Sunday, August 25, 2024

Sách "Ung thư và con đường tôi chữa khỏi". CHƯƠNG 12

UNG THƯ, TÔI ĂN GÌ?

Lão Tử: Bệnh từ miệng mà vào, họa từ miệng mà ra. Đông y: Bách bệnh do tỳ. Dân gian Việt Nam: Tham thực cực thân. Ăn là cách duy trì sự sống. Ngay cả ăn để duy trì đạo đức: Có thực mới vực được đạo.

Ăn quan trọng và thiết yếu cho đời sống và ăn quan trọng và thiết yếu hơn rất nhiều đối với người bệnh, mà bệnh đó lại là ung thư. Có lẽ ở các nước tân tiến, chữa trị bằng thuốc có thể kèm chữa trị bằng ăn uống. Tôi có nghe một bệnh nhân nữ chữa trị tại Singapore về nói, bên đó, bệnh viện chỉ định khẩu phần ăn cho từng bệnh nhân, với từng loại bệnh. Tôi không qua đó nhưng tôi tin bà nói thật. Ăn hỗ trợ rất nhiều cho việc chữa trị một bệnh cần thời gian dài như chữa trị ung thư.

Khi tôi theo đuổi chữa trị ở bệnh viện gần 6 tháng, tôi chưa bao giờ nghe bác sĩ bảo tôi cần ăn uống như thế nào đối với bệnh ung thư hạch bạch huyết của mình. Tôi không rõ các bệnh nhân có loại ung thư khác tôi có được hướng dẫn cách thức ăn uống hay kiêng cử gì không.

Có lẽ đây là thiếu sót đối với bệnh nhân Việt Nam nói chung, bệnh nhân ung thư nói riêng. Thức ăn chắc chắn sẽ hỗ trợ việc điều trị bệnh của bệnh nhân. Có lẽ các bệnh viện quốc tế ở Việt Nam có chú trọng vấn đề này. Năm 2012 tôi ở chỗ bệnh viện ung bướu Sài Gòn thì chưa nghe nói tới.

“Cố gắng ăn uống đủ chất”, bệnh nhân sẽ nghe bác sĩ điều trị khuyên một câu chung chung như thế. Tôi chưa thấy có một tài liệu in phát không cho từng bệnh nhân với từng loại bệnh đang điều trị ung thư cần theo cách ăn uống do chuyên môn bên y tế khuyến cáo. Có lẽ hiện nay đang có mà tôi không biết?

Ăn uống khó khăn, đó là nhận xét chung của những ai từng điều trị ung thư mấy tháng dài. Nhiều người ăn vào vài miếng thì ói ra ngay. Có bệnh nhân bảo tôi họ cố nuốt thức ăn trôi qua khỏi miệng để giữ sức khỏe chiến đấu với bệnh tật. Có người mua thêm các loại thực phẩm chức năng, theo giới thiệu trên báo in hay báo mạng. Có người uống thêm loại sữa như Ensure Mỹ dành cho bệnh nhân ung thư; nhưng sữa này giá khá đắt, người thu nhập bình dân khó mà có tiền mua đủ để uống 2 lần mỗi ngày theo khuyến cáo trên hộp sữa.

Nhiều người nghèo nói chuyện với tôi lúc khi ngồi vô thuốc. Có bệnh nhân lấy các loại đậu (đỗ) nhiều màu như đậu xanh, đậu đỏ, đậu trắng, đậu nành, đậu đen, mỗi thứ một muỗng canh, nấu ăn hằng ngày, “cho nó đủ chất”. Ngày nào cũng ăn, chắc chắn sẽ ngán tận cổ; ngán nhưng có ích, cũng phải ráng. Cô gái 25 tuổi cùng bệnh với tôi ở Sóc Trăng tiết lộ, nhờ ăn đều đặn như thế mà cô vẫn giữ sức khỏe, tiếp tục chiến đấu kiên cường với các đợt điều trị hóa chất.

Khi mắc một bệnh cho là nan y, người bệnh cảm thấy tuyệt vọng. Có ai đưa ra cái phao nào, họ đều vội vã chộp lấy, không cần biết, phao đó có cứu sống mình hay làm mình chìm luôn. Các loại thức ăn được người tốt bụng “giới thiệu” với lời “cam kết” như đinh đóng cột, “bà A, ông B nhờ ăn nhiều, ăn hằng ngày, món này, thức ăn này, mà khỏi bệnh. Có khi người bệnh còn nghe câu “tôi từng ăn cái này, cái kia, nhờ thế mà tôi hết bệnh”. Người bệnh luôn dễ tin bởi nghe những lời “tham vấn” chân tình của những người “tin cẩn”, “thân yêu”.

Có thể loại thức ăn này tốt cho người khác nhưng lại không tốt cho ta, nghĩa là, không phù hợp cho từng cơ địa mỗi người và cũng từng loại bệnh đang mắc. Công thức dinh dưỡng cho người này không. thể áp dụng cho người khác; nhưng nếu thấy công thức ăn uống nào phù hợp với truyền thống thì cứ áp dụng, nghĩa là, từ trước đến nay ông bà ta từng dùng đến, và không thấy cơ thể phản ứng với thức ăn đó. Thức ăn nào được cho là “chữa” lành hay hỗ trợ chữa lành bệnh nhưng phản ứng đối với cơ thể mình, tốt nhất là không nên ăn. Và, tôi xin nhắc lại, khi thắc mắc về loại thực phẩm nào muốn ăn, câu trả lời chính là từ bác sĩ đang trực tiếp điều trị cho người bệnh.

Có xu hướng cho rằng, đối với người ung thư, thịt đỏ như thịt bò, thịt heo, thịt trừu…không tốt bằng thịt “trắng” như thịt gà, thịt vịt, thịt ngan. Tôi lúc chữa bệnh lại nghiêng về cá biển, có thể nói là ăn thường xuyên. Thỉnh thoảng tôi có đi ăn phở bò, hủ tíu heo, lẩu dê…

Cũng có người nghiêng hẳn qua ăn chay; theo suy nghĩ của một số người, ăn chay có thể chữa lành ung thư. Ăn chay đủ chất tôi thấy tốn kém không thua ăn mặn. Tôi chưa gặp tài liệu nào nói ăn chay chữa lành ung thư. Ăn chay sẽ không bị ung thư cũng chưa chắc đúng: tôi có gặp đôi ba ni cô điều trị ung thư trong bệnh viện trong thời gian gần nửa năm đến đó.

Ăn uống đối với một người bệnh rất quan trọng. Họ cần một sức khỏe tốt để chống chọi sức tác động của hóa chất trong thời gian điều trị. Nhưng tôi thấy thế này: ăn thế nào cảm thấy ngon miệng, món nào mình thích là tốt nhất; tuy nhiên, phải bảo đảm cung cấp đủ dinh dưỡng. Ăn cảm thấy ngon đối với một người đang chữa trị ung thư sẽ là yếu tố giúp họ sớm vượt qua cơn bệnh. Và tôi thật may mắn, trừ vài tuần đầu, còn là thời gian về sau, tôi ăn rất ngon miệng, dù các món tôi ăn không có gia vị như tiêu, ớt, hành…Kể cả canh hay cơm, tôi để chúng thật nguội mới dám ăn; ăn nóng không được vì miệng lúc nào cũng rát bỏng, như vừa uống phải nước trà quá nóng.

Có một điều người chữa ung thư hay nghe nói: chớ ăn đường, đường sẽ nuôi lớn tế bào ung thư. Bỏ đói chúng bằng cách không ăn đường, các tế bào sẽ bị tiêu diệt. Tôi thì không tin như thế. Tôi có sử dụng đường khi uống cà phê nhưng là loại đường đen không trắng toát như đường bày bán. Tôi có đọc tài liệu nói chất làm trắng đường có thể tác hại cho cơ thể. Cũng khả tín. Chúng ta từng thấy, một thời gian có loại thuốc sử dụng rất phổ biến; năm mười năm sau, có nghiên cứu phát hiện nó…nguy hiểm, và có lệnh thu hồi thuốc. Hàng triệu người nuốt chúng vô bụng, làm sao đây? Đường trắng và đường đen, tôi chọn loại sau. Bỏ đói tế bào ung thư cho nó chết, tôi thấy ngờ ngợ. Có bao thức ăn khác chứa đường, các loại tinh bột như gạo, bắp. Không ăn gạo thì chịu sao nổi? Tôi thích sử dụng mật ong thay cho đường, thường để pha chanh hay thêm vào cam uống mỗi ngày trước 11 giờ. Mật ong ngày xưa rất quý, thường dành cho vua chúa. Ngày nay, công nghệ nuôi ong phát triển, lấy mật thay đường cũng không quá đắt.

Tuy nhiên, khi tiếp cận các tài liệu nói về ăn uống cho người ung thư, quý vị cần cẩn thận chọn lựa. Những lý thuyết về thức ăn có chứng minh khoa học hay có thể chứng minh phải hiệu quả. Tuyệt đối không nên nghe theo người bày chúng ta sử dụng thứ nào làm thức ăn trước nay chưa ai dùng hay không dám dùng.

Khi ở bệnh viện, tôi từng nghe một bệnh nhân “bày” bí quyết chữa loại ung thư tôi đang mắc bằng huyết con…kỳ đà! Tìm đã khó, tôi làm gì có con kỳ đà để lấy huyết mà uống? Có người còn bảo nuốt mật trăn, tế bào ung thư sẽ bị tiêu diệt. Có người còn bảo uống lá bồ công anh, lá cây lược vàng, hay lá đu đủ để chữa hết ung thư. Có người nghe nghiên cứu nào đó, không nên uống sữa đậu nành; sữa đậu nành nuôi tế bào ung thư. Xin thưa, Nhật Bản là nước sử dụng đậu nành và chế phẩm đậu nành có thể nói nhiều nhất trên thế giới, số người ung thư không ở nhóm cao các nước, tuổi thọ bình quân nước này cao nhất thế giới. Có thể họ ăn nhiều cá biển và nhờ sử dụng nhiều đậu nành?

Nước Việt Nam ta được cho có quá nhiều “thần dược”, nhưng bệnh viện mọc ra không đủ chứa giường bệnh, thiếu cơ ngơi cho bệnh nhân đến khám nhanh chóng. Hãy tuân thủ theo chỉ dẫn của bác sĩ. Và có tham khảo thì cũng tham khảo những ai có chuyên môn y tế về loại bệnh chúng ta đang mắc. Tin tưởng tào lao sẽ “tiền mất, tật mang”. Ăn uống “trên trời dưới đất” như thế kia, làm sao mà cơ thể người mình dung nạp cho được? Hãy ăn uống theo hiểu biết tham vấn từ chuyên môn, nhưng nói chung, có bổ dưỡng và lành mạnh là tốt nhất, không “bạ đâu nghe đó” nạp vào cơ thể bất cứ thứ gì.

Người có điều kiện sẽ ăn thêm yến, loại tốt, hoặc uống thêm thực phẩm chức năng, loại dành cho bệnh ung thư, mua trong nước hay của thân nhân từ nước ngoài. Tôi thì không giàu không nghèo. Thời gian chữa bệnh, tôi sử dụng cả thảy 6 hộp sâm Cao Ly gởi mua trực tiếp từ Hàn Quốc. Mỗi hộp khoảng 10 con sâm. Sắc sâm đúng theo hướng dẫn trên hộp, bỏ tủ lạnh uống dần hai ba hôm thì sắc một “con” khác. Loại sâm này chứa trong 1 hộp giấy bạc, bên ngoài là hộp gỗ, ngoài cùng là hộp thiếc, in hình ông tiên và tiểu đồng màu đỏ rất đẹp, rất “cổ kính”. Có lẽ nhờ loại sâm này, da mặt tôi mau đỏ lại sau 1 tuần vô thuốc, và có thể nhờ chúng, tôi ăn ngon miệng và ngủ đẫy giấc sau một tháng “vật vờ” mất ngủ vì người lúc nào cũng như nung nấu bởi lửa.

Theo tôi, nếu có uống thứ gì gọi là “bổ”, bệnh nhân cần tham khảo ý kiến bác sĩ trực tiếp điều trị cho mình, không tự động ra tiệm thuốc tây, tự mua hay mua theo lời giới thiệu của ai đó “từng kinh nghiệm”. Thời gian điều trị, bất kỳ thứ gì đưa vào cơ thể, gọi là tẩm bổ, cũng cần hỏi ý kiến chuyên môn. Nếu tự tìm hiểu trên mạng nhưng phải chắc chắn đó là nguồn tham khảo chính thống; không phải bạ đâu tham khảo đó, trên mạng hàng ngàn thứ “hỗ trợ” chữa ung thư, người bán không chứng minh họ được phép bán của ngành y tế. Bộ gan “luộc” hóa chất chữa ung thư sẽ không chịu nổi các chất khác nạp vào quá nhiều thứ. Đó là điều bất cứ người bệnh, người nhà, cần lưu ý khi muốn nâng đỡ cơ thể. Trước khi bệnh, tôi thích ăn thịt. Tôi rất ghét ăn cá, chúng hơi tanh nếu chế biến không kỹ. Trong thời gian chữa bệnh, thỉnh thoảng tôi có ăn thịt bò bíp-tết, dù không yêu thích lắm; ăn cho bổ máu (theo lời bác sĩ). Thức ăn của người bệnh như tôi rất đa dạng, nhiều loại rau củ, nhất là rau cải, súp-lơ Đà Lạt (nghe nói tốt cho chữa ung thư) và cá biển nhiều hơn thịt. Tôi nhận các loại cá biển từ người thân ở Đà Nẵng gửi vào, hết thùng này đến thùng khác. Cá dễ tiêu hóa hơn thịt nhưng vẫn bảo đảm lượng đạm gần tương đương.

Khi hóa chất vô thân thể, ngoài các tác dụng phụ tôi nói ở các phần trước, cơ thể chúng ta cần thức ăn dễ tiêu hóa, bảo đảm dinh dưỡng. Trái cây cần ăn thường xuyên mỗi ngày; tôi chuộng nhất mãng cầu Xiêm, nghe nói là diệt tế bào ung thư rất tốt (có thể chưa chứng minh nhưng các loại trái cây thì không có hại gì nếu ăn vừa đủ, đều đặn). Tôi hay dùng cây lô hội, nước rau má, sắn dây (từ miền Bắc ông sui gia gửi vào) để “giải nhiệt” cơ thể.

Tôi hằng ngày vẫn dùng các thứ (đến nay vẫn duy trì): một ly Ensure buổi sáng bụng đói; trong ngày có một quả chuối, một quả cam vào buổi sáng (nếu không cam thì một quả chanh nhỏ), mươi hột đậu phộng tự rang (mua rang sẵn sẽ gặp phải đậu mốc, rất nguy hiểm). Lúc vô thuốc, tôi uống nước mỗi ngày 2,5 lít hơi nhiều hơn trọng lượng lúc chữa bệnh (49 ký lô). bình thường, 10 ký lô trọng lượng cơ thể cần 0,4 lít nước. Nếu ăn canh nhiều, lượng nước có thể giảm tương ứng. Lúc chữa ung thư, luôn luôn chú ý đến nước. Các chai thủy tinh đựng đủ số lượng nước, đặt chỗ nào dễ thấy, để khỏi quên uống đủ mỗi ngày.

Trên mạng có rất nhiều thông tin về các loại thực phẩm, thức uống, thức ăn… “chuyên” chữa ung thư ! Tôi không phải là chuyên gia dinh dưỡng. Tôi tin và sử dụng thứ nào hằng ngày chúng ta có sử dụng trong mỗi bữa ăn. Cũng đừng tin ăn loại trái A, loại rau B, loại củ C… sẽ chữa hết ung thư. Nếu muốn ăn các thứ đó, phải chắc chắn chúng là những thứ chúng ta từng ăn từ nhỏ đến lớn và phải có liều lượng vừa phải. Không cứ trái cây nào, rau củ nào “diệt” tế bào ung thư, người bệnh chăm chú ăn quá nhiều, quá thường xuyên. Tôi xin nhắc lại: bất kể “nạp” cái gì vào cơ thể lúc điều trị, bệnh nhân phải hỏi ý kiến bác sĩ, người trực tiếp điều trị cho mình. Bữa ăn cho người bệnh, tôi nghĩ cần đủ dinh dưỡng, đủ chất, và đa dạng.

Tôi có nghe nói, người ăn gạo lứt muối mè có thể chữa khỏi ung thư. Tôi không phản bác nhưng tôi thì không theo, bởi có thử 1 tuần nhật, và bỏ cuộc: ngán quá, nuốt không nổi. Hơn nữa, bác sĩ trực tiếp chữa tôi có lời khuyên rằng: “Ông già rồi, ông cần ăn đủ chất; ăn gạo lứt muối mè không bảo đảm sức khỏe cho ông. Ông mạnh thì bệnh dễ lui; ông yếu bệnh sẽ giết chết ông”. Từ đó, tôi không theo đuổi phương pháp ăn gạo lứt muối mè nữa. Cũng có một số người tin, cách ăn như thế có thể chữa ung thư. Và, điều thật sự, chưa có chứng minh khoa học nào về vấn đề này, ngoài một số tài liệu trôi nổi.

Tôi có biết phương pháp ăn gạo lứt muối mè Ohsawa Nhật Bản. Cách ăn này không chỉ có 2 thứ muối mè, gạo lứt. Cách chọn thức ăn cũng rất phức tạp; phải phân biệt thức ăn nào âm, thức ăn nào dương; thức ăn dương phải đi kèm thức ăn âm; màu rau trái đỏ (dương) đi kèm màu rau xanh (âm). Nếu ăn theo phương pháp này, người bệnh cần phải ăn cho đúng bài bản, đúng phương pháp chính thống; không thể “nghe nói” tốt lắm là cứ áp dụng, trong khi bệnh nhân ung thư cần duy trì sức khỏe, để chống chọi không những với tế bào ung thư mà còn chống đỡ hóa chất tiêu diệt tế bào ung thư.

Tôi có tìm thấy một tài liệu tiếng Anh (có lẽ nhiều người biết) nói về tác dụng của rau ăn sống. Rau sống tốt hơn rau luộc càng tốt hơn rau nấu canh. Tài liệu cho biết, khi ăn rau sống, 15 phút sau, trong ruột, nhờ phản ứng hóa học, rau tạo ra một loại enzyme có thể tiêu diệt vi trùng, vi khuẩn, cả tế bào ung thư. Nếu đúng như thế, việc ăn rau sống của người Việt rất phổ thông ngày xưa, khi chưa có tâm lý e sợ thuốc bảo vệ thực vật hay hóa chất bảo quản. Có thể nhờ thế mà ông bà chúng ta ít ai bệnh ung thư chăng?

Quảng Nam quê tôi, món rau sống luôn có mặt trong bữa ăn quê thời trước; ngày nay cũng còn nhưng ít được sử dụng thường xuyên vì có thịt cá thay vào. Rau sống ghém: lá cải con, lá hành, lá tỏi, ngò rí, ngò gai, tần ô (cải cúc), giá sống, rau quế, rau húng, củ hành tươi, chuối chát thái mỏng, cà dĩa trắng xắt lát (loại dẹp như cái đĩa, giờ gần mất giống). Dân Quảng ăn món rau “cầu kỳ” như thế nên họ rất nhiệt huyết, khi cần tranh cãi họ ít chịu thua ai chăng? Và cũng nhờ ăn nhiều rau sống ghém, sức khỏe họ rất tốt. Chiến tranh thời kỳ nào, họ cũng tham gia đánh giặc, rất hăng hái.

Nhiều loại rau sống sẽ có nhiều enzyme, tôi nghĩ là rất tốt; ăn mỗi ngày rau sống đâu có hại gì đối với bệnh nhân ung thư. Và, trong thời gian chữa trị, mỗi bữa ăn của tôi đều có món rau sống. “Không bổ bề ngang cũng bổ bề dọc”. Người xưa có nói: đói ăn rau, đau uống thuốc.

Thức ăn cho người già 60 tuổi, lúc tôi mắc bệnh, không thuận lợi như người trẻ, do đó, người nào lớn tuổi, dinh dưỡng cần hết sức chú ý. Ngoài ăn uống đa dạng các thức ăn dễ tiêu hóa, dinh dưỡng, đủ các loại vitamin, tôi còn sử dụng thường xuyên 5 năm sau khi chữa hết bệnh: nước gạo lứt. Cách thức làm nước gạo lứt theo hướng dẫn của giáo sư Lập Thạch Hòa, người Nhật Bản.

Công thức tôi hay làm nước gạo lứt: 1 chén gạo lứt tốt / 8 chén nước. Gạo rang đều lửa trên nồi đất (tốt nhất) hoặc nồi inox, nồi nhôm (nếu không có hai nồi kia); phải là nồi chuyên để rang gạo, không lấy nồi đã qua sử dụng. Ngưng rang khi gạo trở nên màu vàng sẫm, nhưng không để cháy (hãy lưu ý chỗ này). Sau đó, gạo rang sẽ bỏ vào nồi nước (lường đủ 8 chén) đang sôi; để sôi đúng 5 phút, nhấc nồi ra, gạn lấy hết nước cho vào lọ chai (không dùng vật dụng nhựa, nhôm). Bắc một nồi nước với 8 chén nước, nấu sôi; khi sôi mới bỏ chỗ gạo vớt ra lần trước vào; sau đó cũng để đúng 5 phút, nhưng lần này cho lửa nhỏ xuống, không to lửa như lần trước. Sau đó, chắt lấy nước, hòa vào nước gạo nấu lần đầu, ta có một dung dịch nước màu nâu nhạt, hơi đục do lớp lụa nâu ở hạt gạo và hạt gạo mềm ra.

Để nước nguội, chúng ta cho vào tủ lạnh, ngăn mát, không để bên ngoài, nước rất dễ thiu. Quý vị để ý nước nào dễ thiu nước đó dinh dưỡng. Hãy quan sát nước trà thì biết. Chúng rất dễ thiu nếu để lâu. Tôi thì dùng 1 lít mỗi ngày. 16 chén nước (8 chén hai lần nấu) có dung tích chừng 3,5 lít. Uống hết lần này, chế biến lần khác. Ông giáo sư người Nhật kia từng nghiên cứu rất lâu mới tìm ra cách chế biến nước gạo lứt này. Dùng chung với “canh dưỡng sinh”, ông cho rằng nước gạo lứt có thể trị hết ung thư. Bản thân ông tự chữa ung thư cho mình, sau cái chết của cha và anh ông cũng mắc ung thư. Gạo lứt chúng ta thường ăn, bao đời không có hại, nước gạo lứt chế biến như thế, hẳn sẽ chẳng hại gì. Tôi dùng nó suốt thời gian chữa trị ung thư và gần 5 năm sau đó.

Nhưng thưa quý vị, loại bệnh ung thư của tôi có cách điều trị riêng và cách ăn uống của tôi cũng riêng, do đó, không thể lấy cách ấy làm chuẩn cho các bệnh nhân mắc các loại bệnh ung thư khác, trong khi tuổi tác không bằng nhau, cơ địa mỗi người không giống nhau. Tôi kể ra cũng chỉ để tham khảo, nếu thấy phù hợp với những bệnh nhân khác.

Tôi trao đổi để quý vị đang chữa trị, hay có thân nhân ung thư, một kinh nghiệm tham khảo. Điều rất đúng: không có cách ăn uống nào phù hợp cho tất cả mọi người, nhất là những người ung thư. Người bệnh ăn cốt sao cho bổ dưỡng, hợp khẩu vị, nhất là ngon miệng. Ăn ngon miệng, điều đó giúp tôi chóng lành bệnh, như thế, ăn dinh dưỡng nhưng phải ngon miệng: đúng với tôi và có lẽ sẽ đúng với người khác.

Saturday, August 24, 2024

Sách "Ung thư và con đường tôi chữa khỏi". CHƯƠNG 11

SỐNG CHUNG VỚI LŨ KHÔNG CÓ NGHĨA BÓ TAY VỚI LŨ

Có một điều ai cũng biết, lần đầu tiên phát hiện mình mắc bệnh, bất cứ bệnh gì, người bệnh rất lo lắng và sợ hãi. Phát hiện bị ung thư, nỗi lo lắng và sợ hãi sẽ không cùng. Tôi cũng vậy. Một thời gian hoang mang và đau khổ. Cuộc sống ngắn ngủi vậy sao. Tôi sẽ từ giã gia đình, người thân, bạn bè…sớm như vậy sao, dù ai cũng biết con người không phải đều 100 tuổi, chứ chưa nói tới trăm năm hạnh phúc.

Tạo hóa ban cho con người một tính năng tôi thấy rất đặc biệt: thích nghi. Có lẽ nhờ thích nghi, con người mới còn sống sót sau bao nhiêu là dâu bể, hàng triệu năm nay trên mặt đất. Động đất, núi lửa, đại hồng thủy, từng tiêu diệt giống nòi lớn nhất hành tinh: khủng long. Nhưng biết bao tai tai họa thiên nhiên không tiêu diệt nòi giống loài người nhờ cái “cây sậy” này biết “suy nghĩ” (Con người là một cây sậy, nhưng là cây sậy biết suy nghĩ” - Pascal). Biết suy nghĩ nên con người dễ thích nghi để sinh tồn trước bao nhiêu hiểm họa, tôi xin nói ở đây, hiểm họa mắc ung thư.

Lo lắng, sợ hãi cũng chết tại sao không lo lắng, không sợ hãi để “chống chọi” với ung thư; nói một cách khác, tại sao tôi không thể sống chung với căn bệnh quái ác từng giết chết rất nhiều người? Khi vô thuốc lần thứ ba, tôi không còn sợ ung thư nữa. Có lẽ tôi làm quen với lò lửa nung cháy gan, tim, phèo, phổi của tôi? Không. Chỉ một phần thôi. Các cơn hành hạ mấy hôm đầu của các lần vô thuốc vẫn như trước: ói mửa, nuốt không nổi hớp sữa chứ đừng nói ăn cơm, miệng lở loét, không ăn được cá kho ngót bỏ một hai lát hành tươi, chứ chưa nói cá cần phải tiêu phải ớt mới tránh khỏi tanh. Ngay cả bước ra hiên để nhìn ra cảnh vật bên ngoài, tôi cũng không dám: ánh sáng mặt trời như lò lửa phả hơi nóng vào mặt vào đầu vào da thịt tôi. Một cái nóng tôi chưa từng cảm nhận mà cũng không thể tả ra cho người khác cảm nhận.

Suy nghĩ “sợ cũng chết, không sợ cũng chết” trong tôi hình thành càng vững, càng rõ rệt, những tháng về sau trong thời gian chữa bệnh. “Thôi liều nhắm mắt đưa chân. Thử xem con tạo xoay vần đến đâu”. Hai câu thơ trong truyện Kiều rất thích hợp tâm trạng của tôi những ngày điều trị gian nan ấy. Tôi có thể cười sảng khoái khi ai đó đùa “hòa thượng thích đủ thứ” khi đầu tôi không một cọng tóc. Tôi không còn tha thiết uống bia dẫu một lon mỗi bữa ăn tối (Tôi có thói quen như thế cả chục năm nay). Tôi không còn cảm thấy thương thân trách phận, nước mắt chực trào ra như một vài lần đầu vô thuốc, khi ai đó nhận xét, liệu tôi có sức để chịu nổi hóa trị đủ thời gian hay không.

Sợ cũng chết, không sợ cũng chết, nói như ngôn ngữ bây giờ, là khẩu hiệu tôi hô vang mỗi ngày trong tâm trí. (Ấy là suy nghĩ của người bệnh ung thư như tôi; đâu phải mắc ung thư ai cũng chết). Tôi tìm đọc các sách về Phật giáo. Trong cái uyên áo của Phật pháp, có cái suy nghĩ, duyên hợp thì có, duyên tan thì mất; sự có mặt của tôi cũng là duyên hợp lại của cha, của mẹ, của ông bà tôi. Bây giờ duyên không còn hợp thì thân này phải tan, nghĩa là phải chết. Có chi đâu mà sợ.

Tuy nhiên, trong vài trường hợp “sợ quá” hóa “gan” (dạ). Tôi xin kể câu chuyện của mình. Một lần tôi bất đắc dĩ phải ở lại trong rừng một mình, cho đến gần tối không thể ở nữa để chờ đồng bạn. Quê tôi núi rừng nhiều hơn đồng bằng. Những năm đói khổ vì hợp tác thì núi rừng cứu đói nông dân trong đó có tôi.

Tôi vắt cơm gói bằng lá chuối, rìu rựa, đi theo các bác trong làng thành thạo núi rừng vào núi đẽo cây về bán. Núi chúng tôi đồi dốc rất đứng. Để giữ sức khỏe, vào rừng người ta sẽ theo lối đi lượn theo đồi dốc, xa hơn nhưng khỏe hơn; lúc ra người ta thả cây theo các dốc đứng ở lối khác, lần đó tôi chưa biết. Người ta níu gốc cây nhỏ tụt xuống, không phải vác cây trên vai nặng nhọc. Lần đầu tiên đi rừng theo họ, tôi không rõ có hai cách đi vào đi ra, khác nhau như thế.

Trên đường đi không ai lưu ý cho tôi biết điều đó. Thế là tôi ở chờ họ cùng ra cho đỡ sợ nếu đi một mình khi đẽo xong một khúc cây rừng. Chờ đến khi trời tối; trong rừng trời rất mau tối. Khi thấy tối hẳn, tôi buộc rìu lên vai, vác cây đi bộ, theo lối vào ban sáng.

Ở quê tôi, người ta bảo trong rừng không có ma mà có cọp. Xứ tôi sau các năm 1975, người đi núi vẫn còn thấy cọp; chúng rất dạn dĩ, khi đói có thể tấn công cả người hoặc bắt chó đi theo. Tôi lấy rựa bén cầm tay, vai vác cây đã đẽo; cây khá nặng nhưng lúc đó quá sợ nên quên cả nặng. Đi từng bước, chân đạp lên lá, tiếng động xào xạc; lúc đầu, tôi tưởng có cọp bước theo. Đi trong bóng tối, lần theo đường mòn, chốc chốc tôi quay lưng lại quan sát. Độ một tiếng sau, quá mệt, tôi không còn sợ cọp như lúc đầu. Trong đầu óc lóe lên suy nghĩ: cọp tấn công, tôi sẽ đáp trả, với chiếc rựa của mình trên tay. Nghĩ thế tôi không còn sợ nữa. Sợ quá hóa gan.

Không biết là mấy tiếng, thay cây vác từ vai này sang vai kia, và khi quá mỏi, đổi vai vác ngược lại. Rồi cũng tới đích, trước mắt là dòng sông, tôi ra đến bờ sông, bên kia bờ là lối đi về nhà. Trời tối đen như mực trừ trên mặt sông mênh mông, sóng nước chấp chóa, có đôi chút ánh sáng. Buổi sáng, sông cạn nước; buổi tối vì có mưa lũ từ nguồn đổ về, nước sông mênh mông. Một mình bơi qua sông trong đêm, không có gì sợ hãi bằng.

Câu chuyện về con ma-da tôi nghe lúc bé, một loại hà bá sống dưới sông, thường kéo người dìm xuống nước chết đuối, hiện ra trong đầu óc tôi. Nhưng gần khuya, không bơi qua sông tôi phải nhịn đói, chịu rét một mình cho đến sáng. Biết đâu có một con cọp nào đó theo dấu chân người đi kiếm ăn, tôi là mồi cho nó thì sao. Thế là tôi quyết định bơi qua sông.

Nỗi sợ hãi không còn. Sợ cọp, sợ ma-da biến mất. Bản năng sinh tồn làm tôi gan dạ. Tôi vừa bơi, vừa dìu cây cột chặt rựa rìu, đến bờ sông bên kia. Khi về đến nhà tôi thấy nhiều người hàng xóm còn đang lao xao trước cổng, kẻ đuốc người đèn, sáng cả khu vực; ba tôi nhờ họ vào núi tìm tôi nhưng không ai dám lội qua sông vì nước quá sâu. Sợ hãi cũng phải tìm lối sống. Lúc trẻ như thế, lúc già gần 60, không lẽ tôi chịu bó tay trước nỗi sợ ung thư?

Thích nghi với bệnh, các tác dụng phụ khắc nghiệt của thuốc, ngày càng nhiều nhưng ngày càng chịu đựng. Ý tưởng “sợ cũng chết, không sợ cũng chết” có lẽ giúp cơ thể tôi hình thành một sức mạnh nào đó; giống như khi vui vẻ cơ thể chúng ta tiết ra hormone “hạnh phúc” Dopamine.

Tôi nghĩ cái ý tưởng “thách thức” ung thư của tôi cũng na ná câu chuyện “đề kháng” của những người Việt qua Mỹ sống một thời gian dài. Ở xứ văn minh, có lẽ họ ít tiếp xúc với vi trùng. Trở về nước thăm quê, đi đâu họ cũng cầm theo chai nước lọc: họ sợ tiêu chảy. Lúc còn ở Việt Nam, tiêu chảy không bao giờ đến với họ. Người Việt có sức đề kháng cực tốt: gỏi cá, tiết canh vịt, tiết canh heo, có người còn ăn, trong lúc H5N1 làm chết biết bao nhiêu người. Và có bao giờ họ bị đau bụng?

Môi trường sống ở Việt Nam giúp họ làm quen với đủ các loại vi trùng, từ vi trùng con, vi trùng cháu đến vi trùng cha, vi trùng ông nội, ông cố, ông tổ… Họ không bao giờ sợ chúng. Nhưng khi qua Mỹ sống một thời gian, các thứ đều “vô trùng” tuyệt đối, họ rất ghê sợ tiết canh vịt và cũng không bao giờ thấy tiết canh vịt; họ sợ hãi vi trùng vì người Mỹ cũng rất sợ vi trùng. Chế vắc xin covid còn thử tới thử lui tùm lum, an toàn 95% cũng còn người sợ huống hồ vi trùng. Đó là lý do, mấy bác Việt kiều đi đâu cũng kè kè chai nước khoáng khi trở về “xứ sở của vi trùng”.

Con Corona giết chết cả triệu người trên thế giới cũng chẳng là cái đinh gì đối với đồng bào họ ở Việt Nam. “Sợ cũng chết không sợ cũng chết” biết đâu đã tiết ra cái chất giúp mấy bác Việt kiều khi còn ở Việt Nam chống lại vi trùng tiêu chảy, khi qua Mỹ cái chất ấy “ở lại” quê nhà; và biết đâu “khẩu hiệu” này cũng giúp tôi có sức đề kháng cái ông nội ung thư kia? Đến giờ này, gần 8 năm, tôi vẫn còn “chạy tốt” mà không còn sợ ổng đeo theo đe dọa. Hãy sống chung với ung thư như bà con sống chung với lũ; tất nhiên phải ở trên ghe, phải ở chỗ cao, đối với bệnh nhân ung thư là chữa trị và bồi dưỡng cơ thể, đặng tránh nước lũ nhấn chìm ghe. Sống chung với ung thư không có nghĩa phó mặc số mệnh mình cho nó.

Friday, August 23, 2024

Sách "Ung thư và con đường tôi chữa khỏi". CHƯƠNG 10

           ĐẾN NHÀ THƯƠNG, HÃY TRÁNH XA NHÀ XÁC

Một trong suy tính đầu tiên của người phát hiện mình ung thư là chữa ở đâu. Thông thường, khi có một hay nhiều dấu hiệu khác lạ trên cơ thể, hay khám một loại bệnh gì đó, người ta tình cờ phát hiện mình mắc bệnh ung thư nhờ bác sĩ. Tôi đi khám theo lời thúc giục của con gái đầu. Cháu có các khối u nhỏ ở ngực và nhiều lần đến Ung Bướu Sài Gòn. Một trong các dấu hiệu, cháu đọc trên tấm bảng lớn ở đó, nói về sự xuất hiện các khối u ở bất cứ nơi nào trên cơ thế, chúng ta cần phải biết nó là ác tính hay lành tính: đến bệnh viện. Có u lành và có khối u không lành. Phát hiện càng sớm, sự chữa trị càng hiệu quả, nếu là u ác tính, tức ung thư.

Nhiều người chữa khỏi như tôi đều chữa ở bệnh viện, theo tôi được biết. Người mắc ung thư chữa lành không phải ở bệnh viện, cho tới nay, tôi chưa gặp ai bao giờ. Khi chữa trị bệnh ung thư, cái làm tôi sợ hãi nhất là vô hóa chất – hóa trị. Bạn tôi có người chữa hóa trị rồi đến xạ trị. Anh ấy bảo xạ trị không “khủng khiếp” bằng hóa trị. Tất nhiên, tùy bệnh mà có cách điều trị khác nhau. Bệnh nhân không thể tự chọn cho mình một trong hai cách điều trị đó – trừ bác sĩ.

Thân thể rời rã, tóc rụng từng mảng lớn, rụng trụi, hóa chất chữa ung thư “đập” nát hình hài, chưa kể sức nóng của thuốc nung như thiêu như đốt từ bên trong; miệng người bệnh như phỏng nước trà nóng, cơm ăn phải quạt thật nguội mới nuốt nổi… Đó là những lý do, người bệnh dễ xiêu lòng trước sự giới thiệu của người quen chữa thuốc Nam, chữa Đông y hay sự mời mọc của những “thần y” xuất hiện không ít trên mạng với quảng cáo chắc như đinh đóng cột “không hết, trả lại tiền”.

Sống là chọn nhưng bệnh cũng phải chọn cho mình cách chữa trị bằng thái độ dứt khoát. “Bâng khuâng đứng giữa hai dòng nước. Chọn một dòng hay để nước trôi” rất đúng trong trường hợp này. Các bệnh viện ung bướu thành lập rất lâu, rất nhiều thời gian chữa trị ung thư. Kinh nghiệm tích lũy, cùng với khoa học tiến bộ trong y học, họ không đáng tin cậy hơn những thầy thuốc, thần y trôi nổi trên mạng hay sao?

Bệnh viện, theo tôi, nên là nơi người phát hiện bệnh ung thư tìm tới. Tuy hiện nay, số lượng bệnh ung thư mỗi năm mỗi tăng, 160.000/ năm (thống kê 2018). Chen chúc trong bệnh viện khi chữa trị là nỗi vất vả nhiêu khê đối với bệnh nhân; nhưng theo tôi, bệnh viện phải là địa chỉ đầu tiên người bệnh ung thư nên nghĩ tới.

Lúc tôi khám cho đến khi được cho lấy sinh thiết, kiểm tra, mất đôi ba ngày và nhận kết quả phải mất một tuần (nay không rõ nhanh hơn không). Các bác sĩ hỏi han tận tình và cặn kẽ. Các thông tin về người trong gia đình có ai từng bị ung thư không. Bản thân có lúc nào thấy có khối u rồi khối u mất đi không, hiện có đang bệnh gì không, có tiền sử bệnh gì không…

Đại loại, trước khi cho lấy sinh thiết khối u đi xét nghiệm, các bước “điều tra” rất kỹ lưỡng, không khác chi ở đồn công an. Ở các phòng làm việc tại bệnh viện, có thể chúng ta sẽ thấy một số nhân viên bực dọc, có lúc lớn tiếng, vì áp lực công việc, chứ các bác sĩ ở Ung Bướu Sài Gòn, tất cả đều có thái độ nhỏ nhẹ khoan hòa đối với bệnh nhân. Họ có học hành kiến thức chuyên môn và có tấm lòng cống hiến đối với những người bệnh ung thư; cái chết rất gần với bệnh nhân, cư xử với họ tử tế thể hiện văn hóa của các bác sĩ tại đây.

Các bước chuẩn bị điều trị ung thư như tôi có nói phần trước rất bài bản và rất khoa học. Trước quyết định hóa trị hay xạ trị, tất cả bệnh nhân đều được hội chẩn bởi một hội đồng đôi ba bác sĩ chuyên môn, trong đó có bác sĩ trưởng khoa. Bác sĩ điều trị cho người bệnh là “thư ký” của buổi hội chẩn đó. Kết luận điều trị đưa ra với ý kiến nhất trí của tập thể sau khi tất cả họ đọc hết hồ sơ bệnh lý, xem xét các kết quả xét nghiệm hỗ trợ. Phác đồ điều trị sai sẽ trả giá một mạng người. Quyết định hội chẩn có ý nghĩa quan trọng như thế. Tới phiên tôi, sau hội chẩn, tôi chưa được vô thuốc vì thiếu phần chụp cộng hưởng từ ở cổ, trong hồ sơ chỉ có chụp phần bụng và phần bẹn nơi hiện diện ung thư. Tôi phải bỏ một ngày hay hai ngày không nhớ rõ để lấy kết quả; bệnh nhân rất đông, máy móc không kịp giải quyết đúng thời gian như trông đợi của bệnh nhân.

Trước khi vô thuốc, cân nặng của bệnh nhân cần biết để phù hợp với liều lượng hóa chất chữa trị. Kho thuốc của bệnh viện là nơi làm việc khoa học và nhanh chóng nhất. Người ta sẽ phát thuốc theo toa người bệnh bỏ vào rổ theo thứ tự kêu trên loa. Cầm thuốc về phòng vô thuốc, tôi vẫn thấy thuốc còn lạnh như vừa mới lấy ra từ ngăn đá của tủ lạnh: thuốc được bảo quản rất tốt ở nhiệt độ phù hợp.

Nếu không chữa ở bệnh viện, người bị ung thư đến những ông thầy, bà thầy trôi nổi hay các “thần y” trên mạng, quy trình khám bệnh, xét nghiệm, quyết định hướng điều trị có bài bản, có chặt chẽ như tôi vừa trình bày? Chắc chắn là không. Chưa kể trình độ siêu việt của các ông bà lang kia không phân biệt người bệnh nhức đầu vì nguyên nhân gì – có hàng chục nguyên nhân khác nhau khiến con người nhức đầu – làm sao họ có phác đồ điều trị một loại bệnh cực kỳ khó trị và cực kỳ phức tạp như ung thư?

Tôi có biết trường hợp, bệnh nhân nghe “tham vấn” của người quen, hoặc ai đó “người thật việc thật”, quyết định bỏ dở điều trị ở bệnh viện, để đến địa chỉ “rất nổi tiếng” nào đó, họ từng chữa lành những bệnh mà bệnh viện “chê” trả về nhà chờ chết. Cũng có thể, bệnh biến chuyển gần đạt kết quả ở bệnh viện thì người bệnh đến một “thần y” nào đó, bằng những loại thuốc bổ “trá hình” nâng đỡ cơ thể, cộng với niềm tin tưởng, bệnh nhân trở nên lành bệnh. Đây chỉ là sự trùng hợp hay “ăn có” của thần y. Nhưng nếu có mệnh hệ nào, ví dụ như uống đôi ba “tể” thuốc hay mười “thang” thuốc, bệnh nhân về nước Chúa, thân nhân người chết sẽ nghe thần y giải thích “gia đình mang đến đây trễ quá” hoặc “tại sao đưa đến bệnh viện mà không đưa đến đây thật sớm”. Những thần y này không những “giỏi” chữa bệnh họ còn giỏi về tài hùng biện. Cuối cùng thì tiền mất tật mang.

Tôi không bài bác cách chữa Đông y hay thuốc Nam; hai ngành này đang cùng Tây y cứu chữa con người; nhiều người sống sót nhờ sự phối hợp đa dạng, nhờ tiến bộ y học phương Đông, phương Tây, cả phương Nam của chúng ta. Nhưng quý vị xem, có bệnh viện đông y nào có khoa chữa ung thư hay không? Huống hồ các ông bà lang, lang thang quảng cáo qua truyền miệng hay trên mạng internet?

"Nhất thì nhì thục" là câu đúc kết của nông dân trên mảnh ruộng của mình nhưng cũng rất đúng cho bệnh nhân mắc ung thư. Thì là thời gian gieo cấy đúng vụ. Thục là cày bừa cho nhuyễn trước khi gieo mạ. Có thế người nông dân mới có bội thu. Người bệnh không đi ra đồng như người nông dân nhưng nên đi bệnh viện, càng kịp thời gian, nghĩa là càng sớm, càng tốt. Bản thân tôi chỉ cần trễ 15 hay 30 ngày, các hạch sẽ đi đến nhiều vùng trong cơ thể, người ta hay gọi là “di căn” – hết phương cứu chữa, hay rất khó cứu chữa.

Lúc điều trị bệnh ở nhà thương, tôi có quen một thầy giáo dạy cấp ba nhà ở một tỉnh miền Trung. Anh lên thành phố Sài Gòn chữa tiếp bệnh giống hệt tôi. Quý vị biết rồi, phác đồ hai, chữa lần hai bệnh ung thư, cơ may chữa khỏi rất khó khăn. Tôi thắc mắc trước đây anh chữa ở đâu và anh trả lời… “chữa tư”. Trời, tôi thầm kêu trong bụng. Mà lại chữa tư ở phòng mạch bác sĩ. Chữa ở nhà ông lang nào đó còn có thể hiểu được, chữa ở nhà một bác sĩ, điều không thể tưởng tượng. Anh kể, vị bác sĩ có làm ở khoa ung bướu của bệnh viện địa phương nhưng muốn chữa ở nhà để bệnh nhân đỡ phải chầu chực hay vất vả thủ tục rườm rà. Một bệnh nhân chữa “ngoại trú” giống tôi ở Sài Gòn. Sau các lần vô thuốc tại nhà, các xét nghiệm – tất nhiên ở bệnh viện – cho kết quả “lui bệnh” (trong y tế, không có khái niệm “hết” bệnh ung thư). 6 tháng sau các khối u xuất hiện lại ở hai bẹn, hai nách, cả ở cổ…cùng loại bệnh như tôi.

Anh đến hỏi bác sĩ, ông ấy bèn hỏi ngược lại anh, có khi nào đi dự đám tang ai hay không. Anh đáp có, đám tang anh ruột mình. Bác sĩ thở ra: “Tôi dặn anh, hết ung thư, không nên đến gần các nơi có đám tang, bệnh rất dễ trở lại. Anh không nghe tôi, giờ bệnh trở lại, tốt nhất là nên vô Sài Gòn”. Anh làm theo lời bác sĩ “gia đình” (!) kia và nói với tôi câu chuyện này.

Nhà chức trách, ở đây là bệnh viện nơi bác sĩ công tác, sẽ kỷ luật vị bác sĩ nếu phát hiện việc làm sai trái của người chữa trị ung thư không được phép này. Nhưng việc kỷ luật ấy có khắt khe cũng không khắt khe bằng tình trạng của vị thầy giáo: chữa bệnh ung thư không kịp thời. Thời gian làm vật “thí nghiệm” cho vị bác sĩ kia dẫn đến hậu họa, vị thầy giáo này phải gánh: chữa trị tiếp phát đồ 2, phác đồ đầy “bất trắc”.

Cách giải thích của ông lang trên kia, “đến chữa ở ông trễ quá” và cách giải thích của ông bác sĩ bên dưới, “bệnh tái phát vì bệnh nhân ung thư đến chỗ đám ma” (*) rất giống nhau ở chỗ: lấp liếm và vô trách nhiệm nếu không nói là quá nhẫn tâm, vô đạo đức. Họ vì tiền mà tước mất cơ hội - ở đây là thời gian - chữa bệnh thành công, một cơ hội sống cho một mạng người.

Tuy nhiên, trước căn bệnh nguy hiểm như ung thư, với cách chữa trị hiện nay (hóa trị hay xạ trị), tác dụng không mong muốn trong điều trị lên cơ thể người bệnh khá là nặng nề. Có khuynh hướng của một số người mắc bệnh ung thư là chọn chữa trị bằng thuốc Nam hoặc bằng Đông y; thuốc Nam hay được nhắc tới nhất vì người ta cho rằng, cách chữa của thuốc Nam không gây tác dụng phụ, “khốc liệt” như Tây y. Tôi không có ý kiến trước sự chọn lựa cách điều trị ung thư như thế, nhưng tôi cho rằng chưa có bao nhiêu người ung thư, với bao nhiêu loại ung thư chữa lành bằng thuốc Nam (hay Đông y) được thống kê chính thức như bên Tây y; các tổ chức y tế nhà nước có con số thống kê rõ ràng. Một bên còn mù mờ, một bên rất rõ ràng trong chữa trị ung thư, người mắc bệnh quyết định thế nào?

Vâng, sống là chọn, trong trường hợp này chọn lấy cách chữa trị một căn bệnh quái ác cho mình là chọn lẽ sống hay chọn lẽ chết. Theo thống kê tôi nói ở phần trước, qua báo Thanh Niên, năm 2018, có 115.000 người chết trên 300.000 người đang điều trị; tôi xin lặp lại, tỷ lệ ấy là có 32 người chết và 68 người sống trên 100 người. Tỷ lệ người sống ấy nhiều hay ít khi so sánh với số lượng người bệnh chữa bằng thuốc Nam? Và con số chữa lành là bao nhiêu? Mù tăm chim cá. Vậy, tại sao người ung thư lại chọn cho mình cách chữa u u minh minh?

Tất nhiên, thuốc Nam có những loại cây lá, cứu chữa nhiều bệnh nhưng phải được người có thẩm quyền ra toa, người bệnh không thể tự ý sử dụng theo hiểu biết cá nhân, thu nhặt trên mạng, hay nghe truyền miệng với nhau. Điều chắc chắn đối với tôi, ung thư không thể chữa bằng cây lá vu vơ chưa được khoa học kiểm nghiệm.

Tôi cũng như quý vị, tất cả đều mơ hồ về chữa ung thư bằng thuốc Nam. Rõ ràng các quảng cáo “đã chữa lành cho ông A, bà B ở phố nọ, phố kia, số điện thoại, số nhà”, nhưng thử hỏi có ai thống kê là bao nhiêu không? Có hội đồng khoa học nào chứng nhận các loại thuốc Nam nào chữa khỏi ung thư không? Không, vậy khi biết mình mắc ung thư, bệnh nhân nên đến bệnh viện thăm khám và chữa trị, tôi nghĩ đó là cách tốt nhất.

Không cuộc sinh nở nào không đau đớn, cách chữa trị bằng hóa trị, xạ trị rất là “đau đớn” nhưng cơ may sống sót là có; “sinh đẻ” (như sống lại) là đây chứ ở đâu nữa. Do đó, tôi nói “nên đến nhà thương nên tránh xa nhà xác” mang ý nghĩa như thế.  

(*) Có một tin tưởng, người chữa lui bệnh ung thư hạch bạch huyết, không nên đến chỗ tang ma, bệnh sẽ dễ tái phát. Đây có thể là cách giải thích tâm lý: người vừa khỏi bệnh nên giữ tâm thái bình an, vui vẻ, tránh xa cảnh bi thương, bi lụy như thường thấy ở các đám ma. Tôi chưa đọc tài liệu nào nói có liên quan giữa đám ma với ung thư.