Friday, March 8, 2024

CHIẾC ÁO ẤM LEN.

Mưa trên phố Huế có bài hát nhưng mưa trên phố Hội thì không. Hội An có nhiều thi sĩ hơn nhạc sĩ. Thơ về thành phố cổ này nhiều nhưng nhạc thì không thấy bài nào hay nói về mưa Hội An, tôi muốn nói mưa phùn.

Mưa đẹp nhất phải là mưa phùn, kèm gió bấc (hay bắc?) ắt đẹp hơn nữa. Mưa như mưa dầm, mưa bão, mưa lụt…ngày này qua ngày khác, tuần này (có khi) qua tuần khác, mưa như thế buồn chết đi được.

Mưa phùn lất phất không làm ướt áo len, hay áo măng tô, hay pạc-đờ-xuy…những loại áo ấm thường thấy ở Hội An thời tôi còn đi học thập niên 1960.

Y phục đôi khi làm lộ sự xuất thân: giàu nghèo, sang hèn, quý phái, dân dã. Ở các cô cậu học sinh, sự phân biệt ấy không có, hay có mà không nhiều. Ở Hội An thời xưa không thấy xã hội phân chia ‘giai cấp’ qua y phục.

Mưa như sương rớt, những hạt nhỏ li ti, kèm theo giá lạnh mùa đông, hạt mưa trở nên dễ thương, hiền lành. Hạt mưa rơi trên tóc ai. Hạt mưa rơi trên má ai. Hạt mưa như trêu cợt những thiếu nữ xuân thì, chân nhè nhẹ bước, áo dài bay bay, bên trên là chiếc áo len cổ tròn, màu đỏ, màu hường, màu vàng…có chiếc đan len kim tuyến lung linh.

Bước đi thư thả của các nữ sinh đến trường làm mấy chàng đi sau bỗng thấy tương tư bời bời trong dạ. Bài hát “em tan trường về” không chỉ mỗi tên là Ngọ. Nào Lan, nào Hồng, nào Thúy, nào Đào, nào Mai…Mỗi cô mỗi sắc trong những chiếc áo ấm không che hết cơ thể rào rạt xuân thì. Mưa làm ướt áo không phải là mưa phùn.

Trong không gian trầm lặng của một thành phố cổ trầm tư, mưa phùn lất phất, từng chập từ trên không rơi xuống, bóng người “trong mộng” đi như “mờ mờ hơi sương”, không phải để “vấn đầu soi gương” mà là để đến ngôi trường yêu thương.

Đố một chàng trai nào ở Hội An không để ý một cô gái nào mặc áo ấm mùa đông, mùa mưa phùn gió bấc, mùa của những hạt nước bay bay li ti trong giá lạnh gần xuân. Áo len đan giản dị ôm trọn cơ thể người mặc, thường là một màu, không xen kẽ trang trí nhiều hoa văn như các loại áo len đời nay. Mặc áo len giữ ấm. Mặc áo len không phải để khoe sắc. Do đó, áo len luôn giản dị, nhu hòa, và gọn ghẽ: áo len học trò.

Mùa hè, mùa thu, các cô chỉ mặc toàn là áo dài màu trắng. Thanh thoát và dịu dàng. Nhưng chỉ mùa đông, các nàng mới có chút ‘điệu đàn’ nhờ màu sắc của những chiếc áo len. “Người đẹp nhờ lụa, lúa tốt nhờ phân”. Đố cô nào đẹp mà không mặc … áo quần.

Càng đẹp hơn khi tan trường, chàng nào có duyên tiền định, được cô bạn thân  nhờ “cầm giúp chiếc áo len màu tím” khi trời không còn lạnh. Có câu thơ nào, có đoạn văn nào, diễn đạt hết nỗi lòng rộn rã của một chàng trai, vừa ôm giúp áo, vừa nghĩ ngợi lung tung “thương nhau cởi áo cho nhau” không? Thưa các bạn, tôi là người may mắn đó.

Nhưng thói đời “có mới nới cũ “. Hay: “ Bao giờ quen thuộc cũng khinh khi” (Xuân Diệu). Một ngày khác, một bạn khác, chứ không phải tôi, được “người đẹp” nhờ cầm giúp áo ấm len màu tím, nàng cởi ra vì nóng lúc tan trường vào trưa.

Không vì mất lòng tin mà tôi không còn yêu những chiếc áo len màu khi nhớ về mỗi mùa đông “mưa phùn lất phất” thuở còn đi học. Hội An đẹp biết bao với những chiếc áo ấm len nhiều màu, lấm tấm những hạt mưa phùn cuối đông.

Ngày nay, thi thoảng tôi có về thăm thành phố “di sản” này vào mùa giáp Tết. Nhưng thật thất vọng, những chiếc áo len màu ngày xưa không còn nữa trên các con phố lất phất mưa khi vắng khách thăm thú, vãng lai. Con hẻm cuối đường Nhị Trưng (nay là Hai Bà Trưng), con hẻm đẹp nhất; nó chứa trong tôi biết bao là kỷ niệm thời niên thiếu. Kỷ niệm của những lần, “anh theo Ngọ về, tóc dài lặng lẽ” đường đi.

Nhưng biết đâu, không tìm thấy những chiếc áo len màu mùa đông, tôi lại càng yêu mến Hội An hơn. Ai mà không yêu tuổi hoa niên kia chứ. Càng yêu tuổi hoa niên, tôi càng yêu chiếc áo ấm len màu tím năm nào.

Tuesday, March 5, 2024

CÂY GẠO HÀ NHA (*)

Hà Nha là tên gọi cũ của một ngôi làng nằm trong huyện Đại Lộc, thuộc tỉnh Quảng Nam.  Quê tôi có nhiều ngôi làng bắt đầu bằng chữ Hà rất dễ nghe. Hà Tân, Hà Thanh, Hà Dục Đông, Hà Dục Tây, Ha Vi…Hà có lẽ là sông. Những làng quê ấy đều có con sông Vu Gia chảy qua. Tổ tiên chúng ta ngày xưa lập làng gần sông để dễ dàng đi lại và vận chuyển chăng? “Nhất cận thị, nhị cận giang” (nhất gần chợ, nhì gần sông).

Khi đặt một địa danh, ông bà chúng ta cân nhắc rất kỹ: Tên phải hay và vừa ý nghĩa; gọi lên còn nghe êm ái như tên một người thân yêu, ruột thịt.  Có như thế, khi đi xa người ta mới canh cánh bên mình một quê hương.

Hà Nha không phải là nơi tôi chôn nhau cắt rốn. Hà Nha nằm trên con đường về nơi tôi sinh ra. Nhưng nơi này gây cho tôi ấn tượng.

Có hai  cái ai cũng để ý khi đi qua nơi này: Cầu và cây gạo Ha Nha. Không biết bao nhiêu người qua đây dừng lại để ngắm cảnh và chụp hình. Một cây cầu dài vắt qua một con sông rộng. Đứng trên chỗ cao nhất giữa cây cầu, quý vị sẽ thấy dòng sông như dang tay ra hai bên bờ sông rộng, muốn đón lấy những “nà” (cánh đồng) bắp vừa trổ cờ, thân bắp xanh hết chỗ. Nếu là ngày đẹp trời, trên cao sẽ có những dải mây trắng không muốn bay đi. Làn gió trên sông thổi mát. Cái không khí lành lạnh khác rất xa cái lành lạnh phát ra từ một máy điều hòa. “Gió mùa hè trên cầu phơ phất tóc ai bay”.

Nhưng cây cầu đẹp sẽ giảm đi ý nghĩa nếu chúng ta dừng lại chụp hình mà không nhìn, chếch về phía Tây Nam, một cây gạo xa xa, nhưng cảm giác rất gần vì nó khá to. Nếu đo luôn những dè đóng quanh gốc, bề vòng có thể là  sáu bảy mét.

Giống như đào hay mai, gạo chỉ ra bông mỗi năm một lần. Chẳng cần rứt lá hay bón phân, gạo nở hoa rực rỡ, mạnh mẽ, không cần chớm nụ. Hoa phủ cả thân cây như một chùm pháo hoa bắn lúc cao trào: Đỏ rực. Người ta nói hoa gạo đỏ một góc trời là nói đúng đó. Khi gạo ra hoa, lá dường như biến mất. Cành nhánh tới đâu hoa bung tới đó. Khác với hầu hết các loại hoa, hoa gạo khi rụng vẫn còn tươi nhanh như chưa rụng. Không có vẻ gì là héo hắt khiến hoa phải lìa cành. Hoa rụng khẳng khái, dứt khoát, không hối tiếc. Hoa gạo lìa cành khi màu đỏ vẫn tươi để chứng tỏ cho con người thấy, hoa luôn giữ mình son sắt.

Cây gạo cao như một ông già sống lâu trăm tuổi. Thân mình xù xì đầy gai góc. Những chiếc rễ to như thân người có chỗ trồi lên mặt đất. Cây gạo cổ thụ chẳng vì tuổi tác mà không đem lại hoa thắm đỏ cho cuộc đời.

Hầu hết các loại hoa quý như mai hay đào đều ra hoa vào đầu xuân. Gạo thì không 'bộp chộp' như thế. Hết tháng Giêng “ăn chơi”, gạo mới chịu ra hoa. Người ta ngắm hoa đào chứ ít ai xem hoa gạo. Chỉ những người có làng quê thì mới có dịp nhìn gạo ra hoa. Hoa gạo do đó rất khiêm nhường. Gạo chỉ còn và chỉ ra hoa ở những làng quê xa lắc xa lơ.

Rất nhiều bài thơ ca ngợi hoa gạo mà ít khi để ý tới thân cây. Các thi nhân còn đặt hẳn cho gạo một cái tên sang trọng: Mộc Miên. Có một thi sĩ người Quảng Nam viết về mộc miên:

"Rất điệu đàng

Như làn môi con gái

vô tình bay

Giữa cây cỏ xanh non

Nhớ ơi cố lý-

bây giờ xa ngái

Nhớ Tháng Ba

họa gạo rụng ven đường

(…)

(Nhớ là cái gì-

mà sao lại nhớ

Nhớ ai-

nhớ quay nhớ quắt

suốt một đời

Hoa gạo đỏ-

nụ hôn thầm bữa đó

Người đi rồi

sao nhớ chẳng đi theo!)

Con sông quê

đã buồn bã đổi dòng

Cây gạo cũ chơ vơ

bên phố mới

Ở phương xa

chắc gì em còn nhớ

Tháng Ba về

hoa gạo đỏ rưng rưng… (**)

Tôi không nói sai. Hoa gạo đi vào thơ ca không chỉ “điệu đàng” “như làn môi con gái” hay “Hoa gạo đỏ- nụ hôn thầm bữa đó”.

Hoa gạo đi vào văn học vì nó còn là biểu tượng của một quê hương.

Có thể nhiều người chưa biết cây gạo. Họ biết nó qua thi ca. Nhưng chúng tôi, những người con vùng thôn quê, cây gạo là dấu ấn, in vào tâm thức rất sâu khi chúng tôi còn nhỏ. Ít ai đặt tên cho một loài cây tầm thường. Nhưng gạo lại có tên ghép với tên làng. Quê tôi, có những tên như: cây gạo Hà Tân, cây gạo Trúc Hà, và đây là cây gạo Hà Nha. Còn rất nhiều cây gạo khác chỉ còn trong ký ức cây gạo ông Tuân, cây gạo Nà Sằm, cây gạo Non Tiên, cây gạo Đoài Sơn…

Gạo gần như không phải là loại gỗ gia dụng. Gạo có tán lá rất to nên chiếm rất nhiều diện tích. Nhưng tại sao người ta vẫn trồng gạo?

Những cây gạo của làng. Đời này sang đời khác, có những cây gạo có tuổi đời bằng năm ba thế hệ; có khi hơn. Gạo cho trái có bông, gọi là bông gạo như bông gòn. Bông gạo lấy từ trái có màu trắng nõn như tuyết. Bông gạo thường dùng độn vào gối nằm rất êm; hoặc làm tim đèn dầu, tim hộp quẹt.

Có lẽ vì tuổi thọ cao – không biết là mấy trăm năm- ông bà chúng tôi trồng nó để có một cái biểu tượng của làng quê mình sinh sống. Cây gạo càng to lòng tin vào sự linh thiêng càng mạnh. Khi được cho là linh thiêng, cây gạo lại có thể sống rất lâu đời.

Khi đi đâu xa về, ngày xưa toàn là đi bộ, ông bà chúng tôi sẽ thấy gần đến nhà, nếu xa xa, cây gạo đầu làng hiện ra. Tôi không hiểu tại sao gạo lại thường trồng ở đầu làng. Mỗi làng đều có cây gạo cổ thụ. Có khi nhiều cây là đằng khác. Nhưng chắc chắn có một cây to nhất và “linh thiêng” nhất. Bên gốc sẽ có một hai bát nhang. Chân nhang luôn thấy mới.

Cây gạo là nơi làm tổ của các loài chim, nhất là chim cưỡng – loài chim bay rất xa và làm tổ rất cao. Loài chim thật thà (“Uổng công cà cưỡng tha mồi. Nuôi con tu hú lớn rồi bay đi”). Trên những cây gạo vươn lên trời cao sẽ có tiếng chim cưỡng kêu vang mỗi ngày. Buổi sáng và mùa hè tiếng chim kêu rất nhiều. Và luôn luôn rộn rã.

Từ dưới đất nhìn lên cao, gạo có rất nhiều tổ chim. “Thánh địa” an toàn. Không ai trèo lên gạo vì thân cành chúng đều có gai nhọn phủ đầy. Đất lành chim đậu. Ở đây là cây lành chim đậu.

Có một thế giới của những sinh vật xem bầu trời là nhà, không gian là chỗ bay, cành cây gạo là nơi trú nắng trú mưa, nơi sinh con đẻ cái. Vì vậy, tổ tiên chúng tôi từ Thanh Hóa, Nghệ An vào lập nghiệp đã nghĩ đến việc trồng cây gạo? Cây gạo đi vào đời sống tinh thần của người nông thôn. Nghe tiếng chim kêu trên cành; nhìn cánh chim bay vào ra; xem hoa gạo nở đỏ giữa mùa xuân; từ xa trông thấy cây gạo là thấy “về nhà”; cây gạo không là đời sống tinh thần của người thôn quê nghèo thời xưa? Vì lý do đó mà làng nào cũng trồng cây gạo?

Khi con người bị cái ăn đè nặng, họ trở nên cộc cằn và thô bạo. Cái ăn ám ảnh. Những năm chấm dứt chiến tranh, cái ăn còn ám ảnh hơn. Người ta chẳng ai quan tâm tới những cây gạo già "vô tích sự". Những cây gạo có tàn lá to lại choáng đất. Đất cần cho sản xuất. Người ta cắt bỏ những cây gạo, có những cây tuổi thọ hằng mấy trăm năm để lấy gỗ làm ván đóng hòm cho người chết. Thời ấy, cây gỗ đâu ai vào rừng khai thác. Trên các cánh đồng, người nông dân mãi vật lộn với cái ăn.

Trong chiến tranh, số phận cây gạo cũng không khác con người. Bom đạn làm chết người. Cây gạo cũng thành nạn nhân. Có tán lá to tạo bóng mát, đồng thời gạo cũng là chỗ trú ẩn của du kích. Hoặc dùng dây leo lên cao quan sát sự dịch chuyển của đối phương, gạo trở thành mục tiêu của bom, cả mìn đặt dưới gốc, nếu bom không đánh gãy được cây gạo mấy người ôm. Sau chiến tranh, người ta phát hiện có xác người chôn bên gốc gạo; gạo bị giết chết thì người còn sống sao?

Cây gạo sống cùng người dân quê, như tôi biết, đời này sang đời khác, tôi muốn nói đời người, nay còn lại được bao nhiêu, ở một vùng quê có thể nói chiến tranh ác liệt nhất của tỉnh Quảng Nam.

Do đó, mỗi lần về quê, thấy một hay hai cây gạo còn sót, lòng tôi bồi hồi khôn tả. Cây gạo đầu làng tôi không còn. Nhưng cây gạo ở làng khác làm tôi cảm thấy bớt trơ vơ. Đầu tháng ba (như tả trong bài thơ) là thời gian hoa gạo nở hoa, sáng cả một góc trời. Khung trời kỷ niệm.

Cây gạo Hà Nha ở xa làng tôi cả chục cây số đường chim bay. Nhưng nhìn thấy nó, nhất là mùa nó ra hoa, tôi như nhìn thấy làng tôi từ thuở chưa có chiến tranh. Cây gạo nhắc tôi nhớ đến thời gian yên bình. Con chim trên cành không sợ ná. Chim không trở thành món nhậu. Cây gạo là giá trị tinh thần của dân làng tôi không biết là mấy trăm năm về trước. Cây gạo xưa hiện về nhờ tôi thấy cây gạo Hà Nha.

Khi gạo ra hoa đỏ rực, người ta nhớ đến thi ca. Người ta đến đó để chụp ảnh với áo quần thật đẹp. Còn tôi, tôi nhớ về quá khứ. Thấy nó tôi như thấy quê hương.

Ước chi cây gạo cổ thụ đẹp nhất ở vùng quê chúng tôi vẫn trường tồn cùng năm tháng. Người ta có cuộc sống khá hơn xưa. Tại sao cây gạo cổ thụ này không được mọi người quý mến. Ở châu Âu, tôi thấy cây sồi. Cây sồi có nhiều huyền thoại. Đối với tôi, cây gạo còn huyền thoại hơn cây sồi. Nước tôi có cây gạo. Nước tôi không có cây sồi. Cây gạo Hà Nha - ước chi là mãi mãi.

(*) Thật ra cây gạo này nằm trên địa phận Ngọc Kinh nhưng tôi gọi nó bằng cái tên Hà Nha. Đứng trên cầu Ha Nha, cây gạo nhìn mới đẹp rực rỡ.

(**) Nhớ Tháng Ba Hoa Gạo thơ của Nguyễn Văn Gia đăng trên một tờ báo ở Hoa Kỳ.

Vài hình ảnh về cây gạo cổ thụ của Nguyễn Ngọc Vinh.

Friday, March 1, 2024

GA TÀU THỦY

Cái tên gọi dậy sóng; không hẳn nó sai văn phạm hay sai ý nghĩa. Nếu có ga hàng không thì tại sao không có ga hàng hải (có tàu thủy)? Ga xuất xứ từ gare tiếng Pháp. Người Pháp xâm lược nhưng có người Pháp chúng ta mới có đường xe lửa xuyên Việt. Ga do đó rất thân thương. Ga (Gare) là chỗ dừng và đi của tàu lửa. Chỗ diễn ra trùng phùng và chia tay. Người ta “nổi lửa” với mấy chữ Ga Tàu Thủy, một phần vì không ai gọi như vậy, nhưng phần chìm, chính là phân biệt Nam-Bắc. Bực dọc từ lâu cho cái chuyện Tân Sơn Nhứt thành Tân Sơn Nhất.

Vì sao lòng người Nam-Bắc không thống nhất dù đất nước thống nhất gần nửa thế kỷ nay? Vì trước đây, miền Nam không theo cộng sản; miền Bắc thì ao ước “thế giới đại đồng”. Chiến tranh.

Bây giờ mà nói Nam-Bắc “phân tranh”, không khéo người nói sẽ sa vào tội “gây chia rẽ dân tộc”. Nam-Bắc phân làm hai không hẳn do chiến tranh Trịnh-Nguyễn. Thời Pháp thuộc, thực dân rất am hiểu nội tình. Họ khôn ngoan khi chia Việt Nam thành ba kỳ: Bắc kỳ, Trung kỳ, và Nam kỳ. Mỗi kỳ có một chế độ chính trị riêng. Chia để trị. Thời 1954-1975, ba kỳ dồn thành hai: Nam kỳ và Bắc kỳ, phân chia ở vĩ tuyến 17, bởi sông Hiền Lương (một sông Gianh thời Trịnh Nguyễn).

Sau tháng 7, 1954, Bắc (kỳ) vẫn còn là anh em với Nam (kỳ). Gần một triệu người bỏ nhà cửa, ruộng vườn, dòng tộc, mồ mả cha ông, gồng gánh vào Nam (kỳ). Một cuộc chia ly chưa từng có trong lịch sử lập quốc và giữ nước của dân tộc Việt. Lý do, ai ai cũng biết: Trốn chạy cộng sản. Cộng sản là lý tưởng. Không còn bóc lột. Không còn giai cấp. Mọi người bình đẳng. Có những cuộc “san bằng” giai cấp: Đấu tố địa chủ, phú nông- giai cấp bóc lột.

Vì sao người dân Việt Nam, hàng triệu người,  một lòng từng đứng dưới  ngọn cờ dân tộc, Hồ Chí Minh giương cao, lại trốn chạy thể chế cộng sản? Một thể chế mà cả cuộc đời của ông, không vợ, không con, hy sinh cả tuổi thanh xuân để phấn đấu nhằm mang lại cho dân tộc Việt Nam,  bị dày xéo dưới gót giày thực dân Pháp, một cuộc sống ấm no, độc lập, tự do và hạnh phúc.

Những người miền Bắc di cư vào Nam không hề mê muội. Không hề nghe theo luận điệu “Chúa đã vào Nam”.  Họ rất tự do: Không ai ép họ bỏ quê hương miền Bắc thân yêu để vào một nơi xa lạ miền Nam. Họ rất sáng suốt. Họ sáng suốt quyết định vì họ quý trọng tự do, hơn mạng sống.

Những người Bắc di cư được người Nam đón nhận, chan hòa. Không hề phân biệt Nam-Bắc. Họ thương đồng bào mình- những người trốn chạy cộng sản, trốn chạy độc tài. Người Bắc nắm giữ những chức vụ quan trọng trong chế độ VNCH ở miền Nam.

Không hẳn họ là những người theo đạo công giáo. Họ thuộc thành phần trí thức. Hầu như nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ, kỹ sư, bác sĩ và thành phần trí thức khác đều có gốc Bắc kỳ. Họ nổi trội. Đó là sự thật. Nếu thống kê nguồn gốc xuất thân, người gốc Bắc, trong đó đa phần là người di cư- đều nằm trong hàng ngũ hay tầng lớp ưu việt sinh sống ở miền Nam sau 1954.

Nhiều nhóm dân cư “Bắc kỳ” đóng góp rất nhiều trong sự phát triển của miền Nam, không phải chỉ có tầng lớp trí thức. Không có sự phân biệt Nam-Bắc trong thời kỳ VNCH (đệ nhất cũng như đệ nhị). Vì sao? Người Nam là người Bắc. Người Nam không thể là người Chiêm Thành, người Chân Lạp. Dù hai dân tộc này đóng góp vào sự phát triển của người miền Nam.

“Này cô em Bắc Kỳ nho nhỏ

Này cô em tóc demi garcon,

Chiều hôm nay xuống đường đón gió,

Cô có tình cờ,

Nhìn thấy anh không?

Này cô em Bắc Kỳ nho nhỏ

Này cô em có nụ cười ngây thơ

Thành khi không quãng đường im gió,

Không gió lấy gì lang thang,

Cô có thương thầm anh không?

Nếu coi những người Bắc vào Nam sau 1975 như người Bắc vào sau 1954, thì sẽ không có tình tự yêu thương như những câu hát Phạm Duy phổ từ thơ của một thi sĩ miền Nam.

Vì sao? Cô Bắc kỳ nho nhỏ này không phải là đoàn viên thanh niên CS HCM. Nếu cô là đảng viên, đố ông nội thi sĩ, đố ông ngoại nhạc sĩ nào dám giỡn mặt.

Ý thức hệ cộng sản và không cộng sản chia rẽ dân tộc Việt Nam. Đó là một bi kịch lịch sử của đất nước.

Trở lại câu chuyện ban đầu: Ga tàu thủy (Bạch Đằng). Hầu như mọi người đều cho, cái tên này không do người Sài Gòn đặt. Ở Sài Gòn, từ nhỏ chí lớn, từ trẻ tới già, từ bình dân đến trí thức, không ai gọi ga (Bạch Đằng). Họ gọi là bến. Bến Bạch Đằng.

Như tôi nói ở đầu bài, ga tàu thủy cũng không khác ga hàng không. Ga là gare trong tiếng Pháp. Ga xe lửa hay ga tàu lửa (sau này). Tàu lửa, tàu bay, tàu thủy có ga được không? Tại sao tàu lửa, tàu bay có ga mà tàu thủy lại không? Bất công đấy chứ. Ngôn ngữ do con người chế ra mà.

Nhưng trong chỗ thầm kín, người miền Nam- thực ra là người Sài Gòn- không thích hay không chấp nhận những cái họ cho là bị “áp đặt”. Tại sao không gọi là giao lộ (như ngã tư) mà gọi là nút giao? Tại sao không gọi bùng binh hay vòng xoay mà gọi là vòng xuyến? Có thể người đặt những danh xưng đó có thẩm quyền: đặt theo suy nghĩ của họ. Nếu người có thẩm quyền ấy không phải là người Nam, người Sài Gòn, thì nút giao, vòng xuyến là thể tất. Nhưng cách đặt tên ấy rất “trái tai “ người Sài Gòn.

Bao đời nay, người dân Sài Gòn không quen với những cái tên ấy. Phản ứng của họ có thể hiểu được. Bên “Thắng cuộc” muốn đặt sao tùy ý. Nhưng bên “thắng cuộc” thì nghĩ từ ngữ quen thuộc với họ là OK?

Tôi gây ra chia rẽ vùng miền ư? Không. Trong sâu thẳm, người miền Nam (đa phần) vẫn nghĩ người miền Bắc là “kẻ chiến thắng”. Mặc cảm “kẻ thua cuộc” vẫn còn- đó là sự thật. Chỉ một tên gọi thôi cũng dấy lên trong lòng người “thua cuộc” mặc cảm ấy. Có thể nhiều người cho tôi giàu tưởng tượng. Không đâu. Đó là sự thật.

Phân chia Nam-bắc hay Trung kỳ- Bắc kỳ- Nam kỳ không phải chỉ có trong tư tưởng của bọn thực dân. Nó có trong tư tưởng của những người lãnh đạo cộng sản- không phải bây giờ mà là thời xửa thời xưa.

Tôn Đức Thắng là nhà lãnh đạo kiệt xuất sau Hồ Chí Minh? Không. Tôi tìm hiểu và thấy ông cũng “thường thường bậc trung” nếu so với Trường Chinh, Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng hay Võ Nguyên Giáp.

Tại sao cụ Hồ giao ông chức vụ phó chủ tịch nước, chỉ sau cụ Hồ Chí Minh? Không phải Tôn Đức Thắng là nhà cách mạng kỳ cựu mà vì ông là người miền Nam lớn tuổi.

Phân chia Nam, Bắc, Trung thấy rất rõ trong cơ cấu guồng máy chính phủ. Không lúc nào, những chức vụ quan trọng trong đảng, trong chính phủ không “chia đều” cho ba “kỳ”. Chẳng lẽ, ba kỳ đều có những người thông tuệ như nhau? Hoặc Bắc, hoặc Trung, hoặc Nam. Thành phần ưu tú nhất VN lại ở đều ba vùng hay sao?

Phân chia như thế, những vị cầm giữ vận mệnh đất nước này thấy ra, có khác biệt thật sự trong ba miền, mà thật ra, khác biệt ấy rất rõ trong hai miền Nam-Bắc.

Có sự phân chia “trí tuệ” đồng đều giữa người của hai miền Nam-Bắc? Tôi cho là không.

Khi có dịp vào những nơi trọng yếu như cơ quan công an, viện kiểm sát, hải quan, sân bay... ở một số nơi, nhất là Sài Gòn, tôi thấy người nói giọng Bắc nhiều hơn người nói giọng Nam. Cũng phải thôi. Trước đây, sau 1954, những người nắm trọng trách trong guồng máy chính phủ ở miền Nam, hai phần ba, hay hơn phân nửa, là người miền Bắc.

Lịch sử tạo ra sự chênh lệch văn minh, văn hóa. Những người xuất xứ từ Thăng Long chắc chắn sẽ vượt trội hơn những người vùng khác, kể cả Thanh Hóa, Nghệ An- đất vua chúa, đất học. Thăng Long như cửa nước. Nó thu hút những con cá lớn về đó. Huế cũng thế. Nếu là thủ đô 1000 năm tuổi, chắc gì Hà Nội qua mặt nó. Sài Gòn cũng vậy. Nó là cửa ngõ thu hút nhân tài dù sự hình thành của nó chỉ là “đàn em” của Hà Nội, Huế.

Sự giao thoa văn hóa bắt đầu từ sự giao thoa chính trị. Những người tỵ nạn cộng sản- Bắc kỳ- được chào đón ở Nam kỳ. Nam kỳ và Bắc kỳ “di cư” thương nhau vì lý tưởng Tự Do.

Sau 30 tháng 4 năm 1975, có tình thương nào giữa người Bắc và người Nam? Không. Người miền Nam có cảm giác bị người miền Bắc đánh ngã. Người miền Bắc mang sứ mệnh giải phóng người miền Nam. Nhưng, nói cho thật thà, người nghèo giải phóng người giàu? Người đói giải phóng người no? Người sống ràng buộc giải phóng người phóng khoáng? Có ai dám đả đảo chính phủ của mình như người miền Nam? Ai đả đảo chính phủ miền Bắc mà không khỏi vô tù?

Người miền Nam có cảm giác “thất thế”. “Thế” mà người Mỹ giương ra để bảo vệ miền Nam không cộng sản chấm hết. Mỹ qua VN để ngăn chặn Trung Cộng. Nay Mao bắt tay với Nixon. Miền Nam đâu có là “nghĩa địa” gì với chính quyền Mỹ. Mỹ bỏ rơi người miền Nam là hiểu được; tính cách của mấy chú Sam rất thực dụng.

So với sự phát triển kinh tế, những năm chiến tranh, miền nào hơn miền nào? Câu trả lời rất dễ. Ai ai cũng hiểu.

Hàng triệu người vượt biên, hàng trăm người bỏ mạng, nơi biển cả, giữa rừng sâu. Nỗi đau mất nhà, mất đất, mất tài sản, mất quyền sống, mất quyền công dân vẫn còn hằn sâu trong những gia đình có người sống dưới hai nền cộng hòa. Đó là sự thật. Đó là cái nhà đương cục, nay cũng như mai, cần để ý. Do hoàn cảnh lịch sử, bên nào cũng không nhìn bên nào như sự thực vốn có. Nam “quốc gia” nhìn Bắc “cộng sản” như hiểm họa dân tộc. Bắc (thắng cuộc) coi Nam (thua cuộc) như tay sai bán nước.

Ông Võ Văn Kiệt vì sao hiểu thấu và cảm thông VNCH? Vì gia đình ông bị đối phương giết chết vợ và các con. Chiến tranh gây tổn thất. Sau chiến tranh, người cộng sản này không lấy sự thù hận làm cách xử thế. Ông lấy tình thương đồng loại mà đối đãi với nhau: "Chiến thắng 1975 làm hàng triệu người vui; nhưng nó cũng làm hàng triệu người buồn”. Ai buồn, nếu đó không phải là người miền Nam?

Chiến tranh Việt Nam vẫn còn là một vết thương chưa lành. Tôi thành thật nhận xét. Mọi sự có thể gây hiểu nhầm đều nên hết sức tránh. Chữ “Ga tàu Bạch Đằng” có thể gây thêm một “Bạch Đằng giang" nữa. Vì sao? Vì Nam-Bắc chưa thật tâm hiểu nhau. Do đó, Nam-Bắc chưa thương nhau.

Hãy trân trọng tình cảm của nhau. Không ai thắng ai thua. Chiến tranh là điều bất hạnh cho dân tộc. Chia rẽ mới là sự thất bại. Chia rẽ mới là kẻ thù. Dẫu đó là chia rẽ rất nhỏ, trong cách gọi "Bến tàu thủy Bạch Đằng" hay "Ga tàu thủy bạch Đằng".

Thursday, February 29, 2024

UKRAINE: NĂM KỊCH BẢN CHIẾN TRANH CHẤM DỨT?

Lời người dịch: Khó ai biết trước điều gì sẽ xảy trong cuộc chiến. Đây là vài kết cuộc có thể, nhưng rất là ảm đạm. Đảo chính, một trong 5 kịch bản, có thể Putin đã dự phòng. Hình ảnh ông ngồi trước Hội đồng An ninh Quốc gia cho thấy điều đó. Vài giờ trước, một đám cháy lớn do đạn pháo của quân Nga bắn vào khu nhà máy nguyên tử lớn nhất châu Âu được dập tắt. Hành động tấn công điên cuồng này có thể gây thảm họa hạt nhân khủng khiếp cho nhân loại; nhận định trong bài này về hành vi táo bạo của tổng thống Putin là có căn cứ.

(Ukraine: How might the war end? Five scenarios).

Bài của James Landale đăng trên BBC News (12 giờ trước)

1- Cuộc chiến chớp nhoáng:

Nga tấn công quân sự ngày càng ác liệt, bằng tên lửa, rocket, bằng sức mạnh không quân, vốn là chủ đạo cho đến nay. Hạ tầng cơ sở Ukraine bị phá hủy, nguồn năng lượng, mạng lưới thông tin hoàn toàn bị cắt đứt. Hàng ngàn thường dân thiệt mạng. Dù kháng cự dũng cảm, thủ đô Ki-ep thất thủ trong đôi ba ngày. Một chính phủ bù nhìn dựng lên. Zelensky hoặc bị ám sát, chạy trốn, đến phía tây Ukraine, hoặc ra nước ngoài, thành lập chính phủ lưu vong. Putin tuyên bố chiến thắng, rút bớt quân về, để lại một số đủ để duy trì quyền kiểm soát. Hàng trăm ngàn người tiếp tục chạy nạn. Ukraine cùng với Belarus “trở về mái nhà xưa”.

Kết cuộc này không hẳn không thể, nhưng nó phụ thuộc vào vài yếu tố: Quân đội Nga chiến đấu hiệu quả hơn, quân tăng viện nhiều hơn, tinh thần chiến đấu của dân quân Ukraine giảm sút hơn. Ki-ep có thể thay đổi chính quyền, không còn thân phương Tây. Chính quyền thân Nga không có tính chính danh, dễ gặp chống đối. Khả năng nổ ra chiến sự lai rai sau đó.

PUTIN CÙNG ĐƯỜNG, ĐIỀU ĐÓ LÀM TÔI THẬT KINH SỢ

(Putin Has No Good Way Out, and That Really Scares Me)

Bình luận của Thomas L. Friedman, tác giả cuốn “Thế giới phẳng” rất nổi tiếng, đăng trên The New York Times ngày 8 tháng 3 năm 2022.

Nếu nghĩ cuộc chiến Putin đưa vào Ukraine tạo sự bất ổn lên thị trường và địa chính trị đã ở đỉnh điểm, quý vị sẽ thất vọng. Chúng ta chưa thấy hết đâu. Hãy chờ đến lúc Putin hoàn toàn hiểu rằng, lựa chọn duy nhất còn lại của ông ở Ukraina là, làm thế nào để thua – sớm sủa, “non hơn già”, bỉ mặt một tý, hay là càng lâu, càng thua đậm, và hoàn toàn mất mặt.  

Thậm chí tôi không tin nổi các thứ gây chấn động tài chính và chính trị phát sinh từ Nga – một đất nước sản xuất dầu đứng thứ ba thế giới, sở hữu hơn 6000 đầu đạn nguyên tử - một khi họ thua cuộc chiến phát động bởi một người - không bao giờ chấp nhận thất bại.

Tại sao lại không tin ? Bởi Putin biết chắc “truyền thống dân tộc Nga không tha thứ cho thất bại quân sự”, theo nhận định của Leon Aron, chuyên gia nghiên cứu Nga ở học viện Doanh Nghiệp Mỹ, đang viết một cuốn sách về con đường dẫn Putin đến Ukraina.

Trên tờ The Washington Post, ông viết: “Mọi thất bại lớn thật sự đều tạo ra biến động lớn. Chiến tranh Crimea (1853-1856) đưa đến cuộc Cách mạng Tự Do từ thượng tầng thời đại đế Alexandre đệ nhị. Chiến tranh Nga-Nhật (1904-1905) đẻ ra cuộc Cách mạng Nga lần nhất. Thảm họa của Thế chiến thứ nhất dẫn đến việc truất phế hoàng đế Nicholas đệ nhị và cuộc Cách mạng Bôn-sê-vích. Cuộc chiến ở Afghanistan trở thành nhân tố trong cải cách của lãnh đạo Nga Mikhail Gorbachev. Không kể, việc tháo lui (hỏa tiễn) khỏi Cuba là nguyên do chính khiến Nikita Khrushchev bị mất chức hai năm sau đó.

Trong vài tuần đến, ngày càng rõ ràng, vấn nạn lớn nhất của chúng ta đối với Putin ở Ukraina là, ông ta sẽ không chịu thua sớm, hậu quả là, ông ta sẽ từ từ thua đậm, thua to. Nhưng vì là cuộc chiến do chính Putin phát động và không thể chấp nhận thua cuộc, ông ta sẽ đẩy mạnh chiến tranh ở Ukraina cho đến khi…đến khi nghĩ tới vũ khí nguyên tử.

Tại sao tôi nói thất bại ở Ukraina là do lỗi của Putin, vấn đề chỉ còn là thời gian và mức độ? Bởi ông ta suy nghĩ hời hợt, cuộc tấn công sẽ dễ dàng, đơn giản, nhân dân Ukraina sẽ nhiệt liệt đón mừng (quân Nga). Mọi cái đều xuất phát từ Putin khi xem thường ý chí chiến đấu vì độc lập của Ukraina, và Ukraina trở thành một phần của phương Tây. Putin hoàn toàn xem thường ý chí của nhiều con dân Ukraina chiến đấu, ngay cả hy sinh mạng sống, vì hai mục tiêu ấy. Ông ta hoàn toàn đề cao quân đội của mình. Ông ta hoàn toàn xem thường năng lực của tổng thống Joe Biden phát động thành công liên minh kinh tế và quân sự toàn thế giới, giúp người dân Ukraina đứng vững, chiến đấu, hủy hoại nước Nga tại quê hương mình – một nỗ lực xây dựng liên minh hữu hiệu nhất của Hoa Kỳ kể từ thời George H.W. Bush khiến Saddam Hussein phải trả giá đắt cho việc điên cuồng đánh chiếm Kuwait. Putin hoàn toàn đánh giá thấp khả năng của các công ty, các cá nhân trên khắp thế giới tham gia, mở rộng các trừng phạt kinh tế lên Nga – còn nhiều hơn tất cả những gì các chính phủ phát động hay ra lịnh.

Khi phạm nhiều sai lầm lãnh đạo, tốt nhất bạn nên chọn “thua non hơn thua già”. Trường hợp Putin, điều đó có nghĩa là rút quân tức thời khỏi Ukraina; “dựng” lên câu chuyện để tránh mất mặt, để giải thích cuộc “hành quân đặc biệt”, dạng như là, quân đội đã thành công trong việc bảo vệ thường dân Nga sinh sống ở Ukraina; rồi hứa hẹn sẽ giúp “người anh em” tái thiết. Nhưng sự sỉ nhục khó tránh chắc chắn không thể nào chịu đựng nổi đối với con người luôn ám ảnh việc đặt nặng danh dự và sự thống nhất của đất mẹ Nga.

Không phải tình cờ, những thứ đang xảy ra ở Ukraina giờ đây không nằm ngoài khả năng Putin sẽ sớm thua đậm. Tôi không cá cược, nhưng mỗi ngày trôi qua, binh sĩ Nga bị giết ngày càng nhiều ở Ukraina, có ai biết được chuyện gì xảy ra cho tinh thần chiến đấu của những tân binh trong quân đội Nga, bị buộc phải bắn nhau sống mái trong các con phố, chống lại những đồng bào Slav của mình, chỉ vì một chính nghĩa chưa bao giờ giải thích thật tỏ tường cho họ.

Trước sự kháng cự của quân dân Ukraina ở khắp nơi đối với sự chiếm đóng của quân Nga, để Putin “thắng” về mặt quân sự trên thực địa, đội quân của ông ta phải chiếm tất cả các thành phố lớn. Bao gồm cả thủ đô, Kyiv – chắc phải sau nhiều tuần đánh nhau ác liệt, thương vong dân chúng xác người chất chồng như núi. Nói cho gọn, chiến thắng chỉ có được khi Putin và các tướng lĩnh gây ra tội ác chiến tranh chưa từng có ở châu Âu kể từ thời Hitler. Nó sẽ khiến cho nước Nga của Putin trở thành một quốc gia bị quốc tế luôn luôn xa lánh (a permanent international pariah).

Hơn nữa, làm thế nào Putin duy trì kiểm soát một quốc gia khác –Ukraina – có dân số bằng 1/3 dân số Nga mà dân chúng luôn căm thù Mát-xcơ-va? Ông cần phải duy trì đội quân trên 150.000 người đóng ở đó, nếu không nói là phải nhiều hơn.

Đơn giản không có cách gì tôi thấy Putin thắng ở Ukraina một cách bền vững, bởi vì, giản dị đây không phải là đất nước như ông nghĩ – một đất nước sẵn sàng chờ nhóm lãnh đạo “phát xít” bị thanh trừng nhanh chóng, để nhẹ nhàng sà vào lòng mẹ đại Nga.

Hoặc là Putin chấm dứt tổn thất, chịu nhục thua cuộc – hy vọng ông ta tránh được cấm vận để hồi phục nước Nga, tiếp tục nắm quyền – hoặc đối mặt cuộc chiến dai dẳng chống Ukraina và chống lại hầu hết nhân loại, cuộc chiến sẽ dần dần hủy hoại sức mạnh nước Nga và làm đổ sụp hạ tầng.

Hình như Putin đang “thí mạng cùi” (hellbent) với chọn lựa thứ hai, tôi thấy thật đáng sợ. Bởi vì có một điều duy nhất còn tồi tệ hơn nước Nga hùng mạnh dưới thời Putin – đó là một nước Nga suy yếu, nhục nhã, rối loạn có thể tan vỡ hoặc chìm trong hỗn loạn tranh quyền lãnh đạo kéo dài, với nhiều phe phái giành giựt quyền bính, tất cả còn đó với đầu đạn hạt nhân, tội phạm công nghệ, các giếng dầu mỏ bao quanh.

Nước Nga của Putin chẳng phải là quá lớn không thể thất bại. Tuy nhiên, nó chẳng lớn đến mức không thể thất bại mà không làm rung chuyển thế giới.

Nguyễn Long Chiến dịch.