Saturday, December 2, 2023

BÀI CHÒI

Ngày xưa, mỗi lần đón Tết, dân làng tổ chức chơi bài chòi. Bài là quân bài (32 con) và chòi là chỗ ngồi người chơi. Có thể gọi: đánh bài chòi, hát bài chòi, hô bài chòi và chơi bài chòi.

Chòi có sàn cao hơn đầu người và bậc thang leo để ngồi; chòi làm bằng tre lợp tranh (mỗi mái 2 tấm) chia thành 2 dãy, mỗi dãy 5 cái. Chính giữa là chòi hiệu (chòi tổng), nơi đặt trống và một cây tre, cao quá đầu, trên cùng là ống chứa 32 thẻ tre dan hình 32 quân bài, có tên như học trò, nọc thược, bạch tuyết, thái tử…Mỗi chòi có một hay hai người chơi (hùn tiền mua).

Mỗi người mua một cây bài là một thẻ tre to có dán 3 con bài, tương ứng với 3 trong 32 con của chòi tổng. Mỗi lần hô, sau một tiếng trống, người chạy hiệu, tay cầm lá cờ và một con bài mang đến cho ai có bài trùng tên. Ba con liên tục trùng tên với thẻ mình đang có, người chơi sẽ thắng (gọi là tới). Bài do vậy còn có tên “bài trùng”. Một hồi trống vang lên thật dài, thật to, trong tiếng reo vui của người vừa “tới”. Tiền thưởng bằng số tiền 10 chòi mua trích lại 1/10, 100 đồng sẽ để lại 10 đồng cho chòi tổng, tức người tổ chức.

Cái hay của bài chòi không nằm ở chỗ thắng thua. Nó hay ở chỗ “hô” bài chòi. Người hô thuộc rất nhiều bài thơ, bài ve, điệu hát. Trước khi công bố tên con bài sẽ có một bài như thế xướng lên. Người chơi nhiều, chơi quen, sẽ hiểu bài ấy ám chỉ một tên của quân bài trùng. Người ngồi trên chòi sẽ gõ tiếng mõ để anh hiệu biết, đến kiểm tra trước khi trao cờ.

Tiếng hô bài chòi rất to và lảnh lót, nhưng cũng có lúc trầm bổng, có lúc du dương, có khi khoan, có khi nhặt… Khi thấy các chòi ở tình trạng sắp có kẻ tới, tức ai cũng “thủ” 2 chiếc cờ, người hô sẽ từ tốn, đĩnh đạc, tìm một bài hát hay bài thơ dài, một cách ’câu giờ’ trong bóng đá, để bàn thắng thêm hồi hộp, thót tim, và hấp dẫn.

Tiếng còi của trọng tài vang lên dứt khoát không khác chi câu cuối của bài hát cho biết chiếc cờ thứ ba, tức cúp vàng sẽ về chòi nào. Tiếng trống chòi tổng giục lên liên hồi trước khi vang một hồi dài chấm dứt. Tiếng mõ ở chòi thắng vẫn còn nghe gõ đều, như tỏ bày niềm vui không muốn dứt.

Một anh hiệu trang phục như lính triều đình sẽ mang đến người “tới” số tiền trong một chiếc khay cẩn xà cừ, bên cạnh là mấy miếng trầu trong đĩa cho người thắng là bà, hoặc một ve rượu với chiếc ly cho người thắng là ông. Số tiền thắng sẽ để lại một hai đồng cho ban tổ chức. Nhà quê chưa hẳn quê, họ đâu thua người Mỹ, cho tiền tip như ai. Đương nhiên ông bà cao tuổi rất thích tham gia chơi bài chòi, sẵn sàng thưởng cho người hô bài chòi tài năng với 1,2 đồng khi mình may mắn.

Dù ván chơi kéo dài có khi nửa tiếng chưa có ai tới, cụ ông cụ bà vẫn thích, thích nghe “hô” bài chòi. Ông ‘tổng’ nào có tài ứng tác trong khi hô bài chòi luôn luôn là thần tượng của dân làng, không hẳn dân chơi bài chòi. Mà có cả trẻ con chúng tôi, hồi ấy, rất "nghèo" trò chơi Tết, ngoài đánh bi, đánh sấp ngửa (quay đồng xu) ăn “dây thun” (cột túi ni lông ngày nay) trong mấy ngày Xuân.

Làm chòi là công sức của cả dân làng, có khi cả tuần mới xong nhưng thời gian chơi bài chòi chỉ giới hạn trong ba ngày Tết. Chơi lấy vui, lấy hên, lấy lộc đầu năm. Chẳng hạn tới cờ có con “mỏ đỏ”, người chơi sung sướng như lên tiên, cả năm sẽ đỏ. Hay có con thái tử, người chơi sẽ mong con cháu họ trong năm sinh đặng con trai nối dõi tông đường.

Nhưng nghe hô bài chòi là chính, nhất là những bài ứng tác hay xuất khẩu thành thơ, thơ bài chòi. Ứng khẩu theo hứng khởi tạo cái hay đồng thời tạo bất ngờ, không ai đoán con bài gì sẽ ra.

Ngày nay, bài chòi có người già chơi không, như ở Hội An tổ chức mỗi tối trong mùa du lịch? Khách du lịch tham gia bài chòi theo kiểu ’chơi cho biết ‘, trải nghiệm cái gọi là văn hoá dân gian của người Quảng Nam. Chòi cũng làm bằng tre nhưng rất công kỹ, mái, sàn, trang trí đẹp đẽ với nhiều màu sắc của ánh đèn màu rực rỡ.

Các bài hát, bài thơ (hầu hết là lục bát hay song thất lục bát); nếu để ý, quý vị sẽ thấy không bài nào được ứng tác theo tình huống của trò chơi, tạo kết quả bất ngờ không ai đoán được, dù ý nghĩa của các bài hát chòi đa dạng, vui, tươi, giễu, nhại…đủ cả. Bài chòi theo một mô-tip nhất định. Khán giả chỉ tò mò tham gia, tò mò nghe người Quảng hát giọng Quảng. Họ không còn hứng thú như ông bà chúng tôi, mong cho mau đến Tết, để “chơi “ bài chòi, để nghe “hô” bài chòi. Có lẽ đó là lý do bài chòi trở thành trò chơi nhiều hơn là trải nghiệm văn hoá dân gian. Không tin, quý vị hãy quan sát Tây... chơi bài chòi. Họ biết con bài ra, người hiệu giương một cái bảng to tướng, nhờ trùng với con bài họ đang giữ, và mấy âm giọng Mỹ “en- ếch-wai- en-ji- ếch-i-âu” (nhi ngheo- nhì nghèo). Đố ông Tây bà đầm nào hiểu các bài thơ bài hát chỉ dấu cho con bài nào.

CƠM HẾN HUẾ

Mỗi vùng có mỗi món ăn “đặc sản”, Quảng Nam tôi nổi tiếng duy nhất mỳ Quảng, Nha Trang có chả cá, Hà Nội có phở…nhưng không nơi nào nhiều món ăn nổi tiếng như Huế.

Chả là nơi ở của vua chúa mấy trăm năm, các món ăn hẳn phải quý tộc, nghĩa là độc đáo “không nơi nào có được”. Có thể các món ăn đậm đà Huế, cùng với sông Hương, núi Ngự…hun đúc trong con người Huế sâu đậm đến nỗi nơi này có rất nhiều văn sĩ, thi sĩ, nhạc sĩ, họa sĩ, kể cả bác sĩ…rất nổi tiếng. Nhưng nổi tiếng nhất trong các thứ nổi tiếng là món cơm Hến (viết hoa, để tỏ lòng quý trọng).

“Đờn ông” các bác sao không biết chứ đờn ông tui: trẻ ham kiếm vợ đẹp (đã toại nguyện) già ham ăn…ngon (đang kiếm tìm). Món ngon rất khó định nghĩa cũng giống tiếng Việt khó học đến độ “phong ba bão táp không bằng ngữ pháp tiếng ta”.

Đối với tôi, tiêu chuẩn hơi kỳ cục là chọn món ăn mình gọi ngon phải là giọng nói của người nấu món đó. Tôi sẽ vào tiệm nào chủ quán và nhân viên nói tiếng Bắc nếu ăn phở, tiếng Quảng nếu ăn mỳ Quảng, tiếng Sài Gòn nếu ăn hủ tiếu và lẽ đương nhiên, tiếng Huế nếu ăn cơm hến. (Trừ trường hợp duy nhất, không nên ăn hủ tiếu Nam Vang khi đến Campuchia, rất tệ, tiệm quảng cáo “ngon nhất” ở đó sau tôi mới biết người chủ đến từ Thành Đô, Trung cộng).

Tôi sẽ không tả cơm hến gồm những thứ gì vì mọi người đều có thưởng thức qua. Cái tôi nhận xét là tất cả các món Huế, kể cả cơm hến, đều chứa nhiều loại thực phẩm trong mỗi món ăn, đặc biệt “mỗi thứ một chút”, không “tràng giang đại hải” như bát rau sống ăn kèm ở miền Nam. Mỗi chút, mỗi chút nhưng tất cả đều có hương vị riêng, hết sức đậm đà. Món Huế đa phần đều cay, càng cay càng ngon. Lý do người Huế thích ăn cay, có lẽ vì thời tiết ở đây nhiều tháng mưa dầm, không khí se lạnh, hơi cay hơi nồng của gia vị, nhất là ớt, làm lòng người Huế ấm lên; tất nhiên, nếu có vợ Huế, các bạn sẽ thấy họ rất hay ghen, ngấm ngầm nhưng dữ dội, theo nhận xét của tôi, vì họ ăn nhiều ớt quá. “Ớt nào mà ớt chẳng cay. Gái nào mà gái chẳng hay ghen chồng”. Ghen là gia vị đâu khác món ớt, làm tình yêu lứa đôi, chồng vợ nồng nàn hơn.

Món ăn Huế thưởng thức phải trong không gian rất Huế: người chủ phải có giọng Huế (bắt buộc), nếu là chủ phái nữ (tôi rất ghét vào quán ăn ngon toàn đàn ông phục vụ), mái tóc không uốn quăn, không đờ-mi gác xông (giống trai), cột bằng một bím tóc màu tím. Áo họ mặc sẽ là màu tím Huế. Tím thì của chung nhưng màu tím Huế có chiều sâu văn hóa riêng, cũng như phố thì có phố Phái (Bùi Xuân Phái vẽ về Hà Nội). Ít nhiều nơi ăn phải có vài bụi trúc nho nhỏ, đôi giò lan, mấy bức tranh của các họa sĩ đất thần kinh và nhạc, phần không thể thiếu, cất lên nhè nhẹ, trầm lắng, không xô bồ, ầm ĩ, có nhạc Trịnh Công Sơn không lời thì đúng là quán Huế.

Trong lúc thưởng thức món cơm Hến, các bạn sẽ thỉnh thoảng được cô gái nền nã, trong cánh thun màu tím Huế, hỏi han, bằng một giọng nói không lẫn, không pha, không trau chuốt, nguyên gốc Huế. Đôi khi ăn món cơm hến lặng lẽ cũng mất ngon nếu không điểm xuyết vài tiếng Huế ấm áp, thân tình, hồn hậu.

Nhiều người Việt ở nước ngoài khá lâu về nhận xét dân ta nói nhiều, rất ồn trong lúc ăn. Họ đâu biết ăn cũng cần có âm thanh, ngoài màu sắc, hương vị món ăn. Trần Văn Khê tâm sự mỗi lần đi ăn món Việt ở Pháp, ông giáo sư ít rủ bạn tây ăn cùng, vì sợ chúng chê ông ăn…kêu to quá. Chả là ông bảo, bưng tô bún ăn gần hết lên kê miệng húp sồn sột, nghe mới đã, mới ngon; ăn nhỏ nhẻ, từ tốn, miệng không mở môi, nó sao sao ấy, không ngon. Cơm hến tất nhiên không húp kêu như thế nhưng bát (gọi theo người Bắc - cái chén) nước hến không có, và người ăn không…húp thì thà đừng đi ăn cơm hến. Món mỳ Quảng truyền thống không ăn bằng muỗng, chỉ bằng đũa, không múc nước nhưn (nước dùng, nước lèo) mà bưng tô lên húp…Húp “quê quá hỉ” nhưng các bạn thấy ông Trần Văn Khê có quê hơn chúng ta không?

Bát nước hến luôn nóng, nghi ngút khói; nếu ở Huế mùa đông, người ta có thể quan sát hơi nóng bay lên rất rõ, mang theo một cái mùi đặc biệt không có mùi thơm nào so sánh. Hơi nước hến nóng như là hơi thở cực nhọc của những người dân nghèo, sống bằng nghề cào hến thời xa xưa. Cào hến không phải là nghề giản dị như cấy lúa. Những con sông rộng, có những bãi cạn gần bờ, những đàn hến lẫn khuất trong cát và bùn non, được vớt lên bằng một dụng cụ gọi là cái đủi (đuổi?) xúc hến. Đất, cát, rong, cỏ…lẫn với hến. Một vài động tác tiếp theo, hến sẽ ở riêng ra, người xúc bỏ chúng vào giỏ đựng. Người làm nghề cào hến luôn ngâm mình dưới nước, cả những mùa đông giá lạnh, quanh năm suốt tháng. Hến là món ăn bình dân, rẻ tiền, thích hợp với những người nghèo lao động, không như bây giờ cơm hến thành “đặc sản” không phải ai cũng có dịp thưởng thức.

Công đoạn cho các thao tác hết sức nhiêu khê để có những con hến nho nhỏ chúng ta ăn với cơm nguội rời, có rau thơm các thứ, nhưng không thể thiếu ruột bạc hà bào nhỏ thành sợi như giá (một loại môn ăn sống).

Tại sao ăn hến với cơm nguội mà không ăn với cơm nóng? Không đơn giản là ăn vậy mới đúng điệu sành ăn. Thời xưa, dân lao động đâu có “ngày ba bữa, đỏ lửa ba lần” mà luôn có cơm nóng. Những con hến có được buộc phải trộn với cơm dù cơm đã nguội. Món sushi gì đó của Nhật cũng được ăn với cơm nguội. Tập quán của người nghèo cào hến, ăn hến, bán hến cho người khác ăn, đơn giản từ đời này sang đời khác, thấm vào dòng máu; ăn hến với cơm nguội thành một nếp “văn hóa”, “truyền thống”, món ăn nào không có hai thứ ấy, dẫu cao lương mỹ vị chắc chắn cũng không ngon.

Có một chiều sâu, có một câu chuyện, đi kèm một món ăn, món ăn sẽ đi theo ta cả cuộc đời: ăn để nhớ thuở hàn vi, ăn để nhớ thời thiếu thốn, cùng với những người thân trong gia đình, người còn người mất, món ăn nào thấm đượm,ý nghĩa, và ngon miệng hơn?

Những con hến và những bát nước hến là hình ảnh nhắc nhớ thuở xa xưa, khi ăn lại, hay thưởng thức nó, quá khứ như hiện về, những người thân hiện ra…Ngon là chỗ đó. Chúng ta ăn với kỷ niệm, ăn với những tháng ngày xa xưa thời niên thiếu.

Món cơm hến thật đơn giản, nếu không nói khá “thô sơ”, đi vào tâm trí tôi những ngày tháng chiến tranh ở Hội An. Một thành phố gẫn gũi nhiều con sông, nơi người ta sinh sống bằng ghề cào hến. Họ nghèo mới đi làm nghề cực khổ là cào hến và lũ trẻ con chúng tôi, nạn nhân chiến tranh tản cư khỏi vùng cộng sản, cũng nghèo nên mỗi bữa sáng, nghe tiếng rao lảnh lót, quen thuộc, của một người phụ nữ như tuổi mẹ mình “hến không, hến không”, lòng mừng khấp khởi, sẽ có một bữa ăn chút nữa đây: một chén vun con hến trộn hành lá, ớt màu đỏ thái nhỏ, và một ít ngò rí rất thơm, ít đậu phụng rang giả bể rắc lên, kèm theo một tô nước hến rõ to nóng khói nghi ngút, giá chỉ có một đồng, tương đương một cây cà-rem Hương An ( tên tiệm kem), tôi quên kể, người bán còn “khuyến mãi” một cái bánh tráng nướng to tướng, lốm đốm hạt mè vàng thơm lựng nếu mua 2 chén hến. Tôi thích ăn cơm hến vì thời thơ ấu đã sống với những chén hến nghèo khổ kỷ niệm Hội An.

Nhưng tại sao lại cơm hến Huế, đó là điều bí mật, tôi không thể kể, bởi cơm hến thường không ai chế biến ngon bằng người Huế và sâu xa hơn, đâu phải cô gái nào trên đất nước này có giọng nói ngọt ngào như giọng cô gái Huế.

“Học trò xứ Quảng ra thi.

Thấy cô gái Huế chân đi không rời” (Ca dao). Các cụ đồ còn mê giọng giai nhân xứ Huế huống hồ gì tôi, đi ăn cơm hến Huế, ngoài chuyện hoài niệm, phần khác chỉ để được nghe giọng cô gái Huế của dòng Hương giang. Rứa thôi.

XÓA HẾT

Tôi ít khi viết bài phê phán cá nhân trừ những trường hợp quá đặc biệt, chẳng hạn lần này về Trần Long Ẩn, vì câu nói hay ý nói của ông: “Toàn bộ nền văn học nghệ thuật miền Nam trước 1975 là độc hại, cần phải xóa bỏ hết”.

Bây giờ, trên mạng tin thật và tin giả lẫn lộn khó phân, tôi nghĩ đây có thể không phải câu nói của một người trưởng thành trong nền giáo dục VNCH (ông học trường công giáo La San, Qui Nhơn và đại học văn khoa Sài Gòn). Vì mấy lý do như sau:

• Trần Long Ẩn là một nhạc sĩ, không phải là nhà phê bình văn học tiếng tăm, nhận định của ông về một nền văn học như thế là hồ đồ, nếu không nói là sai quấy. Ông cũng không phải là người phụ trách văn hóa, văn học, nghệ thuật… đầy quyền năng. Văn học, nghệ thuật miền Nam ông hiểu gồm những gì, nếu không phải là tác phẩm văn học, nghệ thuật như âm nhạc, hội họa, điêu khắc…

Những tác phẩm ấy độc hại, tại sao lãnh đạo văn hóa, văn học, nghệ thuật của ông cho in lại, cho phát hành lại, phổ biến lại, một số tác phẩm tiêu biểu ở miền Nam? Họ không có trí tuệ bằng ông hay sao? Trí tuệ ông siêu việt hơn họ hay sao?

• Văn học nghệ thuật miền Nam trước 1975 nghĩa là sao? Từ khi xuất hiện nền văn học phôi thai ? Những tác phẩm của Trịnh Hoài Đức, Nguyễn Đình Chiểu, Trương Vĩnh Ký, Hồ Biểu Chánh… có nằm trong “bản án” của Trần Long Ẩn hay không? Nếu cẩn trọng, phải nói gói gọn thời gian nền văn học xuất hiện và phát triển. Câu nói của ông có thể thể tất nếu do ông đang uống rượu quá say, trên vỉa hè, sôi nổi lên án "ngụy quyền" Sài Gòn trong đám bạn nhậu của ông, chứ không thể là câu kết luận nông nổi, đầy cảm tính, và rất hời hợt,  gây chấn động, trên mạng người ta đang bàn luận xôn xao hổm rày.

• Nền văn học, nghệ thuật độc hại, tôi nghĩ ông ám chỉ “văn hóa đồi trụy phản động của Mỹ-Ngụy”, sau 1975 đau đớn với cảnh tịch thu sách, đốt sách, một số tác giả tiểu thuyết, văn học…đi vào chốn lao tù, thân phận trí thức trở thành thân phận những tù nhân chính trị. Nền văn học nghệ thuật đó không giống nền văn học nghệ thuật miền Bắc cùng thời gian: nó không được ai “lãnh đạo”, nó không có định hướng, không mang nhiệm vụ chính trị nào. Trần Long Ẩn xuất thân từ đại học văn khoa hiểu rất rõ điều đó. Như vậy, có thể nói nền văn học từ nhân dân mà sản sinh ra chứ không phải được chính quyền VNCH chỉ đạo thực hiện cho nhiệm vụ tuyên truyền.

Nếu nền văn học, nghệ thuật đó độc hại, hóa ra những công dân tác giả đẻ ra những tác phẩm hình thành nền văn học nghệ thuật, tất cả đều độc ác? Độc ác mới đẻ ra độc hại.Nguyễn Hiến Lê, Giản Chi, kim Định, Lê Hữu Mục, Bùi Giáng, Phạm Công Thiện, Thanh Lãng, Tô Thùy Yên, Thanh Tâm Tuyền, Trịnh Công Sơn, Phạm Duy…và những nhân vật đáng kính khác, tôi không nhớ hết, am hiểu hết, vì tôi không phải là nhà nghiên cứu, đều là những người sản sinh ra những tác phẩm độc hại, trong một nền văn học nghệ thuật độc hại?

• Chiến tranh đến với dân tộc này có thể nói là liên miên và hết sức ác liệt. Sau chiến tranh đánh nhau thời Trịnh-Nguyễn, có ông nào ở Thăng Long bảo rằng nền văn học nghệ thuật Đàng trong đáng phải bị xóa bỏ vì nó thù địch, hay ngược lại, có ông nào ở Phú Xuân, Huế, bảo nền văn học Đàng ngoài cần xóa bỏ vì nhà Trịnh đem quân vô đánh nhà Nguyễn không thôi?

Hình thái chính trị thay đổi, chế độ thay đổi, chủ nghĩa nay còn chưa chắc mai không mất, nhưng đất nước và nhân dân không bao giờ thay đổi. Sản phẩm của đất nước, của nhân dân, “nền văn học, nghệ thuật” ấy cũng trường tồn cùng dân tộc, trừ trường hợp nền văn học đó, nền nghệ thuật đó, chỉ có tính cách minh họa, tô hồng, nhất thời, không phản ảnh những giá trị nhân bản, sâu thẳm của tâm hồn, có chiều sâu văn hóa dân tộc.

• Gần nửa thế kỷ, vết thương chiến tranh còn chưa lành, lòng người Nam Bắc chưa hẳn tất cả đã bao dung, yêu thương, đoàn kết, tuyên bố như vậy khác chi cầm lưỡi dao sắc cứa sâu vết thương đau đớn vẫn còn. Tâm địa người nói ra câu đó thế nào, ở đây không xét về mặt học thuật, nghiên cứu, vì người nói không xứng đáng thuộc hạng ấy, khi nhận định một vấn đề quá lớn với một câu kết luận nông cạn, cảm tính nhất thời, gây bất bình và chia rẽ, không chỉ trong những người trưởng thành ở miền Nam thời VNCH mà cả những người học thức, lương tri, trưởng thành trong chế độ XHCN miền Bắc.

Nếu không kết luận người nói câu này thuộc hạng “ăn cháo đá bát” thì cũng không đúng. Đâu có thiếu những người trưởng thành trong chế độ cũ, hoạt động cách mạng lâu dài, không hề có ai nổi tiếng trong số họ có một câu kết luận “sắt máu” như thế. Nhà trường VNCH nuôi dạy ông, tạo điều kiện cho ông trở thành một nhạc sĩ tiếng tăm, để ông hoạt động cách mạng, trở về “giải phóng” nơi ông học là trường đại học văn khoa, nơi ông ở với tuổi thanh xuân hoa mộng là Sài Gòn, sau khi vô bưng chịu cực khổ chỉ có 3 năm từ 1972 đến 1975; so với những nhạc sĩ, nhà văn, nhà thơ, mấy chục năm theo cách mạng, có người bỏ xác nơi chiến trường, ông có bằng họ không và họ có tuyên bố hùng hồn như ông không? Với danh vọng xênh xang chủ tịch hội nọ, hội kia, ông không có gì xuất sắc về âm nhạc như Phạm Duy hay Trịnh Công Sơn ngoài duy nhất một bài hát “Một đời người, một rừng cây”. Nhiều người yêu bài hát và yêu ông nhưng nay, không biết trong lòng họ có còn giữ những tình cảm vô tư, trong lành ấy nữa không, tôi không rõ. Nói tóm lại, chỉ có một câu nói thôi, ông tự đổ đi những tình cảm của những người “mến mộ” dành cho bài hát rất hay của ông.

Và tôi không tin chính ông nói ra lời:“Toàn bộ nền văn học nghệ thuật miền Nam trước 1975 là độc hại, cần phải xóa bỏ hết”;  nội hàm câu nói đó chỉ có thể của người không văn hóa, không có tình người, không bao dung, và sâu xa hơn, đó là câu nói của một người không yêu nước, người ấy vẫn còn thù oán, luôn muốn trả thù, có tâm địa chia rẽ đoàn kết dân tộc này, chưa nói đã xúc phạm những người làm văn học, nghệ thuật còn sống hay đã chết, những người đã hình thành ra nền văn học nghệ thuật mà ông rắp tâm xóa bỏ.

Và liệu có xóa nổi không?

NHẬN XÉT TRONG HỌC BẠ: Tương lai học sinh

Tôi lại không thích mừng Ngày nhà giáo. Tôi thích mừng nhà giáo nhân ngày 20 tháng 11.

Nhìn vào hình trích dẫn bên dưới, quý vị sẽ thấy lời phê của 2 giáo viên. Tôi thích gọi giáo sư trung học, như trước 1975, ở Sài Gòn. Xin lạc đề một chút. Mấy thằng thầy cúng tào lao cũng có tên pháp sư. Đánh võ giỏi, dạy môn sinh, gọi là võ sư.  Một sinh viên học sư phạm, tức giáo dục, đại học (4 năm) không đáng gọi giáo sư (trung học)? Chưa kể, sinh viên học kỹ thuật 4 năm, gọi là kỹ sư. Tốt nghiệp giáo dục thì nhận cái tên "giáo viên", nghe tội nghiệp quá!.

Lời phê quý vị thấy có 2 ý chính cần nêu ra, cái phụ, thôi bỏ đi: chê bai học sinh và xem mê đọc sách là tính xấu (kỷ luật chưa cao). Gạt qua trình độ nhận thức của 2 giáo viên, không trách họ được đào tạo nặng thành tích, "ai cũng phải khá, giỏi" (kém toán, Anh là..."sỉ nhục"!), kỷ luật phải trên hết, trên cả "mê đọc truyện" (sách), chúng ta nên để ý "tác động" của lời phê ở đây trở thành "tác hại" trong suy nghĩ của học sinh cầm cái học bạ này hành trình cả chục năm ở học đường, thậm chí, cả cuộc đời, mỗi khi lấy học bạ hồi còn trẻ ra để hồi tưởng thời đi học.

Monday, November 6, 2023

Chùa CŨ khác chùa MỚI ?

Thiền viện BẢO CHÂU, Hội An, nằm cạnh chùa Phật giáo “nguyên thủy” Theravada trên đường đi bãi biển Cửa Đại; ngôi chùa trông khá đơn sơ so với hầu hết các ngôi chùa khác ở Hội An.

Nhưng nó không đơn sơ chút nào đối với tôi, vì vị trụ trì chùa sư cô Giải Thiện, tức cô Bê, là bạn học cùng lớp với tôi khoá tú tài 1972. Bạn cùng học khác là sư cô Hạnh Phước, tức cô Tân, phó trụ trì chùa Viên Chiếu tỉnh Đồng Nai.

Do ảnh hưởng tiểu thuyết Hồn Bướm Mơ Tiên của Khái Hưng, lớp học sinh chúng tôi rất có thiện cảm với các…ni cô. Hai ni cô trên lại…xinh xắn, mới “ác” chớ. Chúng tôi liên tưởng mối tình trong sáng, thánh thiện, giữa Ngọc và Lan, một sinh viên và một ni cô (giả làm chú tiểu). Hai ni cô cùng lớp là hình ảnh của Lan trong tiểu thuyết. Tuy nhiên, do cả hai không bao giờ giao tiếp với học sinh nam, nên lũ nghịch ngợm chúng tôi không dám “hó hé” chọc trêu (dù “nhứt quỷ, nhì ma, thứ ba học trò”). Tất cả chúng tôi chỉ lợi dụng lúc hai cô trả bài hay đi vào sân trường, là trố mắt ra nhìn (công khai).

Một lần tôi hỏi sư cô Hạnh Phước, có gương mặt thanh tú hơn lúc còn là tên Tân , khi cô bước vào tuổi 60. “Có lúc nào cô lay động trước một chàng đẹp trai khi cô còn đang đi học.”Cô mỉm cười: “chưa hề”. Sư nói những ai phát nguyện đi tu lúc 9, 10 tuổi, dù sau này có xinh đẹp, họ cũng không bao giờ nghĩ ngợi gì ngoài kinh kệ và tu hành. Và sư nói thêm, những ai thất tình, đau khổ, rồi xuống tóc đi tu, họ sẽ phải tự động rời chùa, không chóng thì chầy. Tu cần có căn duyên. Tôi chẳng hiểu mô tê nhưng thấy rằng, 60 năm nay, qua rất nhiều biến cố, một số chú tiểu bạn tôi có người ra đời cưới vợ thì hai ni cô xinh như Lan trong tiểu thuyết trở thành hai vị tu sĩ đáng kính, phụ trách hai ngôi chùa có hằng mấy trăm ni (Viên Chiếu).

Là tín đồ Ky tô giáo, tôi lại “có duyên” với Phật giáo khá nhiều. Lúc tỵ nạn chiến tranh, là học sinh vùng quê, tôi học không ra gì; tha thẩn từ sông ra đồng ruộng, tắm sông, sắm ná bắn chim là chính, nên không thi đỗ vào trường công lập, buộc phải học trường tư thục Bồ Đề.

Do học khá rồi giỏi, tôi có một số bạn yêu mến đó là các chú tiểu trong chùa. Và sau này là hai ni cô kể trên, khi tôi được tuyển thẳng vào trường công lập Trần Quý Cáp nhờ đứng thứ hạng cao (từ 1 đến 3 thì phải). Gác chuông và gác trống của chùa Pháp Bảo (chùa Tỉnh hội) là nơi tôi và các chú tiểu leo lên đó để…ôn bài, chỉ bài tập cho nhau. Có lần tôi cũng được “chọn” làm người gõ khánh, một dụng cụ ngắt câu kinh của một hồi tụng (lâu quá, không rõ có phải thế không).

Friday, November 3, 2023

NHƯ CỔ TÍCH

Chú voi biểu tượng (hình) ở đất nước Kenya vừa mới qua đời, tuổi phỏng đoán từ 60 đến 65. Voi ở Việt Nam còn lại bao nhiêu con? Tôi không rõ. Nhưng ở vùng quê “cổ tích” của tôi (Tây Quảng Nam), chúng nhiều đến nỗi làm sợ hãi dân làng. Đi thành bầy, thường xuyên, chúng xuất hiện phá hại lúa ở những thửa ruộng sát bìa rừng (ruộng lúa gieo cấy bằng nước “trời” - nước mưa, nước khe suối). Đó là những năm tôi chưa sinh ra. Đầu thế kỷ 20 khi núi rừng còn là thế giới huyền ảo, cọp gọi là “ông Hổ”, voi gọi bằng “ông Bồ”.

Không sợ hãi chúng, một nông dân gan dạ - ông Bốn- rắp tâm “trả đũa”. Dựa vào thói quen voi đầu đàn hay cạ mình vào thân cây ‘dừng’ (lộc vừng) cổ thụ, gốc hai người ôm khi ‘đàn em’ say sưa quậy phá, ông Bốn leo lên cao, với một mo cau chứa đầy ‘dầu rái’ (lấy từ cây dầu dùng để trét ghe nan, thúng, mũng…) đang đốt cháy. Thấy lưng như tấm phản của con voi ở ngay bên dưới chỗ ngồi an toàn trên cao, ông đổ chất lỏng đang bốc cháy của dầu rái xuống, lửa cháy theo dầu lan ra, ngọn bốc lên cao. Voi đầu đàn rống lên nhiều tiếng thảm thiết vang động núi rừng tịch mịch trong đêm tối. Vốn thông minh, những con voi khác dung vòi nhổ những bụi lách (một loại lau sậy) có rễ dính bùn vất lên lưng vị đàn anh gặp nạn. Dầu không phải là xăng. Nó cháy dai dẳng rất lâu. Cả đàn voi bỏ chạy. Bẵng thời gian, đàn voi không xuất hiện nữa. Những thửa ruộng Ông Bốn và dân làng xanh tốt hơn xưa.

Dân làng mừng rỡ. Càng mừng rỡ hơn, có người kể đã từng thấy con voi cháy lưng đang ở một vùng rừng núi khác. Những cây lách vẫn ‘tươi tốt’ trên lưng nó. Đây là dấu hiệu chắc chắn cho biết ‘thành tích’ của vị nông dân gan dạ. Không rõ, lách sống trên lưng voi bao lâu nhưng câu chuyện con “Voi Lách” vẫn còn trong kho ‘cổ tích’ của những vị bô lão còn sống cho đến ngày nay.

Câu chuyện trên chỉ nghe kể lại nhưng câu chuyện này có thật. Nhân vật chính là ông nội tôi. Tuổi ông có lẽ ngang ngửa với thân sinh cụ Nguyễn Sinh Cung. Ông tôi có võ nghệ khá thuần. Sở thích là bẫy thú rừng. Nai, mang (mễnh), heo rừng… cứ năm bảy ngày hay lưng nửa tháng bắt một con. Có một lần - và cũng là lần duy nhất, ông bị buộc từ bỏ đam mê bẫy thú rừng- bẫy ông mắc một con…beo (hai ‘đòn khiêng’ – nghĩa là 4 người khiêng bằng 2 đòn cây).

Ngày xưa không có đồng hồ, đi ‘thăm bẫy’ dựa vào tiếng gà gáy. Không rõ ngứa miệng hay sao, hôm đó con gà gáy quá sớm. Ông tôi thức dậy, rút chiếc mác dài vác lên vai rồi một mình lặng lẽ vô rừng “làm nhiệm vụ”.

Dưới bóng trăng mờ bìa rừng, ông mừng rỡ ngỡ con beo là con cáo khổng lồ dính bẫy. Đến gần, con beo gầm to một tiếng chồm tới, ông tôi trụ người ở tư thế phản công, mũi mác chĩa tới trước; chiếc cần bẫy tre đực dẻo dai bật mạnh, sợi dây thừng cột trên đỉnh thít chặt chân trước quật ngược lại do trớn nhảy của con thú. Thú bật ngửa phơi bụng trắng nhờ trên đất. Đây là thời điểm mũi mác phóng vào ngực nó. Với phản xạ cực nhanh, con thú chụp lấy cán mác giật mạnh, mác gãy đôi, mũi mác văng ra, phần cán dài hơn 1 mét vẫn còn trên tay ông tôi nhờ nắm chặt. Thế là, mỗi lần nhứ, con thú chồm tới, sợi dây thừng giật ngược, thú té ngửa ra sau, miệng gầm dữ dội sau mỗi cú đánh vào ngưc của ông. Không rõ bao lâu thì con báo chết và ông tôi cũng ngất đi vì sợ và vì mệt: ông hiểu mình đang đánh một con… beo, điều ông không hề nghĩ tới vì cứ ngỡ là con cáo khổng lồ dưới ánh trăng nhờ nhờ mờ ảo.

Mặt trời lên ‘một sào’ (tầm 9 giờ, cách đo đếm thời gian hồi xưa ở quê tôi), cha tôi không thấy ông về. Biết là gặp nguy. Thời đó, cọp ra bắt người, bắt heo tha vào rừng là chuyện thường xuyên vì làng mạc ít người ở lại nằm gần bìa rừng thâm u. Bác tôi kêu thêm một vài thanh niên lực lưỡng, vũ trang rựa rìu, cùng vào rừng nơi ông nội thường đặt bẫy trong tâm trạng lo lắng sợ hãi.

Thấy ông nội và con beo nằm bất động, cả hai dính đầy máu, cha tôi sụp xuống ôm lấy ông, khóc nức nở. Con beo giết cha mình rồi sao. Ông tôi bỗng mở mắt. Nhìn mọi người chung quanh, ông mỉm cười, chắc thầm nghĩ ‘mình hãy còn sống sao’.

Thịt beo chia ra cho hàng xóm và bà con, ăn lấy lộc. Da beo phơi khô độn trấu, nhìn như con thú còn sống. Hiện nay, cháu đích tôn của dòng họ nhà tôi vẫn còn giữ được một chiếc vuốt khá to của con beo. Dân làng lầm lẫn beo (báo?) với cọp. Từ đó, ông tôi có biệt danh “ông Thắng đánh cọp”.

Tôi kể hai câu chuyện trên cho dài dòng để nối tiếp câu chuyện nữa: cũng là bẫy thú rừng.

Những năm sau 1954, quê tôi vẫn còn rất nhiều thú rừng. Cọp thi thoảng mới thấy ở rừng sâu; voi cũng vậy. Ông Phạm Hùng từng săn một con cọp ở tả ngạn sông Bung (giờ có thủy điện sông Bung). Voi cũng bị chết dưới tay ông vài con. Thời đó chưa thấy ai cấm bắn cọp bắn voi. Nhưng mang (mễnh) và heo rừng thì nhiều “vô kể”. Súng không dễ gì có; người ta sử dụng phương tiện khác để bắt thú rừng. ‘Hầm heo’ là phổ thông nhất.

 NGười ta chọn một khoảng đất khá trống trải đầu bìa rừng để đào hầm bẫy heo rừng. Hầm dài 5 mét, rộng 1 mét, sâu 3 mét. Đáy hầm nhỏ lại ở dưới như hình tam giác, miệng hầm là đáy, đáy hầm là đỉnh của tam giác ấy. Đáy hầm hẹp có mục đích, heo rơi xuống đó không lấy được trớn để nhảy lên khỏi miệng hầm. Chung quanh hầm 1 mét có một hàng rào tre vót nhọn cao 1,5 m. Đầu hầm chừa khoảng trống làm cửa. Tại đây sẽ có một tấm ‘giá khổ’ chừng 3 mét cao 1,5 treo lên cao, cài bằng một then nối với một sợi dây. Khi vướng dây, giá khổ rớt xuống, heo rừng hốt hoảng nhảy tới theo hướng hầm đào sẵn, miệng hầm che bằng lá bật cật ngụy trang (giống lá kè miền Nam). Heo thích rau lang và nhất là sắn. Rau và sắn trồng quanh miệng hầm, giới hạn trong một hàng rào, để dẫn dụ heo vào. Giá khổ làm bằng cây tốt, rất nặng phải hai người hợp lực mới có thể nâng lên để ‘giăng bẫy’.

Khi rớt xuống hầm, chúng sẽ bị đâm chết nếu heo lớn, bắt trói nếu heo con. ‘Tiết canh’ heo rừng nghe đâu rất đặc biệt vì rất ngon.

Nhưng làm sao biết có heo sa vào hầm? Rất dễ. Người ta chừa một cành cây cao gần đó, nối giá khổ với một khung màu trắng (làm bằng lá bật cật) bằng một sợi dây rất mảnh. Khi giá khổ đóng, heo nhảy xuống hầm, chiếc dây nhỏ kia sẽ kéo theo khung màu trắng. Mỗi sáng, ‘chủ hầm’ đều đứng ở đầu làng căng mắt nhìn vào nơi có hình dáng chiếc khung. Không thấy nó, người ta chắc chắc hầm ‘sụp’ và heo đang ở bên dưới. Khi thăm hầm, ít nhất phải hai người, trang bị một hay hai lưỡi mác, phòng gặp heo ‘đực chiếc’ (lợn lòi) có con cực lớn, thịt móc hàm không kể xương có thể tới 1 tạ. Đông người mới có thể lôi heo lên khỏi miệng hầm sâu 3 mét. Có khi, chiếc hầm dài 5 mét ấy chứa cả một bầy heo, một con mẹ và hơn chục con con.

Ngày nay, quê tôi còn nhiều thú rừng không? Heo rừng cũng được. Không. Nói cho gọn. Không một thú nào tìm thấy nữa, kể cả: nhím, cheo, chồn, mang (mễnh), chứ chưa nói tới nai. Cọp, beo, voi…chỉ còn trong ký ức.

Những câu chuyện về thú rừng trở thành cổ tích dù chưa quá 100 năm. Ngày nay, còn heo rừng thiên nhiên không? Còn. Nghe đâu phải qua tận đất Lào để bẫy lén. Khi con thú dính bẫy, việc đầu tiên là chích phot môn rồi xẻ thịt. Trên các bàn tiệc dành cho các ‘’đại gia” ham đặc sản núi rừng, thịt rừng thật (không phải nuôi) và phot môn cũng rất thật. Thiên nhiên tạo ra cây rừng và thú rừng. Con người ngày nay tiệt diệt thú rừng và tàn phá cây rừng. Không hẳn chỉ ở quê hương tôi đâu. Có lẽ là quê hương của rất nhiều quí vị.

Quê hương có thú rừng và cây rừng chỉ còn là câu chuyện “hồi xưa”, một ngày nào đó không còn nghe ai kể nữa…

Wednesday, November 1, 2023

VIỄN KIẾN CỦA MỘT NHÀ LÃNH ĐẠO

1.11.1963 là ngày đảo chánh tổng thống Ngô Đình Diệm. Cuc diện chiến tranh Việt Nam đi qua bước ngoặt quan trọng: Sự can thiệp ra mặt của người Mỹ vào nội tình chính trị miền Nam Việt Nam, một trong điều ông Ngô Đình Diệm lo lắng và không muốn: Mỹ đưa quân vào VN.

Tầm nhìn này được cựu đại sứ VNCH tại Mỹ, ông Bùi Diễm (con trai cụ Bùi Kỷ, cháu Trần Trọng Kim), vừa qua đời ở tuổi 95, chia sẻ trong cuốn hồi ký Trong Gọng Kìm Lịch Sử (bản tiếng Anh chính ông viết: In The Jaw Of History):https://nhatbook.net/gong-kim-lich-su-bui-diem-2019/

“Nếu chỉ nhìn bề mặt của miền Nam Việt Nam vào mùa thu 1967, thì quả thực về cả hai phương diện chính trị và quân sự, tình hình chung đã được cải thiện nhiều so với hai năm về trước, và cuộc bầu cử năm ấy có thể được coi như một cao điểm của cả một giai đoạn. Biểu tình, xáo trộn, đảo chính, tất cả đã nhường chỗ cho những hoạt động chính trị bình thường, một chính phủ hợp hiến, một tình trạng ổn định, ngoài ra cũng không còn mối đe dọa bị tràn ngập bởi một cuộc tấn công của đối phương. Thế nhưng chiến tranh cứ kéo dài, vì vậy mà dưới bề mặt phẳng lặng, người ta vẫn thấy ẩn hiện một số vấn đề phức tạp mà nhiều người cho rằng đã bắt nguồn ngay từ bản chất của cuộc chiến.

Vì mặc dầu sự can thiệp của Hoa Kỳ có giúp nhiều cho Việt Nam, chính sự can thiệp đó cũng lại tạo nhiều khó khăn. Chiến tranh càng kéo dài bao nhiêu, thì sự có mặt của gần nửa triệu quân đội Hoa Kỳ và hàng ngàn cố vấn đủ loại, càng làm cho nhiều người Việt Nam thắc mắc. Họ nhận thấy là người Mỹ có mặt gần như ở mọi lãnh vực trong đời sống hàng ngày của họ. Họ không mấy vui lòng vì Việt Nam phải lệ thuộc quá nhiều vào Hoa Kỳ. Tuy người Mỹ không hống hách như người Pháp thời Việt Nam còn là thuộc địa Pháp, nhưng họ vẫn tự hỏi làm thế nào giữ được chủ quyền, nếu người Mỹ lúc nào cũng đứng đằng sau nắm giữ mọi việc từ cách soạn thảo các chương trình phát triển kinh tế cho đến việc điều động chiến cuộc” (trang 257).

Người Việt Nam vốn "dị ứng" với người ngoại bang, dù đó là ngoại bang Mỹ. Tổng thống Ngô Đình Diệm nhận định đúng: Cần viện trợ Mỹ, không cần quân đội Mỹ. Sự có mặt của họ là cái cớ để đối phương tuyên truyền "chống Mỹ cứu nước". Sau Ngô Đình Diệm không có gương mặt chính trị nào ở Sài Gòn tương xứng tầm vóc của ông. Người Mỹ trả giá đắt vì không hiểu văn hóa VN, người Việt Nam.