Saturday, October 18, 2025

YÊU NƯỚC VÀ CĂM THÙ, như hình với bóng

Do lịch sử hình thành đất nước, đối với người Việt Nam, yêu nước đồng nghĩa với căm thù. Sống bên một nước lớn, bá quyền, như Trung Hoa, người Việt luôn luôn ở tư thế chiến đấu. Không chiến đấu là mất nước. Dù phải mượn chữ Hán của Trung Hoa  làm ngôn ngữ ghi chép của minh, người Việt vẫn không bao giờ thôi...căm thù quân xâm lược Trung Hoa, trắng ra là quân Tàu.

Dù theo “cộng sản” hay theo “quốc gia”, tôi chắc chắn không ai theo hay yêu  Tàu. Tàu là tên gọi khá trả treo đối với một dân tộc có nền văn minh lâu đời, có thể nói là lâu đời nhất, trên 5000 năm. Việt Nam chúng ta có “bốn ngàn năm văn hiến”, còn kém Tàu một ngàn năm. Nhưng theo tôi suy đoán, VN có lẽ chỉ hơn hai ngàn năm văn hiến. Hai ngàn năm phải mất một ngàn năm “đô hộ giặc Tàu”. Ta chỉ có chừng hơn một ngàn năm tự chủ. Chừng đó thời gian, dân ta phải chiến đấu chống không biết bao nhiêu là cuộc xâm lăng từ phương Bắc. Căm thù quân xâm lăng là bản chất của dân tộc ta. Căm thù chúng đồng nghĩa với lòng yêu nước- ta gọi mỹ miều là ái quốc. Sát Thát được xăm lên người khi dân ta chiến đấu chống quân xâm lược. Không phải thời xa xưa đâu. Thời nay nữa. “Thề phanh thây uống máu quân thù”. Lòng yêu nước ngút ngàn ấy ghi trong quốc ca (từ 1944 đến 1955). Hay “đường vinh quang xây xác quân thù". Căm thù giặc, giết giặc, kể cả uống máu giặc là hành động yêu nước.

Tiếp xúc một số bạn quen là những người “có công với cách mạng” hay “những người theo  cách mạng”, kể cả con cháu họ, tôi có nhận xét, tất cả vì căm thù giặc mới trở thành những người yêu nước. Căm thù, như họ kể, là xác một du kích trước đây lập nhiều chiến tích diệt địch, bị cột vào một sợi dây nối vào chiếc xe jeep, kéo lê trên đường, để thị uy cho ai muốn theo Việt cộng hay là cách  để trừng phạt. Cũng có câu chuyện kể về xác Việt cộng bị phơi ngoài nắng, bốc mùi hôi thối mới được đem đi chôn. Tôi không rõ, việc hành hạ một xác chết có phải là chủ trương của phía “quốc gia” hay chỉ là việc làm của một thiểu số chỉ huy say máu căm thù cộng sản? Dù sao, nếu chuyện này là thật, thì chính nghĩa ngả dần về những người theo cộng sản là điều hiển nhiên.

Diệt Mỹ cứu nước hay phá tan bè lũ bán nước là chí hướng và đó là sự căm thù Mỹ- Ngụy. Tôi thấy, ở chỗ này,  căm thù là cốt lõi của lòng yêu nước. Trong một đoạn nói chuyện trên truyền hình của Tạ Bích Loan với Phạm Xuân Ẩn, khi được hỏi vì sao, nhà tình báo chiến lược này chọn một vai trò nguy hiểm trong lòng địch, mạng sống luôn bị đe dọa, câu trả lời của ông là do lòng căm thù giặc xâm lăng, trước là Pháp sau là Mỹ, và nhất là căm thù các điền chủ, đại điền chủ đối với tá điền ở miền Nam. Căm thù địa chủ cũng là biểu hiện của lòng yêu nước. Đấu tố ngay cả cha mẹ trong cải cách ruộng đất cũng là hành động yêu nước.

Tôi có cảm giác  yêu nước là phải căm thù. Yêu nước nhưng không căm thù được không? Ví dụ: Đóng thuế nhiều như Trấn Thành.  Sản xuất dù chỉ là cọng rau, bó cải. Ra sức học hành khi là học sinh. Giúp đỡ cha mẹ. Nâng đỡ anh chị em. Hòa hiếu với xóm giềng. Không xả rác bừa bãi. Không chạy xe lạng lách. Không nói tục chửi thề. Không gian lận. Không ăn cắp của công. Không lãng phí thời gian làm việc, trong công sở, trong gia đình, trong xí nghiệp, trong cơ quan...Không phóng uế bừa bãi. Không chen lấn chỗ đông người. Luôn luôn đề cao danh dự cá nhân, gia đình, dòng tộc, xóm làng, và đất nước. Phê phán chính phủ những việc làm không hợp lòng dân. Những việc ấy có phải là yêu nước không? Chắc chắn sẽ ít ai trả lời: đó là thái độ hay  hành động yêu nước.

Chỉ là câu chuyện có thiêu người hay không thiêu người mà người Việt, sau khi xem hoặc nghe người xem kể lại, trong phim Mưa Đỏ, lòng yêu nước của một số người bỗng trào dâng khi có ai đó cho rằng “ngụy” có thiêu “bộ đội” trong khi có những cựu chiến binh miền Bắc trong trận đánh Quảng Trị năm 1972- biểu tượng là thành cổ, dù trận chiến không xảy ra tại nơi này- lại cho điều đó là hư cấu của phim dựa vào tác phẩm văn học.

Căm thù không dễ gì phai nhạt sau nửa thế kỷ chấm dứt chiến tranh, không những trong phim ảnh mà cả ở lòng người.

Chỉ khi nào yêu nước với  lòng bao dung  chứ không phải sự căm thù, hiểu biết mà không mù quáng, thì con người Việt Nam mới có cơ hội vươn mình. Người  Nhật yêu nước nhưng không căm thù người Mỹ, kẻ gieo tan tóc, đau thương, trên quê hương họ. Vì đó mà họ đã vươn lên một đất nước phồn vinh? Họ không “Gặm một nỗi căm hờn”...mãi mãi “ trong cũi sắt”. Yêu nước mà không căm thù ai cả, được không?

TRÂM

Nói đến trâm người ta thường nghĩ “trâm anh thế phiệt” hay “dòng dõi trâm anh”. Trâm ở đây, rất khác , là hạt trâm, hay hột trâm, nhưng thường là trái trâm. Nhìn ảnh, người ta tưởng trái trâm to như trái nho đen (của Mỹ). Nó chỉ to bằng đầu ngón út. Trâm có màu đen thẩm, vị ngọt, nhưng hơi chát. Ăn trâm, răng sẽ có màu tím, nhưng hết ăn, súc miệng, màu trắng của hàm răng đẹp sẽ như cũ.

Tôi chắc chắn hầu hết người Việt, kể cả lớn tuổi- thất thập trở lên- chưa bao giờ ăn trái trâm như chúng tôi ở vùng quê mà núi rừng là lẽ sống, là quê hương, là nơi chốn dung thân. Cây trâm to gấp mấy lần cây khế, có thể như cây xoài; cây ổi chỉ là đàn em của cây trâm. Trâm mọc tương đối nhiều ở các chân núi. Trâm ở rừng sâu sẽ cho gỗ, gỗ trâm. Trâm dọc triền núi thường cho trái. Chúng có thân không cao, không thẳng, nên chẳng ai muốn đốn để lấy gỗ làm nhà. Thế là trâm cho trái.

Ngày nay, kỹ thuật nông nghiệp phát triển, trái cây không là niềm ao ước và khao khát đối với trẻ con như chúng tôi 60 năm trước. Trâm là trái quý giá vô cùng. Sống với núi rừng, ông cha chúng tôi rất tôn trọng núi rừng. Chặt một cây to, quê Quảng Nam tôi, người đi rừng đều tỏ lòng thành kính, nếu có nhang (hương) thì thắp nhang, không có thì khấn vái, xin ông bà cho đốn cây. Trâm ở bìa rừng không ai được đốn nhưng chẳng ai muốn đốn: Trâm cho trái.

Ngần tuổi qua bảy mươi, tôi vẫn không nhớ trâm cho trái vào tháng mấy, mùa nào. Nhưng tôi nhớ hái hạt trâm vào những ngày đi bứt đót làm chổi quét nhà. Có lẽ là tháng giêng.

Ngày nay, trâm còn không? Dạ, không. “Núi rừng có điện thay sao” của ông Tố Hữu nhưng ở quê tôi, và có thể là mọi quê, tràm là sao, là “chủ đạo”. Tràm có cách phát âm như trâm nhưng tràm đau khổ hơn trâm. Trâm sống rất lâu và có lẽ mãi mãi trong ký ức của chúng tôi. Tràm thì ba hay bốn năm hóa kiếp một lần. Người ta đốt rừng để trồng tràm liên tục nhưng trâm thì không. Trâm chỉ đốn một lần và không còn hoá kiếp. Trâm chỉ sống trong ký ức mà thôi.

SUỐI NƯỚC NÓNG

Là tên của con suối thuộc làng Đoài Sơn (còn có tên Thái Sơn, Non Thái), xã Thượng Đức (Thường Đức trước đây). Suối nước rất nóng có thể luộc trứng, kể cả luộc gà. Ngày xưa, ông bà chúng tôi không thấy tác dụng của nước nóng như ngày nay. Ở miền Nam, địa danh du lịch nghỉ dưỡng nổi tiếng Bình Châu là nhờ có suối nước nóng. Bằng cách pha với nước thường ở nhiệt độ thích hợp, suối nước nóng ở đây mang lại nguồn thu phong phú: tắm bùn.

Ở quê tôi, suối Nước Nóng không có cái may mắn ấy. Chẳng có ai có ý tưởng khai thác nguồn nước khoáng vì nhiều lý do. Vị trí suối không nằm trên trục giao thông. Đi lại khó khăn. Trước đây, có doanh nhân khởi công nhưng không rõ lý do, công trình bỏ dở. Có 2 ngôi nhà ẩn mình dưới tán cây u tịch, vắng vẻ, bắt đầu hư hỏng.

Suối Nước Nóng hãy còn là nàng Bạch Tuyết nằm ngủ giữa rừng hoang, chưa may mắn gặp vị hoàng tử của lòng mình.

Thay vào đó là con suối ở gần. Nước rất mát. Thiên nhiên cho dòng nước mát lạnh bên dòng nước nóng, thật hài hoà.

Suối có dòng nước chảy quanh năm. Sông có thể đục vì mưa nhưng suối ở đây thì không. Trong veo. Cát và sỏi hiện ra như trong lồng kính chung quanh là nước. Suối có một vũng rộng, nước ngang nách, có thể bơi qua lại. Đặc biệt có 2 dòng nước xối mạnh như thác. Ngồi tựa lưng  bờ đá, hướng vào ngọn nước xối mạnh, nước vỗ lách bách vào lưng, khách cảm  giác phấn chấn, ta hay gọi là mát-xa trong các spa ở đô thị.

Đến chỗ này, người ta phải len qua các bụi cây hai bên lối đi mòn hẹp. Tất nhiên, khách chớ vội. Hãy đi chầm chậm, hít thở không khí trong lành của núi rừng, và lắng tai nghe đâu đó tiếng chim gọi bầy hay nhảy nhót vui tươi.

Ở quê, chỗ vui chơi không nhiều như ở phố. Thiên nhiên chính là chỗ nghỉ yên bình. Dù núi rừng không còn như xưa, suối Nước Nóng là một trong những niềm an ủi cuối cùng thiên nhiên mang lại. Các bạn trẻ hay đến tắm ở đây. Các anh chị sẽ có người trong đó sau này trở thành hoàng tử và đánh thức nàng Bạch Tuyết của làng Đoài Sơn, quê hương Thường Đức.

CÂY CẢI TRẠNG QUỲNH

Lúc còn nhỏ, nghe cha tôi kể những câu chuyện về Trạng Quỳnh, tôi ngất ngây tự hào, người Việt Nam mình sao quá khôn ngoan. Không những khôn ngoan mà còn thông thái nữa.

Vua (gì đó, tôi không nhớ) luôn bực dọc Trạng xỏ lá nhiều thứ, chẳng hạn câu chuyện sau. Trạng cho lính hầu ra chợ bảo những hàng thịt heo thái thịt nhỏ để Trạng ra mua. Nhưng chờ tới chiều, rồi tối, chẳng thấy ai tới. Hàng thịt bắt đầu chửi Trạng. Lính hầu về báo lại, Trạng ra lịnh chửi ai bảo thái (thịt, xắt thịt) chứ không được chửi Quỳnh. Thế là cả chợ chửi thằng nào bảo thái (thịt). Bảo Thái lại là niên hiệu của vua Lê (nào đó, tôi không nhớ rõ). Vua rất tức giận nhưng không thể bắt tội Trạng Quỳnh.

Nghĩ ra kế hay, Vua  bảo lính xuống nhà Trạng để…ỉa cho bõ tức. Lịnh Vua là tuyệt đối tuân hành. Lính tráng khi muốn ỵ đều kéo xuống vườn nhà Trạng. Quỳnh biết mình là kẻ bề tôi, đâu dám cấm tụi lính. Sự thông minh giúp Trạng đối phó tài tình: "Vua bảo các ngươi ỉa nhưng không nói đái. Bọn bay ỉa mà đái ta sẽ cho cắt hết". Cắt cái dẫn nước tiểu ấy mà. Không ai ỵ mà không đái. Tuân lịnh vua, mọi người lính đều phải làm.

Mấy tháng sau, Quỳnh cho lính mang lên vua những cây cải cao như  đòn gánh. Vua ngạc nhiên hỏi, cải gì mà lạ lùng quá vậy. Trạng đáp, cải thường thôi; nhưng nhờ phân của lính, nó mới cao lớn tốt tươi như thế. Cải này to nhờ tưới cứt lính, Trạng mang biếu bệ hạ vài cây ăn lấy lễ.

Vua giận tím mặt nhưng vẫn cười cười cám ơn. Ngài ngẫm nghĩ: Thằng Quỳnh này xỏ lá quá.

Thật ra không phải vậy. Trạng Quỳnh rất khoa học. Cải mà tưới phân người sẽ phát triển cực kỳ. Thầy của tôi, ông Trần Văn Thọ, làm trưởng ty học chánh tỉnh Quảng Nam, giám đốc sở giáo dục bây giờ, kể lại chuyện ông chuyên gánh cứt tù ra đồng tưới cải. Có bữa ngã té, cứt đổ đầy người ông. Ông không sợ hôi hám mà sợ bị phát hiện không “hoàn thành công tác”. Ông nhận xét, phân tươi của người rất phù hợp cho cây cải. Trạng Quỳnh đã đi hàng trăm năm trước cho cái nhận định này của thầy tôi (đang còn sống ở Mỹ).

Xem thấy đâu tỉnh nào ở ngoải trồng cây cải lớn thần kỳ như ảnh, tôi suy nghĩ không biết cải này tốt vì giống hay vì phân tươi của người. Tâm tư quá.

Wednesday, December 4, 2024

GIỌNG QUẢNG NAM, NGƯỜI NÓI CÓ MẶC CẢM KHÔNG?

Trả lời ngay là có. Nhưng mặc cảm ấy chỉ xảy ra ở những cư dân Quảng Nam làm ăn xa xứ. Ở Sài Gòn, (hầu hết) những người này thường cố gắng “nói như người Nam”, phần nào che bớt cái mặc cảm có giọng nói “chẳng giống ai”. Nhưng có người "Nam hóa" giọng mình “quá hớp”. “Đêm chong đèn ngồi nhớ mẹ…” thì họ hát thành “Đêm chong ĐẰNG ngồi nhớ mẹ…”. Họ mặc cảm về âm E với âm A. “En không en tét cá đèn đi ngủ” (Ăn không ăn tắt cái đèn đi ngủ”.

Không mặc cảm sao được khi giọng nói của mình “chẳng giống ai”. Đã khác mà giọng ấy còn làm trò cười cho những người rắn mắt thích chọc ghẹo người khác vùng miền. Có những câu chuyện đánh nhau sứt đầu bươu trán trong quân đội khi thanh niên Quảng vào các trại huấn luyện quân sự ở Đồng Đế (Nha Trang). Ở quê tôi có câu “Chửi cha không bằng pha tiếng”. Pha tiếng hay nhái tiếng không thể chấp nhận được.

Giọng Quảng Nam không phải “nổi tiếng” nhờ có hai anh hề Hoài Linh và Trường Giang. Nó nổi tiếng trong câu chuyện thời sự thập niên 1960. Trong một cuộc điều trần trước quốc hội (hạ viện), chủ tịch ủy ban hành pháp trung ương (tức thủ tướng) Nguyễn Cao Kỳ hướng tay chỉ về một dân biểu Quảng Nam và nói: “Mời ông nêu théc méc (thắc mắc)”. Vị dân biểu đứng lên, sửa lại mục kỉnh, với tay ra trước cầm lấy cặp tắp, lẳng lặng rời chỗ ngồi, quay ra ra sau cúi chào đồng nghiệp. và không một lời đáp, một mạch bước ra khỏi hội trường, trước sự sửng sốt của mọi người. Trong phiên họp ngày hôm sau, trước khi khai mạc, thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ nghiêm trang xin lỗi hành vi bỡn cợt vị dân biểu ngày hôm trước. Báo chí lúc ấy phê phán vụ “pha tiếng” này của vị lãnh đạo quốc gia.

“Pha tiếng” không hẳn chấm dứt từ lúc ấy. Nó còn có đến tận bây giờ. Đây là câu chuyện trong bàn nhậu ở miền Nam mỗi một tôi là Quảng Nam. Mấy người bạn nói quê tôi có bà Mẹ Việt Nam anh hùng nhiều nhất nước nhờ… cãi nhiều. Ngậm và không nhai nổi miếng miếng mực khô trong miệng, tôi nín thở nghe “một thằng” kể chuyện như sau. Có ba anh du kích núp dưới hầm bí mật bên trên là xe tăng của lính Mỹ đang quần thảo, xích sắt nghiến ầm ầm. “Xe ten (tăng)”. “Không, thiết giốp (giáp)”, một giọng nói cất lên. “Trật lất. Xe bạc (bọc) thép’, người thứ ba quả quyết. Cuộc cãi vã bắt đầu. Nhờ dưới hầm nên tiếng cãi dẫu rất to, chẳng thằng địch nào nghe được. “Trăm nghe không bằng một thấy”, một trong ba anh du kích ra vẻ quyết định: “Mở nắp hầm lên xem”. Cả ba nhất trí. Và thế là bọn lính Mỹ nã đạn vào. Dưới hầm không nghe tiếng cãi nữa.

Tính vốn hiền từ nhưng tôi không khỏi tức giận chửi (thầm trong bụng) “Tổ cha bọn mi xuyên tạc”. Xe thiết giáp thành xe thiết giốp. Xe tăng thành xe ten. Xe bọc thép thành xe bạc thép. Ôi, cái thằng Nam bộ này nhái y chang giọng Quảng của tôi rồi. Tuy là chuyện tếu trong bàn nhậu nhưng tôi thề trong bụng không bao giờ ngồi chung bàn với họ nữa. Tự ái quê hương, biết đâu tôi không “thượng cẳng chân, hạ cẳng tay” với những thằng bạn của mình.

Cố gắng “nói như người Nam”, tôi vẫn bị người Sài Gòn nhận xét tôi nói giọng “nẫu” (lầm với Bình Định) còn quê hương thì  phê bình tôi  “mất gốc”; họ bảo tôi “nói giọng Sài Gòn”.

Bản tính người Quảng Nam rất kiên định. Họ không bao giờ thay đổi quan điểm khi đã hình thành quan điểm. “Cãi” là một trong nhiều cách họ bảo vệ cái quan điểm ấy của mình. Giọng nói, do đó, cũng khó mà bị “đồng hóa” bởi giọng nói của cư dân khác. Giọng Quảng Nam có một đặc trưng riêng. Và tôi rất hạnh phúc khi có được cuốn sách nghiên cứu có tựa “Nguồn Gốc Và Sự Hình Thành Giọng Quảng Nam” của giáo sư ngữ học Mỹ (gốc Việt) Andrea Hoa Phạm.

Monday, November 25, 2024

TỰ TRỌNG

Mỗi thời mỗi khác. Mỗi lần nói về quá khứ là mỗi lần tôi được nhắc nhở quá “hoài cổ”. Mà có “cổ” gì cho cam, quá khứ chỉ là vài chục năm. Lòng tự trọng của con người sinh ra và trưởng thành trong một thời gian quá ngắn: 20 năm.

Bất cứ cuộc thi cuối kỳ hay cuối khóa, thậm chí các bài tập hằng ngày, học sinh chúng tôi không bao giờ “dám” mang tài liệu vào phòng. Không phải sợ kỷ luật. Sợ bị bắt “cóp-pi” là xấu hổ. Ở các kỳ thi tú tài, kỷ luật nghiêm ngặt hơn. Thí sinh có thể bị cấm thi nhiều năm nếu bị bắt quả tang đem tài liệu vào phòng thi.

Tự trọng như vậy xuất phát từ danh dự cá nhân. Nhỏ hoặc lớn đều xem danh dự là trên hết. “Tổ quốc, danh dự, trách nhiệm” còn là khẩu hiệu của mọi viên chức chính phủ.

Danh dự khiến người ta tự trọng. Không có một quy định nào định nghĩa danh dự nhưng mọi người đều coi trọng danh dự. Từ nhỏ là học sinh đến lớn là một sĩ quan.

Bạn tôi là một thiếu uý. Không có quy định nhưng theo thông lệ, sĩ quan dù là cấp nhỏ như anh không  vào những nơi “bình dân” như quán cơm “xã hội”. Đây là loại quán được hỗ trợ của các tổ chức từ thiện, có khi cả chính phủ, cung cấp bữa cơm giá rẻ cho giới lao động, nghèo khó. Nếu “bí”  quá thì sĩ quan có thể vào đó ăn cơm nhưng phải gỡ “lon” (phù hiệu cấp bậc) cất vào túi. Anh ta muốn bảo vệ “danh dự” một sĩ quan quân lực VNCH.

Danh dự làm cho người ta coi lòng tự trọng là phẩm chất con người. Nguyễn Trần Bạt, trong cuốn sách gần 1000 trang “Đối thoại với tương lai”, cho biết 3 phẩm chất của một con người hoàn thiện là: Tự do, tự lập và tự trọng. Trong hàng ngũ “trí thức xã hội chủ nghĩa “, tôi thấy nhà nghiên cứu kiêm doanh nhân này là một trong những “khủng long kiến thức” không còn sống. Tôi tự hỏi, tại sao một trí thức tầm cỡ như ông không là Vương Hổ Ninh của VN?

Tự trọng giúp con người không phải “bằng mọi giá” để thành công. Cứu cánh biện minh cho phương tiện. Nhưng cứu cánh sẽ bất lương khi phương tiện bất lương.

Tự trọng giúp con người thành công mà trong thành công đó có khi cả mồ hôi và nước mắt. Chắc chắn thành công đó không có dấu vết của mưu ma hay chước quỷ. Tự trọng còn làm cho con người coi trọng danh dự- chỉ đứng sau tổ quốc.

Mạng xã hội vừa rồi ầm ỹ chuyện một viên chức trưởng bảo vệ nguyên thủ bị Chile trục xuất về nước vì vi phạm luật lệ nước sở tại: “hủ hoá”. Đây là vết nhơ đối với quốc gia. Ông ta có thể không cần danh dự cá nhân nhưng còn danh dự quốc gia? Nếu có lòng tự trọng, ông ta không thể có hành vi thiếu đạo đức như thế. Một người chỉ nghĩ đến ham mê nhục dục của mình mà quên đi danh dự đất nước, con  người ấy cần bị xã hội lên án.

Nếu đi du lịch có tính cách cá nhân, việc lăng nhăng tình dục không có gì là vấn đề. Ở phương Tây, cả châu Mỹ, tình dục không có gì là xấu, thậm chí không bị cấm đoán chỗ công khai nhưng tất cả phải “tuân thủ pháp luật”. Có thể cần một cái ôm chào nhau, nam nữ sẽ lên giường nếu hai bên ưng ý. Nhưng nếu một bên - nhất là nữ- không ưng thuận thì các ông “sung sức” VN chớ có thấy họ ngả ngớn, gợi tình mà a lát xô xông vào, bị trục xuất khỏi nước người ta chỉ là hậu quả nhẹ nhàng nhất.

Tự trọng có ai dạy dỗ không? Chắc chắn không cần vì người coi trọng danh dự đều luôn nêu cao lòng tự trọng.

Tự trọng là phẩm chất cốt yếu của mỗi công dân nếu đất nước muốn chuyển mình vươn lên trong thời đại mới. Tự trọng “phái sinh” từ danh dự. Danh dự phải trên hết chứ không phải sự nghiệp là trên hết.

Wednesday, November 13, 2024

Phiếm luận: BẦU CỬ TÂY-TA

Tôi nhấn mạnh: “Tây” đây là Hoa Kỳ. “Ta” là làng (xã) Việt Nam ngày xưa. Làng (xã) là đơn vị hành chánh thấp nhất trong chế độ phong kiến. Sau này chế độ thực dân cũng vẫn duy trì. Lý trưởng (xã trưởng) có con dấu hẳn hoi, hồi đó còn gọi là “triện”. Con dấu vuông bằng gỗ, ở giữa là bụi tre (tiết trực tâm hư), bên trên là đơn vị tổng (hoặc huyện), bên dưới là tên làng. Ví dụ như tổng Đức Thượng và làng Trung Đạo.

Vì sao có sự so sánh như thế? Có vài điểm giông giống.

-Tranh cử với nhiều ứng viên (thường là 2): Bầu cử làng xã có tranh cử hẳn hoi. Không có chuyện “độc cử”: Dân chỉ bầu một ông ấp trưởng (hay thôn trưởng) được người ta đưa ra.

-Vận động tranh cử: Trước ngày bầu cử, gia đình có người ứng cử xã trưởng – còn gọi là lý trưởng- sẽ đi đến từng nhà để vận động người dân dồn phiếu cho người nhà.

- Chỉ những người giàu có, “có chữ” (chữ Nho, chẳng hạn), thuộc thành phần “gia thế”, (tộc to, họ lớn). Không người nghèo nào có thể ứng cử tổng thống Mỹ. Bà Kamala Harris chi cả tỷ đô la cho vận động tranh cử. Donald Trump cũng cần đến đại gia Elon Musk ủng hộ mấy trăm triệu đô la.

- Mỗi gia đình đông hay ít người cũng chỉ được quyền bầu một lá phiếu. Hơi giống “đại cử tri” ở Mỹ. Mỗi bang có bao nhiêu phiếu nhất định.

- Ngày bầu cử lý trưởng là ngày hội làng. Rất tở mở. Sau bầu cử, theo lệ, người đắc cử sẽ mở tiệc chiêu đãi cả làng giống như ngày nhậm chức tổng thống nhưng hơi khác là không có báo chí, khách mời, và các hãng truyền hình đối chọi như Fox và CNN.

- Nhiệm kỳ lý trưởng thường là 4 năm, y chang nhiệm kỳ tổng thống. Cho nên người ứng cử lý trưởng phải trẻ nhưng phải trên 30 tuổi, không phải già “khú điếc” như mấy ông tổng thống Mỹ mới đây. Nhưng, thường thì lý trưởng đắc cử tối thiểu đôi ba nhiệm kỳ nếu còn khỏe mạnh, trừ những ông lý trưởng “ba trợn”, không bao giờ được dân làng bầu lần thứ hai.

-“Nhiệm kỳ” thật sự có ý nghĩa “cách mạng”. Khó có chỗ cho độc tài hay toàn trị, in như Mỹ. Trump thất cử sau 4 năm làm tổng thống vì dân trao niềm tin nơi Biden. Thấy Biden không làm nên “cơm cháo” gì, dân lại bầu lần nữa cho Trump. Nhiệm kỳ 4 năm để người dân “trắc nghiệm” người lãnh đạo. Nhưng tối đa không bao giờ quá 2 nhiệm kỳ (trừ một trường hợp duy nhất trong lịch sử nước Mỹ của tổng thống Franklin D. Roosevelt).

-Lập “nội các”: Lý trưởng tân cử (như president elect) sẽ lập hội đồng hương mục gồm 4 ông hương- gọi là Ngũ Lý Hương (một lý trưởng và 4 hương chức).

Đó là Hương mục: Phụ trách việc ghi chép sổ sách, thụ lý đơn thưa, lưu trữ văn thư, soạn “tấu chương” (báo cáo) gởi lên tổng (hoặc huyện), nhận văn thư tống đạt từ cấp trên. Hương bộ: Giữ gìn sổ bộ, địa bạ, thuế khóa, cấp giấy khai sinh, khai tử, tang tế, thụ lý đơn thưa. Hương bổn: Coi giữ các công trình phúc lợi của làng như đình trung, miếu thành hoàng, cờ, lọng, chiêng trống, lễ phục, kể cả sắc phong của triều đình truyền lại từ các đời trước. Hương kiểm: Phụ trách công tác an ninh trật tự trong xã. Quê tôi bao bọc bởi núi rừng, vị hương này còn làm luôn công tác kiểm lâm, bắt tội ai đốt cháy núi rừng, canh giữ những bụi tre “làng” trồng dọc bờ sông chống xói mòn.

Cũng giống nước Mỹ có thượng viện, hội đồng kỳ mục – gồm những vị bô lão, cựu lý trưởng, cựu hương chức các khóa trước, tộc trưởng các tộc họ trong làng- sẽ “chuẩn thuận” các vị hương chức tân lý trưởng sẽ đưa ra. Lý trưởng luôn chọn người có đạo đức và năng lực giúp việc cho mình như tổng thống Mỹ. Họ không dại gì chọn người kém cỏi làm phe cánh, chẳng làm nên tích sự. Lý trưởng phải chọn ê kíp làm việc hữu hiệu để “phòng hậu” nghĩa là còn ứng cử các khóa về sau. Các hương chức được đề bạt không cần qua ý kiến của “mặt trận”. Như vậy, lý trưởng cũng uy quyền như…tổng thống.

Nhiều kẻ hậu bối như tôi cứ nghĩ lý hương sẽ dựa vào quyền thế mà bắt nạt hay o ép dân chúng. Dân chúng sẽ cầm lá phiếu mà quyết định “tương lai chính trị” của họ nên, dù sống trong chế độ “nửa phong kiến” rồi sau này là “nửa thực dân”, người trong làng làm đúng vai trò “dân làm chủ”.

Tuy nhiên, tại sao vẫn còn những bất công có khi là áp bức nơi thôn quê thời phong kiến. Đó là lòng người châu Á – nhất là người Việt Nam- ai cũng muốn “tham quyền cố vị” khi có chút chức quyền. Một "thằng Tây" thực dân lếu láo nhận xét "Trong đầu óc mỗi người An Nam đều có một ông quan".

Bầu cử tận thôn xã là chủ trương hết sức dân chủ thực hiện khá thành công từ thời nhà Nguyễn. Nơi nào thực hiện tốt nơi đó dân chúng sống an bình, thoải mái. Dân chúng và hương lý có tình tương thông.

Nhưng cũng có một vài  lý trưởng ỷ giàu, cậy vào tổng (nhiều làng lập thành) hoặc huyện, bằng “hối mại quyền thế”, tổ chức gian lận bầu cử. Có quy định từ thời Lê Thánh Tông, người ứng cử lý trưởng không được là người bà con với ông tổng, ông huyện nơi sở tại (Phạm Văn Sơn- Việt sử toàn thư). Không ruột thịt nhưng nhờ “ruột” tiền. Đồng tiền liền khúc ruột.

Dân chúng thôn quê – tôi nói là trước năm 1945- hầu hết đều mù chữ. Vậy làm sao biết tên ai mà bầu. Hồi đó không có người “viết giúp”. Các ứng viên lý trưởng (hầu như là hai) sẽ vận động bầu cử bằng cách cho người dân mình vận động bầu thế nào cho mình trúng cử.

Sẽ có một tờ giấy trắng thay lá phiếu. Ông Giáp sẽ là một chấm mực tàu. Ông Ất sẽ là hai chấm. Không khác thời VNCH, các ứng viên dân biểu quốc hội (thượng viện và hạ viện) ngoài tên họ ra, họ còn có biểu tượng, ví dụ là lá đa hay con voi trắng. Người không biết chữ sẽ căn cứ vào biểu tượng ấy mà bầu. Nhưng đồng tiền đi trước là đồng tiền khôn. Người trong ban tổ chức bầu cử, có quan huyện và một số lính lệ về giám sát, vẫn có thể cố tình “gian lận” phiếu. Những tờ giấy một chấm sẽ biến thành hai chấm nếu bị gấp liền sau khi nhận phiếu để cho vào thùng; mực tàu rất lâu khô. Những phiếu có hai chấm  thì quá Ok rồi. Lỡ có ai gấp lại thì 4 chấm là phiếu "không hợp lệ".

Như vậy, phiếu “hai chấm” mực là phiếu sẽ trúng cử 100% không cẩn nhờ máy đếm phiếu Dominion của Hoa Kỳ.  Làng tôi xảy ra một cuộc bầu cử như vậy. Và chỉ một lần. Ông lý trưởng ấy về sau cũng chẳng ra gì vì quá cường hào. Nhân một cơn say rượu, ông ta đánh người trong gia đình đổ máu. Đơn kiện lên tổng rồi huyện. Quan trên về họp dân làng và hội đồng kỳ mục (không phải hội đồng hương chức – tức hành pháp) bỏ phiếu truất phế lý trưởng. “Lý trưởng phế”, giống như phế đế thời nhà Trần, không được tham dự việc làng, nghĩa là “bất dự hương sự”. Không dự việc làng là nỗi nhục rất lớn ở nông thôn (miếng thịt làng hơn sàng thịt chợ).

Lá phiếu của người dân thời phong kiến và thực dân cũng “dân chủ” ra phết đấy chứ.

Thấy bầu cử Tây tôi bỗng nhớ bầu cử Ta. Chuyện tôi kể là sự thật(*).

Ghi chú: (*) Ông Nguyễn Huỳnh, 94 tuổi, trước 1975 là chuyên viên vi trùng học tốt nghiệp ở Mỹ, trưởng phòng xét nghiệm bịnh viện Cơ Đốc Phục Lâm VN (Phú Nhuận), một bịnh viện đầu tiên ở VN có bác sĩ và y ta người Mỹ làm việc). Ông là người làng đang sống ở Orlando, Florida, kể cho tôi nghe “chuyện đời xưa”. Email nói chuyện bầu cử ở Mỹ. Tôi chép lại nguyên văn một đoạn: “Nước Mỹ vừa mới trải qua cuộc bầu cử Tổng Thống đầy sôi động. Người dân Mỹ rất quan tâm và triệt để xử dụng quyền hiến định, mỗi người một lá phiếu để chọn người  điều hành đất nước.

Một điều rất đặc biệt đáng cho  chúng ta nên suy gẫm là hệ thống hành chánh của Việt nam dưới thời đại phong kiến cũng  đã áp dụng luật "Phổ thông đầu phiếu". Dưới thời quân chủ, phong kiến, người đại diện cấp huyện, cấp tỉnh đều do triều đình bổ nhiệm.  Nhưng người đại diện  làng, xã, thì do dân bầu cử.   Điển hình là thời thân phụ tôi ra ứng cử chức lý trưởng (village mayor), các ứng viên cũng có đi  vận động cử tri.

Thân phụ tôi lúc đó còn quá trẻ, vì ông Nội tôi mất sớm, gia đình chỉ còn một mẹ một con!  Bà Nội tôi sợ bất trắc, nên mướn "võ sanh" bảo vệ (những người đang học võ. Vì đơn chiếc, gia đình ông sợ lý trưởng đương chức thất cử có hành vi dằn mặt cha ông khi quan trên ra về -NLC).  

Đến ngày bỏ phiếu, có quan huyện (dẫn theo mấy lính lệ) đến chủ tọa và giám sát việc bầu phiếu tại Đình Trung (nhà hội, nhà văn hóa-NLC).  Sau khi kiểm phiếu, quan huyện tuyên bố người đắc cử. Đây là việc rất khó tin ở dưới thời quân chủ phong kiến.  Tìm hiểu thì được quí cụ giải thích: làng, xã, hương, lý (chưa có thôn, phường, ấp) là hạ tầng cơ sở của hệ thống hành chánh, cơ quan  gần gũi, sát  với dân chúng.  Với quan niệm làng  xã tự trị sẽ tạo nên trật tự xã hội,  vì mọi người  trong làng đều  có sự liên hệ thân thiết với nhau, tình làng nghĩa xóm, sống có luật có lệ , luật vua thua lệ làng! Nếu có kẻ gian, trộm cướp thì dân làng là lực lượng đầu tiên ứng phó, gìn giữ an ninh trật tự”.