Wednesday, January 3, 2024

ĐỊNH KIẾN

Một phụ nữ đến chơi, bất chợt thấy tôi đang rửa chén, ngạc nhiên: “ Chị đi đâu mà anh phải rửa chén?”. Tôi nghĩ bụng, rửa chén là công việc ’ mặc định ‘ của đàn bà hay sao, hàng ngàn năm nay? Tôi cười và tiếp tục công việc bếp núc. Hình như, việc này, trái với lời khuyên, có người bảo của Khổng Tử, “người quân tử nên xa nơi bếp núc “. Chẳng quân tử nên tôi cứ “bếp núc”.

Khi có ý nguyện thiêu xác sau khi chết, nhiều người quý mến tôi có khuyên: việc ấy trái với truyền thống lâu đời của người VN, chôn cất tử tế, “mồ yên mả đẹp “.

Nhìn bức ảnh minh họa (bên dưới), nếu không thấy hai chữ song hỷ, nét mặt chú rể, cô dâu, và phong bì màu đỏ, quý vị sẽ nghĩ, cặp đôi đang mặc trang phục dành cho …tang chế: áo trắng, khăn chít đầu trắng, cả khăn trên đầu cô gái cũng màu trắng, khá giống một loại mũ rơm. Nhưng đây là trang phục mới mẻ của một đám cưới “thời trang, thời đại “(fashionable).

Văn hoá khác nhau, định kiến do đó không giống nhau, ở mỗi nước, mỗi xã hội. Y phục màu trắng dành cho nghi thức tang lễ ở phương Đông nhưng lại là y phục hay dùng cho các tiệc cưới phương Tây, hay ảnh hưởng phương Tây. Trang phục màu đen mới dành cho tang chế đối với họ. Màu đỏ là màu đặc trưng cho đám cưới Á đông. Trên một số thiệp mời đám cưới, chủ hôn còn cẩn thận ghi chú “xin không mặc y phục màu trắng “.

Định kiến khiến người ta tư duy “máy móc “. Chẳng hạn: chủ nghĩa Mác Lê Nin bách chiến bách thắng. Hoặc giả: Đế quốc luôn luôn xấu xa vì chúng luôn luôn bóc lột. Địch luôn thua, ta luôn thắng. Liên Xô và khối Đông Âu là thành trì không bao giờ suy yếu. Chủ nghĩa tư bản sẽ suy tàn, chủ nghĩa cộng sản sẽ phát triển.

Thành kiến hay định kiến chẳng có hại gì nếu người có thành kiến, định kiến là dân thường như…tôi. Nhưng nếu là lãnh đạo, hay may mắn được ông Trời "cơ cấu", tôi làm tổng thống, không định kiến, số phận đất nước tôi dẫn dắt biết đâu sẽ không "tơi bời" như Liên Xô hay các nước đông Âu cũ?

Chỉ có đầu óc không định kiến hay thành kiến mới có thể dẫn dắt thành công một quốc gia. Nhìn qua  Miên, tôi thấy Hunsen là mẫu người có tố chất lãnh đạo: chịu ơn VN nhưng không “thần phục” VN. Hay, nước đàn anh Trung Quốc “làm thinh” trước Putin xâm lược, Campuchia vẫn to tiếng phản đối, không núp bóng người bạn khổng lồ, theo hùa phi nghĩa.

Định kiến và thành kiến “Liên Xô có ơn, từng là anh cả, từng giúp đỡ súng đạn đánh đế quốc”, người ta cứ “thủ khẩu như bình “ trước những tai ương dân tộc Ukraina đang gánh chịu gần 1 năm nay và sẽ gánh chịu mùa đông sắp tới (*), khắc nghiệt trong bóng tối; hằng ngày hỏa tiễn Putin đánh phá vào lưới điện dân sinh.

“Phá vỡ định kiến còn khó hơn phá vỡ hạt nhân”, Einstein ơi, ông đúng quá. Nếu hạt nhân dễ dàng phá vỡ, nhiều quốc gia sẽ có vũ khí nguyên tử, cũng rất dễ dàng, kể cả VN.

Tôi thì khác Einstein: Định kiến, sá gì mà không phá vỡ?

Y phục màu trắng là xu hướng mới trong các đám cưới thời nay.

CÚNG, CÓ NÊN BỎ?

Đối với người Trung Hoa xưa, quan, hôn, tang, tế là những dịp “trọng đại” trong cuộc đời người. Quan: lễ đội mũ trưởng thành cho con trai; hôn: cưới hỏi; tang: nghi thức chôn cất người quá cố; tế: nghi thức cúng tế trong các dịp quan trọng. Người Việt “nhờ” một ngàn năm đô hộ cũng “du nhập” khá nhiều, có thể nói hầu hết, những tục lệ, truyền thống của người Tàu lúc đó là “bên thắng cuộc”.

Ngoại trừ lễ “trưởng thành”, hôn, tang, tế Tàu sao, Ta vậy tuy có “chế biến” chút chút cho “đậm đà bản sắc dân tộc”. Về một số địa phương, tôi bắt gặp rất nhiều gia đình, sắm sẵn “bửu bối” trong việc cúng tế. Bửu bối ấy có cái in, có cái phô tô, đại để nội dung như Thọ Mai Gia lễ gì gì đó. Ông bà nghe những lời khấn nguyện của người cúng – nội dung “muôn người như một”, theo mẫu mà – chắc nhức đầu lắm lắm. Quý ngài nhầm lời cúng là nội dung phát thanh loa phường, không chừng.

Có các nhà “dân tộc học” hay “văn hóa học” chi đó viết thành văn bản phương thức bài trí trên bàn thờ gia tiên. Và cho đó là truyền thống dân tộc. Nào là vị trí lư hương, bát nhang, nào là bài vị, hình ảnh người chết, sắp xếp ra sao trên tủ thờ, bàn thờ. Nào là không thờ cha mẹ vợ, em không được quyền thay anh (trưởng nam) lập bàn thờ gia tiên...Lư hương không tùy tiện ‘di dời’ nhiều lần trong năm dù cần có chỗ để quét dọn bàn thờ. Thắp nhang phải có ý nghĩa. Cúng gì thì năm cây; cúng gì thì một cây; cúng gì thì ba cây. Bàn thờ không được làm bằng trang thờ: dễ tán khí; tôi không biết khí chi mà tán. Nghèo không sắm nổi tủ thờ, lập nổi bàn thờ, trang thờ cũng không được làm, lấy chỗ đâu mà nhang khói? Nghèo phải bỏ lễ hay sao.

Trên bàn thờ ngày cúng giỗ, cách thức bài trí các món ăn, thức uống, “sống sao thác vậy”. Tôi từng chứng kiến, bàn thờ để đầy lá thuốc; lý do, lúc sống có một vị nghiện thuốc lá quấn rất nặng. Có chỗ bày la liệt nào bia, nào rượu, nào nước ngọt (từ Coca Cola, nước tăng lực cho tới nước uống cung đình đốc tơ Thanh); rượu đế có, rượu tây có. Ông bà xưa quen uống rượu đế, trong cúng giỗ, thấy rượu tấy sang trọng, mở cho xong chai rượu để rót, chắc là hết giỗ. Ăn gì cúng nấy. Rau lang, mắm nêm thì thiếu nhưng ra-gu, gà tiềm ớt hiểm, nem tré… thì ê hề. Nhang, đèn, hoa, quả, có khi làm bằng vải, bằng nhựa màu sắc lòe loẹt, chói chang. Ánh sáng có lung linh thật. Không có kính mát, ông bà có về cũng nên cẩn thận kẻo vấp té khi “thượng” lên bàn thờ.

Nhiều người không trả lời cho thỏa mãn câu hỏi: Cúng để làm gì? Cúng để tưởng nhớ người khuất trong gia đình. Vậy, người không cúng có tưởng nhớ được không? Cúng giỗ lớn để làm gì? Để con cháu tề tựu về ăn cho đủ, cho vui. Cúng nhỏ, ít con, ít cháu, tình thân giảm sút sao? Những người theo tôn giáo – như Tin Lành – không cúng giỗ, đốt nhang, ông bà, cha mẹ họ có buồn không? Họ không ‘hóa vàng’ áo quần, tư trang, người chết trong gia đình họ sẽ thiếu thốn, giá rét? Tiền vàng như đô la âm phủ không có, ông bà họ sẽ thiếu tiền tiêu? Người sống thích đi xe hơi, khi chết không ai cúng ‘xe hơi giấy’, họ phải đi bộ hay sao?

Như vậy nên dẹp bỏ cúng giỗ? Không. Tôi theo kitô giáo nhưng tôi không cổ súy việc bãi bỏ các lễ nghi cúng kiếng, trong đó có cúng giỗ hay cúng gia tiên, tổ tiên trong những ngày lễ tết, kỵ cơm.

Nhưng tôi phản bác: phải thế này, phải thế nọ, phải đủ cái này, phải cần cái nọ để lễ nghi mới đúng nghĩa. Tôi vừa nói chuyện với một vị trên facebook về cách bố trí bên nào là đặt bình (đựng hoa) và đặt đĩa (đựng trái cây) trên bàn thờ ngày lễ, tết. Bình hoa phải đặt bên tả (của bàn thờ), đĩa trái cây phải đặt bên hữu. Quy định phải trái ấy ai đặt ra và mang ý nghĩa gì? Tôi có thể đặt ngược lại và như thế tôi chẳng ‘văn hóa’ tý nào sao? Ông bà tôi sẽ quở “mi làm bậy rồi”?

Ở miền Nam, có câu ‘lề’ (nói bắt quờ?) “đông bình, tây quả”, phía đông (của bàn thờ) đặt bình hoa và phía tây đặt đĩa trái cây. Ai đặt không đúng vị trí ‘mặc định’ là sai nghi thức cúng kiếng? Tôi thì nghĩ. Ngày xưa, có lẽ từ nước Trung Hoa xa xôi, cả nước VN chúng ta, dân rất ít, đất bao la (cách nay hơn 1000 năm khi Tàu đô hộ Việt), nhà thường xây về hướng Nam. Không xây về hướng Đông (“nhà hướng Đông, cọng lông cũng không còn”, hướng Tây (vì quá nắng nóng), hướng Bắc (giá lạnh) nhà tốt nhất xây về hướng Nam.

Bàn thờ hầu như nhà nào cũng có; như vậy, hướng bàn thờ phải là phía Nam. Bên tả sẽ là hướng Đông; bên hữu là hướng Tây. Từ đây hình thành “Đông bình, Tây quả”?

Tôi không nghĩ như thế. Ngày xưa kiến thức người Trung Hoa cổ (kể cả người Việt) về vũ trụ rất hạn chế. Đối với họ, vũ trụ là trời đất, là mặt trời, mặt trăng, cùng lắm là một số sao. (Nhiều chuyện một tý: cái buồn cười, có một số sao ‘chiếu mệnh’ ứng vào số phận mỗi người. Gặp sao Thái Bạch…sạch cửa nhà; sao Kế Đô thì tàn hại; sao La Hầu…cất đầu không nổi. Xin thưa, hàng tỷ tỷ tỷ ngôi sao lận, đâu phải chỉ có mấy chục ngôi sao ‘chiếu mạng’. Chưa có kính thiên văn khổng lồ nào ‘nhìn thấy’ Thái Bạch, Kế Đô hay La Hầu của mấy ông Tàu cả).

Như vậy Đông, Tây, Nam, Bắc của người xưa dựa vào trái đất. Nếu ở mặt trăng, bốn hướng đó có như ở địa cầu? “Đông bình, Tây quả” là “hướng” dựa vào chỗ con người sinh sống. Nhưng nhà xây hướng Tây (hay Đông) thì đặt bình hoa và đĩa quả ở đâu cho…đúng lễ? Nghi thức cúng tế là cách ước thúc của con người. Việc đặt trái phải hoa, quả là tùy tâm của mình. Tâm không thuận thì cúng tế cho to lớn cho rườm rà cũng chỉ để làm vừa lòng người sống chứ không phải vừa lòng người chết. Như vậy, cúng cho người sống: nên bỏ.

Tôi có cách giải thích “Đông bình, Tây quả” dựa theo một kiến giải của vị học giả nào đó (Dường như là Vương Hồng Sển – tôi không chắc). Hướng Đông là mặt trời mọc. Bình minh báo hiệu cho một ngày mới. Cái gì sinh ra lúc bắt đầu? Nếu là cây, hoa và nụ sẽ có trước. Hướng Tây là mặt trời lặn. Hoàng hôn báo hiệu cho một ngày sắp chấm hết. Hoa kết trái là một tiến trình hình thành không khác chi tiến trình hình thành con người. Vậy, hoa phải ở hướng Đông và quả phải ở hướng Tây: một chu kỳ nhân sinh.

Bình phải đặt bên trái; quả phải đặt bên phải không cắt nghĩa vì sao phải như vậy. Cách giải thích “Đông bình, Tây quả” như của tôi là…’văn hóa’ nhất. Tuy nhiên, ở đây, tôi không tranh luận chuyện hoa, bình đặt ở đâu. Tôi muốn nói, nghi thức – cúng giỗ, lễ, tết, quan, hôn, tang, tế - cần xuất phát tự lòng thành của những người thực hiện các nghi thức ấy. Một cây nhang hay 10 cây nhang sẽ có ý nghĩa như nhau. Không thể bảo 3 cây hay 5 cây hay cả bó… “mới đúng”.

Cái gọi là “đúng” – trang trọng là lễ nghi – đều từ con người mà ra. Vậy, tại sao khi thực hiện các nghi thức cúng tế trong gia đình, con người không có quyền quyết định phải đốt 1 hay 10 cây nhang mà phải là 3 cây? Đốt hổng đúng, ông bà sẽ ‘quở’ hay sao. Tôi không chủ trương đả phá những thủ tục trong nghi lễ. Tôi chỉ đả phá ai lấy “truyền thống”, “lễ nghi”, “văn hóa dân tộc” tạo thủ tục để buộc (về mặt đạo đức) người khác phải thế này, thế nọ, tước mất tự do biểu đạt của mỗi con người trước mọi vấn đề cuộc sống, trong đó có cuộc sống tâm linh.

Lễ bạc nhưng lòng thành còn hơn lễ trọng mà lòng mưu cầu đủ thứ tham lam: tiền tài, danh vọng, chức tước, giàu sang. “Cao lễ dễ thưa”, ông bà tổ tiên cũng không khác người trần mắt thịt?

(Ảnh: Ai bị các sao này 'chiếu tướng' năm 2023, gọi tôi, tôi sẽ cúng giúp một tuần. Lấy bia uống, không lấy tiền).

ĐÃ ĐẾN LÚC HÀN QUỐC NHÌN NHẬN TỘI ÁC CỦA HỌ Ở VIỆT NAM

(It’s Time for South Korea to Acknowledge Its Atrocities in Vietnam)

(Lời người dịch: Trong phim Hàn "Little Women", cựu binh khoe cứ 1 lính Hàn chết thì 20 du kích bị giết. Hà Nội nói bộ phim bóp méo sự thật. Tôi cho con số là đúng. Chỉ sai: không những du kích mà có cả thường dân. Ở Thanh Hà (sát Hội AN) nơi đóng quân của sư đoàn Thanh Long. Tôi ở gần nơi này suốt cuộc chiến và thấy du kích không bao giờ dám tấn công vào đây, vì một lính Hàn bị giết sẽ có rất nhiều người ở trong khu vực họ kiểm soát bị đền mạng tập thể. Nhưng tác giả bảo Hàn Quốc cần xin lỗi thảm sát 1968 thì những người Việt thảm sát đồng bào mình tại Huế năm Mậu Thân có ai xin lỗi đâu?)

Chuyến thăm 3 ngày cấp nhà nước của chủ tịch Nguyễn Xuân Phúc tại Hàn Quốc hôm đầu tháng bắt đầu bằng 21 phát đại bác chào đón, và chấm dứt đáng nhớ trong một ngày nắng ấm. Ông Phúc và đồng cấp Yoon Suk Yeol quyết định nâng cấp quan hệ hai nước lên “đối tác chiến lược toàn diện”- đỉnh cao trong cấp bậc ngoại giao của Việt Nam, trước đó họ chỉ dành cho 3 nước: Trung Quốc, Ấn Độ và Nga.

Tuy nhiên, sự hào nhoáng và hoàn cảnh như thế làm nhòa đi cách đối phó khó khó khăn với một phần lịch sử giữa hai nước: Sự can dự của quân đội Nam Hàn trong chiến tranh Việt Nam chấm dứt vào năm 1975. Dù cho số thường dân bị họ giết chết có số liệu rõ ràng, Seoul luôn leo lẻo những tội ác như thế chưa từng có bằng chứng. Trong lúc đó, chính phủ Việt Nam chưa bao giờ công khai yêu cầu Nam Hàn xin lỗi chính thức, bồi thường cũng chẳng. Lời nhắc nhở gần đây về thực tế này – và cách hai nước không giải quyết gánh nặng lịch sử ấy – đến từ bộ phim nhiều tập ở Nam Hàn từng dấy lên tranh cãi tại Việt Nam.

Quãng tháng 10, giới chức Việt Nam yêu cầu gã khổng lồ phát trực tiếp (streamline) Netflix (Mỹ) gỡ bỏ phim Hàn Little Women (những Phụ nữ bé), nói về ba phụ nữ sống ở Seoul hiện đại. Lý do có thể tóm lại vài dòng trong tập 8 của bộ phim 12 tập, đề cập lời khoe khoang chiến công của một cựu chiến binh: “Trong các trận đánh hay nhất, tỷ lệ chết trong lính Hàn là 20: 1. Hai chục mạng du kích đổi lấy một mạng lính Hàn”. Anh ta muốn nhắc tới đội quân du kích do Bắc Việt chỉ đạo trong chiến tranh VN; anh ta còn nói, tỷ lệ ấy còn cao hơn đối với binh sĩ thiện chiến nhất nước mình.

Giới chức VN cho rằng, loạt phim này bóp méo sự thật, nhưng dường như, trong con mắt của họ, loạt phim bị cắt vì những lời thoại nhẫn tâm khơi lại những vết thương chiến tranh.

Từ 1964 đến 1973, Nam Hàn điều 320 ngàn quân tới VN chiến đấu bên quân đội Hoa Kỳ, để đổi lấy viện trợ Mỹ nhằm vực dậy nền kinh tế còn èo uột của Hàn Quốc. Trên chiến địa, như đồng minh Mỹ, Nam Hàn khẳng định mình là một lực lượng chiến đấu ác liệt. Họ bị cáo buộc thảm sát thường dân, ước tính 9000 người bị giết tập thể khắp cả nước, theo báo cáo của một nhà nghiên cứu Nam Hàn (*) từng phỏng vấn nhân chứng và những người sống sót.

Tuy nhiên, chưa có tổng thống Hàn Quốc nào thừa nhận bất kỳ vụ thảm sát nào như vậy ở Việt Nam. Trong chuyến thăm Hà Nội năm 2018, tổng thống Hàn Quốc khi đó là Moon Jae-in chỉ bày tỏ “sự tiếc nuối về một quá khứ không mấy tốt đẹp”. Trong khi đó, bộ quốc phòng và cơ quan tình báo quốc gia Hàn Quốc nhiều lần ngăn cản nỗ lực của các nhà hoạt động, các học giả muốn tiếp cận hồ sơ, không cho mở cuộc điều tra toàn diện.

Năm 2018, chính quyền Nam Hàn bác bỏ phán quyết của một tòa án mô phỏng (mock tribunal) kết án họ phạm tội ác chiến tranh ở Việt Nam. (Phán quyết không bó buộc pháp lý vì tòa do một phong trào dân sự triệu tập). Tháng 8 rồi, hai công dân người Việt lần đầu tiên xuất hiện trong một tòa án Hàn Quốc để điều trần về các tội ác quân đội Nam Hàn phạm trong chiến tranh (VN). Tại phiên tòa, các đại diện Seoul cố tình bác bỏ các lời điều trần liên quan đến cuộc thảm sát năm 1968 ở làng Phong Nhị và Phong Nhất. Họ lặp lại luận điệu kết tội lính Việt Nam (cộng hòa), giả dạng lính Nam Hàn, thực hiện cuộc thảm sát – một luận điệu do chỉ huy quân Nam Hàn đưa ra ngay trong năm 1968 khi cuộc thảm sát bị báo chí soi rọi.

Những người sống sót (sau thảm sát-ND) cố tìm trách nhiệm giải trình nhưng không mấy thành công. Trong một thư thỉnh nguyện gởi lên tổng thống Moon, 103 nạn nhân người Việt yêu cầu điều tra toàn diện thảm sát do quân đội Hàn gây ra và yêu cầu lời xin lỗi công khai của Seoul. Những người sống sót than thở, chẳng một quan chức Hàn nào để tâm tới một lời nào xin lỗi họ.

Vị trí “mặc định” của Hàn Quốc trong chiến tranh càng củng cố bởi thái độ e dè của chính quyền VN. Lý do không khó hiểu mấy ở giai đoạn mà địa chính trị và sự giao thương là hàng đầu trong chính sách đối ngoại. Ngoài việc là một đối tác gần gũi nhất ở Đông Á, Hàn Quốc giữ nguồn lực đầu tư trục tiếp to lớn nhất ở Việt Nam. Hai nước dự định đẩy mạnh giao thương 100 tỷ đô la trong năm tới, 150 tỷ vào năm 2030, tăng hơn năm 2021 80,7 tỷ đô.

Công ty đa quốc gia Hàn Quốc, Samsung, là nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất ở Việt Nam, chi phối khủng khiếp đất nước chuyên xuất khẩu này. Samsung vừa bơm 18 tỷ đô cho 6 nhà máy tại VN, hai trong số đó sản xuất điện thoại thông minh, chiếm 1/5 tổng giá trị xuất khẩu của đất nước. Như một hệ quả tất yếu, thu hẹp sản xuất của Samsung gần đây gây thiệt hại cho việc xuất khẩu điện thoại của VN.

Đành là, có thể hơi quá để nói rằng, đầu tư của Hàn Quốc tạo ảnh hưởng lớn lên cách hành xử của VN đối với gánh nặng chiến tranh đè lên hai nước. Nhưng thật ra, các quan chức Hà Nội muốn ‘hạ nhiệt’ câu chuyện chiến tranh để đổi lấy sự hào phóng của Seoul từ trước tới nay.

Năm 2000, một đài kỷ niệm chuẩn bị khánh thành ở Hà My, một ngôi làng ở Quảng Nam có 135 thường dân bị lính Hàn giết chết năm 1968. Báo Guardian tường thuật, trước khi tượng đài thảm sát mở cửa, quan chức địa phương giải thích với người dân, có một số chỉnh sửa thiết kế theo yêu cầu của các nhà ngoại giao Hàn Quốc.

Các giới chức Hàn Quốc phản ứng một bài thơ khắc sau bia tưởng niệm, mô tả sinh động những gì xảy ra trong cuộc thảm sát năm 1968. Những năm sau 2000, Hàn Quốc trở thành nhà đầu tư chính ở VN, cũng theo Guardian, các quan chức Hàn đề xuất sẽ tài trợ xây một bệnh viện địa phương nếu bài thơ ấy được giấu đi. Phía Việt Nam nhượng bộ. Không có bài thơ, du khách chẳng hiểu chuyện gì xảy ra cho người lớn và trẻ em có tên khắc trong một bia mộ thật to. Nhà nhân chủng học nổi tiếng Hàn Quốc, ông Heonik Kwon, viết một cuốn sách về thảm sát Hà My, nhắc lại lời một người dân làng, sự che giấu đó “giết chết ký ức về những người bị giết”.

Chắc chắn chẳng có gì sai đối với một “Việt Nam nhìn về phía trước” khi giữ chặt quan hệ với Hàn Quốc mặc cho một quá khứ rối rắm. VN cũng thành công như thế khi quan hệ với Hoa Kỳ. Nhưng thúc đẩy quan hệ song phương bằng cách “phủ đường” (sugarcoat) lịch sử sẽ đi ngược lại bản chất “toàn diện” của một đối tác chiến lược mới, làm cho nền móng (quan hệ đó) thiếu bền vững.

Thực sự, hai quốc gia đang chuẩn bị cho 30 năm kỷ niệm ngày thành lập quan hệ ngoại giao, thời điểm chưa bao giờ chín muồi hơn cho một sự hòa giải.

Về phía Hàn Quốc, một điều đã quá trễ khi thừa nhận tội ác chiến tranh, một lời xin lỗi chính thức với nạn nhân người Việt Nam, bồi thường tài chánh mất mát cho những người còn sống sót, xây dựng đài kỷ niệm ở những vùng xảy ra thảm sát. Thành thật mà nói, không dễ dàng gì đối với Hàn Quốc phải thừa nhận mặt này – đặc biệt họ tự coi mình như người không được thừa nhận, hay thừa nhận chưa đúng, là nạn nhân của Nhật xâm lăng trong thời gian bị Nhật đô hộ. Nhưng, như Nam Hàn buộc Nhật Bản giải quyết tội ác chiến tranh, Hàn Quốc nên thừa nhận nạn nhân của họ ở Việt Nam.

Về phía Việt Nam, một đất nước mà giới trẻ phần đông không hiểu sự can dự của Nam Hàn trong tội ác chiến tranh – đây là lúc Hà Nội cần minh bạch hơn về một lịch sử chung, và tìm kiếm công bằng cho những nạn nhân còn sống. Nếu Hà Nội không áp lực hơn với Nam Hàn, bề ngoài cứng rắn đòi cắt bỏ loạt phim Little Women chỉ là sáo rỗng đối với quần chúng nhân dân. Ít nhất, nó cũng mang lại nỗ lực phần nào đòi hỏi sự hòa giải chính thức của Hàn Quốc. Còn không, nó được coi là một trò chính trị nhằm tránh trớ một sự thật rành rành mà Hà Nội không có khả năng đối mặt.

Bài đăng trên FOREIGN POLICY ((Mỹ) của Dien Luong (Lương Diễn?), nghiên cứu viên thỉnh giảng, viện ISEAS-Yusof Ishak, Singapore.

TA VÀ NGƯỜI

John Keats:

            “You are you and I am I.

            You are not in this world to live up to me.

            I am not in this world to live up to you.

            If by chance we meet, it’s beautiful”.

           (Bạn là bạn và tôi là tôi.

            Bạn sinh ra trên đời này không phải để sống vì tôi.

            Tôi sinh ra trên đời không phải để sống vì bạn.

            Nếu có cơ duyên chúng ta gặp gỡ nhau, đó là điều tốt đẹp)

            Những người bạn yêu dấu của tôi trên facebook, hầu hết không gặp mặt nhau, không biết nhau, không có một hoàn cảnh như nhau, tất cả cùng sẵn sàng chia sẻ những niềm vui, nỗi buồn, bàn bạc thế sự nổi trôi, trong một vũ trụ vô hình, một không gian bao la, lãng đãng như có mà lãng đãng như không.

            Tôi dịch đoạn thơ thành mấy câu lục bát, không trọn ý, chỉ một câu thứ hai mà đã “ôm đồm” hai câu thơ của bản tiếng Anh, với mong muốn mượn thơ nói lên nỗi lòng:

            Bạn là bạn, tôi là tôi.

            Không sinh ra ở trên đời vì nhau.

            Cơ duyên ý hợp tâm đầu.

            Đẹp sao không thể nơi nào đẹp hơn.

VIỆN SĨ VÀ “HÀN SĨ”.

Một quê hương, hai nẻo đường.

PHẦN I

Quê hương chỉ là cái tên trong quá khứ. Tôi không rõ, có phải làng, xã hay huyện, tỉnh, nơi mình chôn nhau cắt rốn mới có tên gọi quê hương. Đối với tôi, quê hương chỉ là cái tên Thường Đức, một địa danh không còn danh.

Người ta có thói quen gọi địa danh theo sở thích tiện lợi. Thường Đức (Quảng Nam) thành Thượng Đức – một địa danh có một lúc hai tượng đài chiến thắng cũng chỉ về một trận đánh lịch sử năm 1974. “Lịch sử” vì nó là một đơn vị hành chánh cấp quận được “giải phóng” đầu tiên ở miền Nam, mở màn cho trận đánh cấp tỉnh, rồi toàn nước ngày 30 tháng 4 năm 1975. Lịch sử vì nó là trận đánh “quân ta” hy sinh gần 1000 (chính xác là 921 người) binh sĩ tinh nhuệ cấp sư đoàn, dưới sự chỉ huy của một tướng lĩnh dày dạn trận mạc. Và “quân địch” không rõ là bao nhiêu ở đơn vị cấp quận. Xác chết một số người sau mấy ngày chiến thắng trôi lềnh bềnh trên mặt 2 con sông chảy qua quận lỵ; để khỏi thối, dân chúng phải dùng sào để đẩy thi thể sắc phục “lính” trôi theo dòng nước vô tình. “Lịch sử” còn một điều nữa: cứ mỗi năm vào tháng 3, dân chúng các làng đều chung một ngày giỗ cho thân nhân của mình, những người mất tích trong ngày “chiến thắng”.

Quê hương tôi bắt đầu bằng chữ Thượng – Lộc Thượng, cái chữ khiến người ta liên tưởng đến người Thượng, sống rất nhiều trong dãy Trường Sơn bao bọc các làng mạc, xóm thôn. Thượng để phân biệt với kinh (người ở đồng bằng). Sau này, dân tộc Việt lại vô tình có thêm dân tộc Kinh! Thời ông Ngô Đình Diệm, quê tôi thường tổ chức hội chợ (hồi ấy còn gọi là chợ phiên – không đúng lắm) triển lãm nông nghiệp trưng bày sản phẩm của người kinh lẫn người thượng; lúc nhỏ tôi thấy câu khẩu hiệu rất lớn ở giữa: KINH THƯỢNG MỘT NHÀ. Ý nói dân tộc miền thượng và dân tộc vùng xuôi đều là anh em.

Lộc Thượng gồm 3 xã ở thượng nguồn sông Vu Gia: Lộc Bình, Lộc Vĩnh, Lộc Ninh thuộc sự quản lý của quận Đại Lộc. Thời Pháp thuộc ba xã này gọi là tổng Đức Thượng thuộc huyện Đại Lộc. Thời Việt Minh, Đại Lộc đổi thành huyện Đỗ Ngọc Mai, tên của vị trí thức liệt sĩ tham gia chống Pháp đầu tiên bị thực dân sát hại. Thời ông Ngô Đình Diệm, ba xã trên cùng với một phần của quận Hiên (Tây Giang và Đông Giang ngày nay) và quận Giằng (Nam Giang) trở thành quận Thường Đức vào cuối năm 1957. Tại đây có đồn An Điềm (quân Mỹ đóng một thời gian để huấn luyện quân “biệt kích”), bây giờ có trại giam nổi tiếng cùng tên.

Vị trí chiến lược quận lỵ Thường Đức được chú ý từ thời Tây. Thực dân Pháp chú trọng vùng này vì từ đây, dân quân Việt Minh có thể đi qua Lào, vô Nam (ngả Kon Tum), ra Bắc (ngả Nam Đông của Khu Tư – Bình Trị Thiên). Họ lập ra đồn Hiên (gần khu du lịch Cổng Trời) để vừa kiểm soát người dân tộc vừa kiểm soát người Kinh lôi kéo người Thượng theo Việt Minh. Người Mỹ sau này cũng chú ý tới Thường Đức (với đồn An Điềm). Sau đó, nhận thấy sự quan trọng của đường mòn Hồ Chí Minh, với phương tiện dồi dào về vận chuyển, họ bỏ căn cứ này và lập căn cứ mới ở Khâm Đức, cách đó non 100 cây số (nay thuộc Phước Sơn). Khi mất Thường Đức năm 1974, quân đội Sài Gòn có kế hoạch chiếm lại nhưng bỏ dở vì “thời thế” không còn. Mỹ thật sự bỏ rơi miền Nam. Tái chiếm một quận lỵ để lấy lại tinh thần là điều vô ích. Đồi 1062 (ở Thường Đức) là trận thư hùng ác liệt nhất giữa hai quân đội chính quy tại Quảng Nam tính tới thời điểm ấy.

Ở một quê hương mà sự ác liệt của chiến tranh đem lại không biết bao nhiêu mất mát cho người dân quê mình - cả hai bên, mỗi lần về thăm mồ mả cha ông, lòng tôi luôn luôn trĩu nặng. “Giải phóng” hay “chiến thắng”, quê tôi vẫn là nơi thiệt thòi nhất, mất mát nhất, và đau thương nhất. Thời VM, tất cả kiến trúc văn hóa như đình làng (đình nhóm), đình trung, chùa chiền, miếu mạo, đền đài…bị phá nát vì “tiêu thổ kháng chiến”. Pháp ném bom thường xuyên vùng “tự do” của Việt Minh (tức quê tôi). Trước mặt nhà viện sĩ (nhân vật tôi sẽ nói tới) Đặng Huy Huỳnh là ngôi chợ Trúc Hà. Bom và súng “liên thanh” của máy bay Pháp sát hại hơn 20 người đi chợ. Thịt người trộn lẫn thịt heo, thịt trâu. Mẹ của viện sĩ nằm trong số người may mắn sống sót. Chị ruột tôi sắp đẻ cùng chết với mẹ và hai đứa em chồng trong trận bom cùng năm.

Thời “đánh Mỹ”, không một mái nhà nào còn khi xóm làng chìm ngập trong bom napalm và đạn pháo; dân được đưa vào các trại tạm cư thiết lập quanh trụ sở quận lỵ. Số khá giả khác thì tản cư ra Hội An hay Đà Nẵng. Đồng không, nhà mất, không tiêu thổ kháng chiến mà như tiêu thổ kháng chiến. Ngôi nhà ngói năm gian chắt chiu từ mồ hôi nước mắt của cha tôi nằm trong chảo lửa chiến tranh. Dù anh tôi là quan chức của VNCH, ngôi nhà người cha của anh  không khác ngôi nhà của những người theo cộng sản (rất ít): tan hoang.

Thời Pháp thuộc, người dân chỉ biết có ruộng đồng, núi rừng.  Đường đi từ “trung tâm” (nơi chợ Hà Tân bây giờ) đến tòa sứ (Pháp) ở Hội An thật thiên nan vạn nan: đi bộ hơn một ngày đường. Khi có chuyện bất công, chẳng ai muốn thưa kiện. Đi lại để hầu tòa vừa tốn kém vừa gian nan. Dân làng sống trong nỗi uất ức nếu có ông địa chủ hay cường hào nào đó ra tay bóc lột. Việc học hành còn gian nan hơn; nếu muốn lên…trung học thì phải ra Huế. Làng tôi có một (trong 2 người của tổng Đức Thượng) đỗ tú tài 2 trước 1940, sau này làm đến phó tỉnh trưởng. Quan huyện cho người đưa về tận làng bằng võng lọng. Dân làng mang trống chiêng ra đón tiếp. Chủ nhà mổ hai con trâu để thết cả làng.

Năm 1940, Pháp mới cho mở trường sơ, tiểu học Ecole de Đức Thượng; ngôi trường mượn chỗ dạy là đình trung (nơi hội họp và cúng tế) của làng tôi. Thầy phụ trách đầu tiên là ông giáo Xuân (ông ngoại của nghệ sĩ hài Hoài Linh). Nếu muốn thi tiểu học (gọi là primaire), thí sinh phải đi bộ chừng 15 cây số để dự học ở trụ sở huyện đường Đại Lộc (tức Phú Hương – còn gọi là huyện cũ). Vì nghèo, vì không có chỗ học hành thuận tiện, ở quê tôi trước 1945, nhà nào có con đỗ primaire nhà ấy là niềm hãnh diện đối với mọi người. Người đầu tiên đậu trung học (tức diplome) làm bí thư huyện thời Việt Minh là ông Quách Xân (có em ruột hiện nay là viện sĩ hóa học Mỹ, Quách Đăng Triều). Bí thư huyện hồi VM ở vùng tôi thường là thầy giáo có bằng diplome. Sự học rất cam khổ (vì không có trường lớp) nên thất học là chuyện “đương nhiên”.

Nhưng có hai người thuộc nhà nghèo nhưng không chịu “đương nhiên thất học”. Họ không đầu hàng nghịch cảnh: Ăn chưa no làm sao lo tới học. Đó là: viện sĩ khoa học Đặng Huy Huỳnh và “hàn sĩ” Lê Chi Tịch, đôi bạn (người 92, người 90 tuổi) ngày xưa học chung một lớp, cùng một ngôi trường, nhưng lại hai nẻo đi.

                                      (Hết phần I).

“Viện sĩ” và “hàn sĩ”.

PHẦN HAI

Chú ‘bộ đội’ Huỳnh: từng bước gian nan.

Sinh năm 1930 (giấy tờ là 1933), đỗ “primaire” năm mười bốn tuổi, Đặng Huy Huỳnh là học sinh xuất sắc trong số 4 đến 5 người đậu cùng khóa thi năm 1946 ở vùng quê Lộc Thượng, sau này là Thường Đức. Xuất thân trong một gia đình nghèo, có 5 anh em, mẹ thỉnh thoảng buôn gánh bán bưng, cha làm thợ may vá, thường gọi “Thập” Thanh; vì mỗi chúa nhật, ông giữ việc “xướng kinh” và cầm cây thánh giá trong các ngày lễ ở nhà thờ Trúc Hà (xây dựng năm 1926).

Anh trai Đặng Huy Thanh (1927) làm “quốc sự” (tham gia tổ chức chống Tây thời tiền cách mạng) trước khi VM “cướp chính quyền” tháng 8 năm 1945. Thỉnh thoảng thấy anh mình “viết” truyền đơn cho tổ chức, cậu Huỳnh chỉ nghe anh căn dặn “chớ nói với ai, kể cả với ba mẹ”. Đó là lần đầu tiên cậu bé hiểu “yêu nước” nguy hiểm thế nào. Cậu Huỳnh được phân công làm “đội trưởng” đội thiếu niên cứu quốc (làng Trúc Hà). Ông kể, việc làm của “đội trưởng” lúc ấy là, mỗi ngày, “chỉ huy” các bạn đi khắp làng, gom các hũ gạo tiết kiệm (gọi là “hũ gạo nuôi quân”) về giao cho thủ quỹ (gạo). Ông thích thú nhất là vinh dự được giữ chiếc nón lá đựng nhẫn, bông tai, vòng vàng…của dân làng cởi ra hiến tặng cho Kháng Chiến trong “Tuần Lễ Vàng”.

Học giỏi, ông còn hát hay và đóng kịch rất tự nhiên. Ở một vở kịch thiếu nhi diễn trong đình làng, lấy giấy bản màu vàng nhạt (dùng để gói thuốc bắc), cậu Huỳnh dán thành chiếc mũ ca-lô để đội, và thay vì cái xắc là khẩu súng làm bằng bẹ chuối đeo qua vai; hình ảnh đẹp đẽ như trong thơ Tố Hữu:

Ca lô đội lệch

Mồm huýt sáo vang

Như con chim chích

Nhảy trên đường vàng...

Là một vùng quê nghèo, VM bất ngờ xuất hiện, đem đến những đổi thay trước đây không có. Thay vì ra làng họp theo lệnh lý trưởng, dân chúng hồ hởi trong những buổi họp mỗi khi thấy có cán bộ Việt Minh. Xóa mù chữ là công lao của họ. Phong kiến và thực dân muốn cho người dân “mù chữ” để dễ bề cai trị. Cậu bé Huỳnh phấn khích đón nhận Việt Minh.

Tuổi 17, nhưng nhỏ thó, trông như 14, ông đăng ký vào “thiếu sinh quân”. Khám sức khỏe xong, bảy ngày sau có kết quả: Đặng Huy Huỳnh được “đăng lính”. Tôi hỏi, “thầy có ‘động cơ‘ gì không?". Ông cười, hàm răng giả rung rinh. Có động cơ gì đâu. Ông thấy lính VM thật dễ thương. Ở nhà nào, họ cũng lễ phép như con cái trong gia đình. Mẹ ông cũng được họ gọi 'mẹ'. Cha ông cũng như cha họ, những chàng trai vệ quốc đáng yêu. Họ dắt ông ra sông tắm. Lần đầu tiên ông thấy họ có cục…xà phòng (xà bong). Khi về, trên vai họ là đôi gánh với hai thùng nước. Ở quê, nước sông là nước sống. Có nước sông, có đời sống. Không ai đào giếng vì không đúc được bi giếng. Xi măng là từ ngữ không hề có trong tự vựng vùng quê thời ấy. Bộ đội gánh nước về cho nhà cậu. Theo họ là lựa chọn đúng.

Tôi hỏi thêm, ngoài lý do trên, còn lý do nào nữa? Ông nói, bà ngoại hay nhắc đến tên Nguyễn Ái Quốc, một người yêu nước, đứng lên lãnh đạo Việt Minh, đánh đổ Pháp, giải phóng nước nhà. Khi có tên đăng bộ đội, cha mẹ ông rất sững sờ. Vào lính làm sao thằng Huỳnh chịu nổi, “hắn ốm tong, ốm teo” mà. Anh trai ông là người “của tổ chức” thuyết phục gia đình “để nó đi”. Điều ông mong muốn đi bộ đội, rất thật thà, ông nói do bài hát của Đinh Nhu, truyền miệng rất phổ thông ở vùng quê thời mở đầu Việt Minh:

“Cùng nhau đi Hồng binh

Đồng tâm ta đều bước

Đừng cho quân thù thoát

Ta quyết chí hy sinh

Nào anh em nghèo đâu

Liều thân cho đời sống

Mong thế giới đại đồng

Tiến lên quân Hồng

Đời ta không cần lo

Nhà ta không cần tiếc

Làm sao cho toàn thắng

Ta mới sống yên vui”.

Kể đến đây, ông buột miệng hát, rất rõ ràng, rất mạnh mẽ, cùng người bạn đồng niên ngồi cạnh. Hai người tưởng tôi không biết bài hát này. Cha tôi là cán bộ VM từng hát cho tôi nghe với vẻ hồ hởi khi kể những câu chuyện trong những ngày đầu kháng chiến ở vùng quê, gọi là vùng ‘tự do’, phân biệt với vùng ‘bị chiếm’ (có Tây và quân đội ‘quốc gia’).

Những người cộng sản am hiểu tác động của âm nhạc từ rất sớm. Trong “kháng chiến chống Mỹ”, tôi được biết, nhiều người miền Bắc hăng hái ôm súng ra chiến trường “giết giặc” không màng mạng sống, chỉ vì những bài hát oai hùng, lẫm liệt, “giàu sức chiến đấu”. Họ nghe tuyên truyền không nhiều bằng những bản nhạc hùng tráng, thôi thúc thanh niên ra chiến trường “không tiếc máu xương”.

Ông Huỳnh nhớ lại với nụ cười thật thà, “hồi ấy, có biết yêu nước là gì đâu”. Nghe trúng tuyển ‘đi bộ đội’, dù là thiếu sinh quân, ông mừng và mất ngủ mấy đêm. Nhưng cha, mẹ rất lo lắng. Chỉ có ‘anh Thanh’ là ủng hộ. Anh Hai Việt Minh! Tưởng là đóng quân tại quê nhà, cậu bé Huỳnh không ngờ, sau ba tháng tập đi ‘một hai, một hai’, đơn vị ông theo đường Trường Sơn vào tận khu du kích Ba Tơ, Quảng Ngãi. Bộ đội phát cho ông hai bộ ‘quân phục’ (màu đen, vải xi-ta, dệt rất thô). Ông mừng tở mở khi xúng xính trong bộ đồ mới  còn thơm mùi vải.

Người cha đãi con trai một bữa mì Quảng (hồi ấy, rất ‘thịnh soạn’) duy nhất tại làng Đại Mỹ (sát trại giam An Điềm ngày nay). Chú bộ đội ‘con’ không ngờ đó là bữa ăn cuối cùng với người cha thân yêu. Và cũng là lần cuối cùng, ‘chú’ không còn gặp ai nữa trong gia đình: mẹ mất năm 1966; ngoài em trai út, cha, anh hai, và hai em của cậu đều mất trong thời gia xảy ra trận đói kinh hoàng năm 1947, chỉ sau một tháng Huỳnh rời khỏi quê nhà.

Mùa lúa mất sạch, liên tiếp hai vụ. Vì là vùng đất đai trù phú, không ai trồng màu để ăn thay gạo. Lúa bị ‘bù lạch’ (một loại nấm) “ăn” sạch. Hầu hết nông dân không dự trữ nhiều lúa thóc. Người ta vào rừng đào củ ‘nần’ để nấu ăn cứu đói (loại củ rừng to như bắp chân).

Nhiều người ở nơi xa, tản cư, kéo đến vùng trồng lúa để kiếm ăn. Không ngờ, người trồng lúa có kẻ cũng chết đói như họ. Ngày nay, vẫn còn nhiều nấm mồ vô chủ chôn dọc đường đi, gọi là mả ‘thí’, không ai nhang khói. Củ nần luộc bỏ nước đôi ba lần mới ăn. Nhiều người không biết, luộc ăn ngay, có người mất mạng vì ngộ độc. Nhiều gia đình phải đào cả củ chuối chát (chuối hột) trong vườn để luộc ăn thay cơm. Thỉnh thoảng đôi ba hôm, trâu trên đồng bị đạn từ máy bay bắn chết (Pháp muốn tiệt đường sản xuất), người ta xẻ thịt ăn thay cơm. Đói cũng chết nhưng no cũng chết. Có người mất mạng do đói ăn năm bảy ngày, sau lại ăn thịt thay cơm, quá nhiều.

Theo bộ đội, tuy tập luyện vất vả, cậu Huỳnh không phải chịu cảnh đói ăn như gia đình tại quê nhà. Một thời gian ở Ba Tơ, cậu và một số ‘học sinh’ có bằng primaire được chọn qua Lào…hoạt động Vê Tê Troa (VT trois: V và 3 chữ T: Võ Trang Tuyên Truyền. Cụ gọi theo tiếng Pháp). Trước khi đi, ông Phạm Văn Đồng, lúc ấy phụ trách vùng Trung bộ, dặn dò: Tuyệt đối coi người Lào như ruột thịt; coi cây cỏ, ngọn rau của họ như cây cỏ ngọn rau của VN. Cụ nói, chính vì thế, những năm sống trong rừng núi Lào để lôi kéo người dân bản địa tham gia chống Pháp, ông và đồng đội không bao giờ động đến ‘cây kim sợi chỉ’ của họ. Dù có khi đói, đơn vị ông không bao giờ dùng vũ khí để giết thú rừng ‘cải thiện’ bữa ăn như sau này ở Trường Sơn trong chiến tranh đánh Mỹ.