Biện pháp ngăn chặn này sẽ áp dụng nếu dịch trở lại, có nghĩa VN sẽ không xét nghiệm cộng đồng trên diện rộng.

Không xét nghiệm diện rộng, ban đầu cách làm này có vẻ nguy hiểm nhưng về sau lại có kết quả.

TRUYỀN THÔNG BẰNG TIN NHẮN

VN khá thành công trong công tác truyền thông. Các tin nhắn gởi đều đặn tới người có điện thoại, cảnh báo, hướng dẫn người dân cách thức phòng ngừa dịch bệnh, các hành động ban hành của chính phủ. Trong khi chính quyền toàn trị của VN khá quen với bắt buộc người dân phải cộng tác, dân chúng lại đứng về phía họ vì nhận ra chính quyền đang làm mọi cách hiệu quả, dù phải tốn kém, để bảo vệ người dân của mình. Đó là nhận xét của tiến sĩ Pollack.

ĐIỆN ẢNH MIỀN NAM

(Lời người dịch: “Việt Nam không đòi xương máu, Việt Nam kêu gọi thương nhau”, câu hát của Phạm Duy, trong phim NGƯỜI TÌNH KHÔNG CHÂN DUNG. Một cuốn phim không ca ngợi chiến tranh. Một cuốn phim nói lên số phận con người trong chiến tranh. Số phận đau thương không chỉ của những người cầm súng. Số phận của người phụ nữ Việt Nam: người mẹ, người vợ, và người yêu. Xem phim mới thấy tài năng diễn xuất thiên bẩm của nữ tài tử Kiều Chinh, với dáng vẻ thướt tha của một cô gái Việt Nam thuần túy, khuôn mặt sắc nét quý phái dù ở góc quay nào, và đôi mắt, nhất là đôi mắt, luôn mở to nhân từ, tỏ rạng, ngời sáng như những vì sao trong đêm tối chiến tranh).

The Cinema Industry, bài của nữ tài tử điện ảnh Kiều Chinh, ở chương 14 trong cuốn The Republic of Vietnam, 1955–1975 (Việt Nam cộng hòa, 1955-1975).

Vài nét về tác giả (trong chương sách): Kiều Chinh là nữ diễn viên, nhà sản xuất phim, đóng góp trong sự phát triển nghệ thuật điện ảnh VNCH từ buổi phôi thai. Bà xuất hiện ngắn ngủi trong phim The quiet American (Người Mỹ trầm lặng) cuốn phim Mỹ quay đầu tiên ở VN năm 1956, và đóng vai chính trong phim Hồi chuông Thiên Mụ.

Đến năm 1975, Kiều Chinh là nữ diễn viên hàng đầu trong 20 bộ phim khác đóng ở Nam VN, Thái Lan, Ấn Độ, Phi Luật Tân, Singapore, Đài Loan, kể cả một số phim Mỹ quay ở châu Á, như A Yank in Vietnam (Chú lính Mỹ ở VN), The Devil Within (Quỷ ở trong),Operation CIA (Điệp vụ CIA) và Destination Vietnam (VN nơi đến). Bà định cư ở California sau tháng 4 năm 1975, và xuất hiện trong hơn một trăm show truyền hình và phim ảnh như M*A*S*H, The Letter (Bức thư), Vietnam-Texas (Texas-Việt Nam), The Joy Luck Club (Câu lạc bộ vui may mắn), và Journey from the Fall (Hành trình từ mùa thu).

Bà nhận rất nhiều vinh dự và giải thưởng, như Nữ diễn viên hay nhất (Sài Gòn, 1969), Nữ diễn viên hàng đầu hay nhất (Đài Bắc, 1973), ba giải trong một năm Thành tựu trọn đời ở Liên hoan phim Việt (2003), Liên hoan phim San Diego (2003), Liên hoan phim Cinema Della Donne ở Ý (2003), và giải Liên hoan phim quốc tế ở San Francisco (2015). Cộng tác với Lewis P. Puller cựu chiến binh quá cố và nhà báo Terry Anderson, Kiều Chinh là người đồng sáng lập và đồng chủ tịch Quỹ trẻ em VN, một tổ chức phi chính phủ xây 51 ngôi trường học cho hơn 30 ngàn học sinh ở Việt Nam từ năm 1993.

Bài viết của bà:

Là một diễn viên điện ảnh, không phải một quan chức chính phủ, hay là nhà nghiên cứu, đóng góp của tôi cho cuốn sách chỉ là một nghệ sĩ kể một câu chuyện về những trải nghiệm cuộc đời mình trong một quãng thời gian có một không hai trong chế độ VNCH.

Tôi được may mắn góp phần vào nền điện ảnh Nam Việt Nam từ buổi ban đầu, tương tác với nền điện ảnh quốc tế từ sớm vào năm 1956. Tiếng “Action” (bắt đầu) – một hiệu lệnh diễn xuất – tôi nhận trong nghề của mình từ đạo diễn Joseph L. Mankiewicz, lúc tôi có một vai đóng ngắn trong phim Người Mỹ trầm lặng – cuốn phim Mỹ đầu tiên đóng tại Việt Nam. Sau đó vào năm 1957, tôi thật sự đi vào nền điện ảnh với vai chính trong phim Tiếng chuông Thiên Mụ, do Studio Tân Việt sản xuất, ông Bùi Diễm đảm trách.

Từ đó, tôi bắt đầu đóng vai nữ chính trong hai chục phim khác, không những sản xuất tại Việt Nam mà còn tại Thái Lan, Ấn Độ, Đài Loan, Singapore, và Phi Luật Tân, gồm cả các phim của người Mỹ được quay tại châu Á, như Một chú lính Mỹ ở VN, Điệp vụ CIA, Quỷ ở trong, và Việt Nam nơi đến. Phim sau cùng trong hai mươi năm hành nghề đóng phim ở Việt Nam là Full House (Ngôi nhà đầy đủ), quay tại Singapore. Phim quay xong ngày 15 tháng 4 năm 1975, và tôi quay về Sài Gòn ngay thời gian Nam Việt Nam đang sụp đổ.

Sau những tháng ngày trôi nổi làm người người tỵ nạn mất quê hương, cuối cùng tôi đến Mỹ, được giới thiệu vào Hollywood nhờ sự giúp đỡ của nữ diễn viên Tippi Hedren và nam diễn viên William Holden. Và cũng từ đây, tôi quyết định ở với “nghệ thuật thứ bảy” – nhận ra rằng tôi phải trở lại từ đầu. Và từ tháng 10 năm 1975, tôi xuất hiện trong hơn một trăm show diễn truyền hình và phim ảnh như M*A*S*H, đóng chung với Alan Alda, Bức thư, đóng chung với Lee Remick, và Về nhà (Welcome home) với Kris Kristofferson.

Tôi cũng đóng vai chính trong một số phim như Vietnam-Texas (Việt Nam -Texas), The Joy Luck Club (Câu lạc bộ vui may mắn), Face (Gương mặt), Tempted (Bị cám dỗ), và Journey from the Fall (Hành trình từ mùa thu). Gần đây nhất, tôi là người đồng sản xuất phim Ride the Thunder (Cưỡi trên sấm sét). Tôi nhận giải Thành tựu trọn đời tại Liên hoan Phim quốc tế 2015 ở San Francisco.

Trong bốn chục năm về sau tại Hoa Kỳ, tôi đã đóng khá nhiều “vai” (trò). Tôi làm phim. Tôi cũng làm việc với công ty Greater Talent Network ở Nữu Ước, với tư cách người phát ngôn chuyên nghiệp cho các sự kiện văn hóa hay đại học khắp nước Mỹ. Và, quan trọng hơn, cựu chiến binh quá cố Lewis P. Puller, nhà báo Terry Anderson, và tôi đồng sáng lập và đồng chủ tịch Quỹ trẻ em Việt nam, một tổ chức phi chính phủ bao gồm nhiều cựu chiến binh người Mỹ.

Tổ chức VCF tìm cách xây dựng mạng lưới trường tiểu học tại VN, ở những vùng từng bị tàn phá nhiều nhất trong chiến tranh – Quỹ trẻ em VN còn nhắm tới năm mươi tám ngàn chỗ ngồi ở trường lớp mỗi niên khóa – khớp với con số tên người trên bức tường Tưởng niệm cựu binh Mỹ chết trong chiến tranh VN. Chúng tôi đã xây dựng năm mươi mốt ngôi trường cho hơn ba chục ngàn học sinh.

CỘT MỐC QUAN TRỌNG TRONG LỊCH SỬ ĐIỆN ẢNH.

2016 là năm đánh dấu 120 năm ngày khai sinh điện ảnh thế giới. Đó cũng là ngày đánh dấu 120 năm lần đầu tiên người Việt biết tới máy ghi hình. Điều này cho thấy điện ảnh đến Việt Nam sớm hơn nhiều nước láng giềng. Tuy nhiên, hơn một thế kỷ sau, nền điện ảnh VN vẫn còn kém phát triển so với các nước châu Á khác.

Lý do giải thích kém phát triển thế này: điện ảnh, giống như nghề nghiệp hay công ty, luôn chung số phận với đất nước của nó. Vì thế, trước khi kể lại sự phát triển của kỹ nghệ phim ảnh trong thời VNCH, tôi muốn nhắc qua những cột mốc quan trọng trong nền điện ảnh thế giới.

Phim ảnh chính thức khởi đầu từ nước Pháp, khi anh em nhà Lumière sáng chế máy quay phim, tráng phim, và chiếu phim, thường được gọi là cinématographe (xi-nê-ma, sinh ra thuật ngữ cinema, điện ảnh). Ba ngày sau Năm mới 1896, Salon Indien (nhà nghỉ theo phong cách Ấn), ở vị trí tầng hầm nhà hàng Grand Café ở Ba Lê, biến thành nơi tổ chức chiếu phim lần đầu cho công chúng có bán vé. Từ đó, nghệ thuật thứ bảy được giới thiệu ra khắp thế giới.

Cũng trong năm 1896, Pathé Studio làm một cuốn phim nói về nước Pháp và các thuộc địa của mình, có một vài cảnh chiếu về An Nam (tên cũ của Việt Nam), lấy khung cảnh ở kinh đô Huế, trình chiếu ở các cuộc liên hoan khắp nước Pháp. Dân chúng được chỉ cho biết cách thức làm phim, và họ đổ xô đi xem miễn phí. Vào lúc đó, ông vua sáng chế dụng cụ điện Hoa Kỳ Thomas Edison, vừa trưng ra chiếc Kinetograph, máy ảnh chỉ có thể chiếu những hình ảnh chuyển động một cách thô sơ, người xem cần ánh sáng chiếu vào và nhìn qua một chiếc kính phóng đại.

Tuy nhiên, bá quyền người Pháp trong điện ảnh không kéo dài. Xi-nê-ma, phát minh kỳ lạ của anh em nhà Lumière, không có thời gian để phát triển. Mười tám năm sau, Chiến tranh thế giới lần thứ nhất bùng nổ, 1914. Dù chỉ kéo dài 4 năm nhưng Pháp và châu Âu bị tàn phá nặng nề. Trong khi đó, Hoa Kỳ nhanh chóng biến thành trung tâm khoa học và văn hóa thế giới.

Hollywood nhờ đó trở thành một người “chơi” đầu tiên với nhiều nghệ sĩ lừng lẫy trong những phim không lời như Charlie Chaplin và Buster Keaton.

Thời kỳ phim câm, khởi đầu ở nước Pháp, cũng chấm dứt năm 1927, thì một số hãng như Warner Bros và Fox Pictures sản xuất thành công những bộ phim lồng tiếng đầu tiên, The Jazz Singer and The Lights of New York (Ca sĩ nhạc jazz và ánh đèn Nữu Ước). Không lâu sau đệ nhất thế chiến, Pháp cố sức lấy lại sự thống trị điện ảnh nhưng thật ra đã muộn.

Tháng tám năm 1920, gần hồ Hoàn Kiếm ở trung tâm Hà Nội, một rạp chiếu phim đầu tiên – Pathé – được khánh thành. Hãng phim Pathé và Indochina Film (Phim Đông Dương) được thành lập. Từ 1923, hàng loạt phim được sản xuất, gồm cả phim chủ đề Kim Vân Kiều, ra mắt lần đầu ở rạp chiếu phim Cinema Palace, phố Tràng Tiền tháng ba năm 1924.

Mặc dù Kim Vân Kiều cơ bản dựa vào tác phẩm của thi hào Nguyễn Du, các diễn viên thủ vai lại là các ca sĩ hát cải lương của đoàn hát Quảng Lạc. Các cảnh quay thực hiện tại Hà Nội nhưng đoàn làm phim và đạo diễn lại đến từ nước Pháp.

Tuy nhiên, vào lúc chấm dứt thời kỳ phim câm, tài năng điện ảnh Việt Nam phát lộ khi Nguyễn Lan Hương thực hiện và công chiếu một số phim tài liệu như Đám tang vua Khải Định và Tấn tôn đức Bảo Đại (Bảo Đại lên ngôi).

Bước vào thời kỳ phim có lồng tiếng, bấy giờ đến lượt Sài Gòn chứng tỏ tài năng về kỹ thuật của người Việt Nam. Năm 1938, một công ty phim ở Hồng Kông, South China Motion Pictures Co. sản xuất bộ phim có tên Cánh đồng ma với sự cộng tác của Công đoàn nghệ sĩ An Nam (Annam Artist Union) phụ trách về kịch bản, đóng phim. Trong những diễn viên từ Hà Nội đi Hồng Công có nhà văn Nguyễn Tuân. Những mẩu chuyện về việc làm phim sau này được ông kể lại trong truyện Một chuyến đi. Và hậu quả, người ta nhầm lẫn Cánh đồng ma là phim nói đầu tiên ở Việt Nam.

Sự thật thì, không phải Hà Nội hoặc Hồng Kông, mà Sài Gòn mới là nơi “phim nói” 35 ly sản xuất đầu tiên tại Việt Nam. Đó là phim Trọn với tình, dài chín mươi phút, do Nguyễn Văn Định của Asia Film sản xuất năm 1938. Mọi thứ, từ kịch bản, đạo diễn đến máy móc, kỹ thuật hình ảnh, âm thanh, đều do người Việt Nam thể hiện. Thuở đó ở Sài Gòn, ngoài hãng Asia Film còn có hãng Vietnam Film. Nội trong năm 1939, hai hãng này cho ra đời bảy bộ phim chủ đề.

Thế rồi, năm 1939, Thế chiến thứ hai bùng nổ. Máy bay đồng minh liên tục dội bom Hà Nội và Sài Gòn sau khi quân Nhật tiến vào Đông Dương năm 1942. (Một quả bom rơi xuống phòng hộ sản nhà thương Phủ Doãn ở Hà Nội đã giết chết người mẹ sinh em kế tôi đang nằm ở đó). Sau chấm dứt đệ nhị thế chiến là phong trào kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp và sau đó là chiến tranh Việt Nam.

Cùng với số phận của đất nước, nền điện ảnh Việt Nam, dẫu nhiều nỗ lực vươn lên, vẫn tiếp tục chìm sâu vào sự mờ mịt của chiến tranh và lệ thuộc. Suốt thời gian u ám ấy, các rạp phim trên tất cả đô thị đều do người Pháp khống chế; họ chỉ chiếu những phim Pháp hoặc phim phụ đề tiếng Pháp. Tôi tận mắt chứng kiến điều đó, khi lớn lên những tháng ngày ở Hà Nội, cha tôi dắt đến rạp Philharmonique hay rạp Cầu Gỗ.

Tôi còn nhớ xem phim Limelight (Ánh đèn sân khấu) của Charlie Chaplin, The Best Years of Our Life (tiếng Pháp Les Plus Belles Anne de Notre Vie, Năm tháng đẹp trong đời chúng tôi) của đạo diễn Mỹ, William Wyler, bộ phim đoạt bảy giải Oscar năm 1947, và All about Eve (Tất cả về Eva) của đạo diễn Mỹ Joseph Leo Mankiewicz, trong năm 1950 được đề cử mười bốn lần giải Oscar.

Đọc tạp chí Ciné Revue với sự giải thích của cha mình, tôi hiểu rằng gần hết những bộ phim thời ấy được người Mỹ sản xuất, người Pháp chẳng qua là những nhà phân phối phim độc quyền trong thuộc địa của họ. Phim Pháp đúng nghĩa thật hiếm, nói chi đến phim Việt.

TỪ 1954 ĐẾN ĐỆ NHẤT NỀN CỘNG HÒA

Sau 15 năm tê liệt hoàn toàn vì chiến tranh, đầu 1954, Hà Nội cuối cùng sản xuất phim Kiếp hoa, kịch bản và diễn viên của đoàn hát Kim Chung, nhưng đạo diễn và dàn dựng phim lại từ Hồng Kông. Giống Cánh đồng ma trước đó, chỉ sản xuất mỗi một phim. Cùng lúc, ở Sài Gòn, hãng Việt Thanh Film chiếu Quan Âm Thị Kính, Tống Ngọc Hạp thì làm phim Lục Vân Tiên với nữ diễn viên Thu Trang thủ vai chính. Đáng kể nhất, Alpha Film sản xuất Bến cũ, phim màu đầu tiên tại Việt Nam, mặc dù được thu bằng máy quay phim 16 ly. Diễn viên nam chính là Hoàng Vĩnh Lộc, đạo diễn Thái Thúc Nha, chủ hãng Alpha Film. Hai nhân vật này tiếp tục đóng góp to lớn cho sự phát triển nền điện ảnh Việt Nam.

Ba tuần sau sự thất bại của Pháp tại Điện Biên Phủ, tháng năm năm 1954, một phái đoàn quân sự Mỹ do tướng Edward Lansdale dẫn đầu khởi sự các hoạt động tại Việt nam. Hai tháng sau, cuộc đình chiến giữa Việt Minh và Pháp ký kết tại Geneve. Việt Nam vì đó mà chia ra hai: Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (theo cộng sản) ở miền Bắc và Việt Nam Cộng Hòa (RVN) ở miền Nam. Máy bay và tàu thủy Hoa Kỳ mang gần một triệu người từ Bắc vào Nam theo chiến dịch có tên “Đường đến Tự Do” (Passage to Freedom). Tôi ở trong số người đó, trở thành một người tỵ nạn ngay trên quê hương mình.

Là nhà điều phối trong cuộc di cư này, ngay khi đến Việt Nam, tướng Lansdale, cùng với một số chuyên viên điện ảnh Phi Luật Tân, nhanh chóng hoàn tất bộ phim “Ánh sáng miền Nam” nhằm mục đích tuyên truyền. Theo sau đó, vẫn chủ đề về di cư, xuất hiện phim Chúng tôi muốn sống của nhà sản xuất Bùi Diễm, Vĩnh Noãn làm đạo diễn. Hơn một năm sau cuộc di cư, tháng mười 1955, VNCH chính thức trở thành một quốc gia độc lập. Đồng thời với người lính Pháp cuối cùng về nước, điện ảnh Việt Nam chấm dứt sáu chục năm lệ thuộc người Pháp.

Cùng lúc đó, câu chuyện về những người Mỹ giúp đánh bật các ảnh hưởng thực dân Anh và Pháp ở Nam Việt Nam thực sự là đề tài lôi cuốn, gây cảm hứng ra đời tiểu thuyết Người Mỹ trầm lặng của Graham Greene, xuất bản năm 1955. Nhân vật chính tên Phượng là cô gái Sài Gòn, “mắc kẹt” trong sự chèo kéo giữa một nhà văn người Anh và một nhân viên tình báo CIA người Mỹ. Chính Edward Lansdale dàn xếp phim Người Mỹ trầm lặng được quay tại Sài Gòn do Joseph Mankiewicz làm đạo diễn năm 1956, các diễn viên chính Michael Redgrave và Audie Murphy.

Tôi được mời viết kịch bản và đóng vai nữ chính của phim do Mankiewicz làm đạo diễn, nhưng vì gia đình phản đối, tôi chỉ đóng một vai xuất hiện rất ngắn trong phim. Người làm cố vấn cho Mankiewicz lúc đó là Bùi Diễm, sau này rời phim trường đi vào chính trị. (Chức vụ sau cùng của ông là đại sứ VNCH tại Hoa Kỳ).

Thấu hiểu tình huống ấy, sau này năm 1957, Bùi Diễm đích thân dàn xếp cho tôi chính thức bước vào nghề điện ảnh, với vai nữ chính, một ni cô trong phim Hồi chuông Thiên Mụ, chính ông làm giám đốc điều hành. Cả hai phim, trước ngày ra mắt là sự chào đón long trọng tại khách sạn Continental trên đường Tự Do, tên mới thay cho tên đường Catinat thời Pháp thuộc. Hai bộ phim Mỹ-Việt này đánh dấu sự tiến bộ đặc biệt trong kỹ nghệ điện ảnh Việt Nam, từ một thuộc địa của Pháp tới một nước cộng hòa độc lập. Xuất phát từ những hoàn cảnh lịch sử, Việt Nam chịu ảnh hưởng rất sâu xa văn hóa nước Pháp.

Khi người Pháp rời đi, Việt Nam Cộng Hòa được Hoa Kỳ hỗ trợ, phim Mỹ và phim nói tiếng Anh được Cosunam nhập khẩu bắt đầu có mặt tại Việt Nam. Ở miền Nam, gần một triệu dân mới di cư từ miền Bắc, di sản văn hóa dân tộc vẫn còn giữ bản sắc đồng nhất. Các tài năng đến từ mọi miền đất nước – ví dụ, trong Hồi chuông Thiên Mụ, nhà sản xuất phim Bùi Diễm, vai nam chính Lê Quỳnh, vai nữ chính Kiều Chinh, đến từ miền Bắc trong khi đạo diễn Lê Dân là người miền Nam, cuốn phim lai được quay tại Huế, cùng đoàn làm phim của cả Nam lẫn Trung!

Với những bước đi đầu tiên đúng hướng này, Nam Việt Nam trong nền đệ nhất cộng hòa rõ ràng ghi nét son trên trang đầu tiên của lịch sử điện ảnh nước nhà. Trong khi đó, phim ảnh và truyền thông miền Bắc nằm dưới sự kiểm soát của nhà nước, thì ở miền Nam, chính quyền chỉ hỗ trợ để giúp đỡ ngành điện ảnh phục hồi trở lại. Các hãng phim quốc tế được mời tới Việt nam để hợp tác, tạo động lực phát triển nền điện ảnh tư nhân.

Nội trong năm 1957, cùng với Hồi chuông Thiên Mụ của hãng Tân Việt, miền Nam có ba mươi bảy phim khác được các hãng phim tư nhân sản xuất. Trong số đó có Người đẹp Bình Dương của hãng Mỹ Vân với Thẩm Thúy hằng, Lòng nhân đạo, Ngọc Bồ Đề với Kim Cương. Cạnh các diễn viên như Thu Trang, Trang Thiên Kim, Khánh Ngọc, Mai Trâm, Lê Quỳnh, Nguyễn Long, Long Cương, các diễn viên Thẩm Thúy Hằng, Kim Cương, Kiều Chinh và Thanh Nga, một thế hệ tài tử tài năng xuất hiện như Đoàn Châu Mậu, Trần Quang, Minh Trường Sơn, Xuân Phát, La Thoại Tân, Huy Cường, Ngọc Phu, Hùng Cường, Vân Hùng, Thành Được, Túy Phượng, Nguyễn Chánh Tín, Túy Hồng, Kim Vui, Thanh Lan, và rất nhiều người nữa.