Monday, February 5, 2024

TRỄ CÒN HƠN KHÔNG

Thời gian đầu hồ hởi chống dịch thắng lợi, VN không mặn mà cho mấy với vắc-xin, một biện pháp ngăn dịch căn bản, các nước phương Tây áp dụng thành công.

Theo hãng AP , Mỹ, số người chết vì dịch xảy ra hầu hết ở những người chưa (hoặc không) chích ngừa covid-19. Hơn 853.000 người nhập viện thì chỉ có 1200 người chích ngừa (có người đủ hoặc chưa đủ  liều), tỷ lệ là 0,1 %. Tháng 5 có 18.000 người chết thì có 150 người đã chích ngừa, tỷ lệ 0,8%. AP, dẫn số liệu của Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bịnh Hoa Kỳ, cho biết không rõ tỷ lệ số người chích ngừa chết hay đi nhà thương đã chích đủ liều hay chưa.

Báo Mỹ: Hâu như tất cả những người chết vì covid-19 đều không chích ngừa!

Mới hôm đầu tháng, Andy Slavitt, cựu cố vấn cho Biden về Covid-19, cho biết  có từ 98 đến 99 % người chết là chưa chủng ngừa vắc-xin. Giám đốc CDC Mỹ tuyên bố hôm thứ ba: “Gần như mọi cái chết vì dịch, đặc biệt ở người lớn, cho đến giờ này là hoàn toàn ngăn được” nhờ chích ngừa.

Cho đến nay có 63% dân chúng Mỹ chích ngừa covid. Mỹ dư thừa vắc-xin nhưng không phải mọi người đều muốn chích vì có người e ngại biến chứng. Arkansas có số người nhập viện và bỏ mạng vì covid đang tăng cao vì người chích ngừa chỉ đạt 33% dân số.

Như vậy, không còn nghi ngờ gì nữa: giãn cách hay phong tỏa chỉ là biện pháp tạm thời và có tính cách giai đoạn. Hai cái này chỉ để hỗ trợ cho chiến dịch chích ngừa.

Loại trừ thuyết âm mưu - lan tràn trong suy nghĩ của nhiều người VN về nguồn gốc và lý do con quỷ này xuất hiện ở Vũ Hán - chúng ta thấy TQ rất thành công trong việc khống chế dịch bịnh. Dứt khoát, không phải nhờ biện pháp khốc liệt (có vẻ tàn ác) lúc đầu ở xứ sở 1,4 tỷ dân. Chắc chắn phải là nhờ chích ngừa. Họ có thời gian và nguồn lực đầu tư kế hoạch này rất sớm. Vắc-xin của họ dễ dàng được phép lưu thông theo “chuẩn mực Tàu”, có vẻ không hiệu quả bằng vắc-xin các nước phương Tây, nhưng “có còn hơn không”, và nhất là “trước ngày hay chuyện”. Dù rất…ghét họ, tôi cũng phải công nhận họ thành công hơn chúng ta rất nhiều: có hơn một tỷ vắc-xin xuất xưởng, đất nước họ đang mở rộng sản xuất.

Chất lượng không cao nhưng dân Tàu không bị covid quật ngã chắc chắn phải nhờ vắc-xin tự họ sản xuất. Cách thử nghiệm của họ còn bí mật nhưng chúng ta cũng có thể suy đoán, hàng “triệu” tù nhân có thể là đối tượng thí nghiệm giai đoạn lâm sàng, và là nguồn phong phú giúp họ thử nghiệm, đốt cháy giai đoạn cho ra lò thuốc chủng ngừa? Tôi cũng “yêu” thuyết âm mưu lắm đây.

Cái gì của TQ người Việt chúng ta cũng hồ nghi. Ví dụ rõ nhất, VN nhận của họ 500.000 liều vắc-xin vấp phải phản ứng dữ dội của hầu hết người dân VN từ giới trí thức đến tầng lớp bình dân.

Yêu nên tốt, ghét nên xấu, đó là lẽ thường tình. Người TQ (nói cho đúng là chính quyền của họ) trong quá khứ, hiện tai, và cả tương lai đều gây nỗi bất an và nghi ngờ trong lòng mỗi người dân VN. Vắc-xin của họ dù có mang sứ mạng “cứu người” cũng không thoát khỏi cặp mắt nghi ngại của người VN.

Nhưng vắc-xin VN thì sao?

Có thể không hiệu quả bằng phương Tây nhưng vắc-xin TQ thích nghi với cơ thể người TQ. Và, vắc-xin VN (không rõ hiệu quả có ngang ngửa hay thua kém nước ngoài) cũng sẽ là lựa chọn tốt nhất cho người VN nếu nửa năm sau được phép sản xuất đại trà.

Thử nghiệm trên cơ thể người Việt chắc chắn vắc-xin sẽ thích nghi dễ dàng hơn loại vắc xin thử nghiệm trên cơ thể người ngoại quốc, cho dù đó là người Mỹ, người Nga, người Anh, hoặc người Tàu.

Thái độ cẩn thận của bộ Y tế trước đề nghị của hãng chế vắc-xin VN gởi thư xin thủ tướng cho lưu hành trong tình trạng khẩn cấp là một thái độ trọng thị đúng mức: không vì hốt hoảng trước dịch mà bỏ qua công đoạn kiểm nghiệm khoa học, vì sức khỏe nhân dân.

HỮU KỲ TƯỚNG TẤT HỮU KỲ TÀI?

Ông bà xưa hay có những đúc kết như định lý về một hiện tượng nào đó. Mạc Đĩnh Chi là người thông thái có tướng mạo khá xấu xí. Dị tướng, kỳ tướng nhưng ông đem lại vinh danh tài trí cho người Việt siêu quần qua một câu chuyện, không rõ có, không. Khi được cử làm sứ đi phân ưu với “thiên tử” có công chúa vừa mất, triều đình Trung Hoa mời trạng đọc điếu văn. Mở tờ sớ ai điếu, Mạc Đĩnh Chi thấy chỉ có 4 chữ nhất; tuyệt nhiên không có gì thêm. Trạng ta bèn bình tĩnh xướng, giọng thống thiết:

“Thanh thiên NHẤT đóa Vân.

Hồng lô NHẤT điểm tuyết

Quỳnh uyển NHẤT chi hoa

Giao trì NHẤT phiến nguyệt

Ô hô, vân tán, tuyết tiêu, hoa tàn, nguyệt khuyết.

Thiên tử thống tâm

Hạ nhân khấp huyết”.

Tôi mạn phép diễn nôm. Trời xanh chỉ một đám mây. Trong lò lửa chỉ một hạt tuyết. Vườn thượng uyển chỉ một đóa hoa. Dưới hồ chỉ một ánh trăng. Hỡi ôi, mây tán, tuyết tan, hoa tàn, nguyệt khuyết. Thiên tử đau lòng, thần dân khóc thảm.

Không rõ nét chữ của thiên tài họ Mạc có “ rồng bay phượng múa “ hay không nhưng tài văn chương của Trạng hẳn phải tuyệt luân: Ngài được phong lưỡng quốc trạng nguyên, ở Tàu ở Ta ngài có danh vị tót vời.

Ở miền Nam, trước 1975, bác sĩ là những người cực giỏi. Họ nắm mạng sống con người, không cực giỏi có mà giết chết bịnh nhân. Họ phải biết hai thứ tiếng Anh, Pháp. Tất nhiên họ phải học một số tiếng La Tinh. Tên gốc dược liệu đa phần có liên quan đến tiếng La Tinh. Tên dược phẩm hầu hết hoặc tiếng Pháp hoặc tiếng Anh.

Có lẽ học quá nhiều quá dữ, các bác sĩ không còn thì giờ đâu mà viết chữ nắn nót cho đẹp khi chép bài, làm bài. Đây, có lẽ là lý do đa phần bác sĩ viết chữ rất…xấu. Chữ ai viết  líu ríu, đọc không ra, nguệch ngoạc, thường bị gọi “chữ bác sĩ “. Khi ra toa thuốc chỉ có người đọc được là dược sĩ, hay nhân viên các tiệm thuốc tây. Ở Sài Gòn, bác sĩ chỉ ra toa sau khám và không được bán thuốc. Các phạc-ma- xi chỉ được bán thuốc đặc trị theo toa, trừ thuốc thông thường như đau bụng, nhức đầu, sổ mũi hay tiêu chảy không cần đơn thuốc.

Chữ xấu như bác sĩ không có nghĩa là không đọc được như toa thuốc tôi kèm theo ảnh bên dưới (cũng lượm trên Facebook thôi).

Ai đọc được toa thuốc này, tôi sẽ tình nguyện làm kẻ phục vụ mãn đời để tỏ lòng ngưỡng mộ.

Nhưng trên mạng có người bảo, chỉ một người đọc được, đó là nhân viên tiệm bán thuốc tây,  có“họ hàng “ với bác sĩ. Giờ không còn chiến tranh, chứ còn giết nhau, vị bác sĩ này nên làm tình báo. Địch có bắt giữ giấy mật báo, như toa thuốc, chúng cũng bó tay. Chỉ có trời mới hiểu ông bác sĩ này viết gì. Không chừng, trời cũng mù  tịt nếu ổng chẳng được cử đi học bổ túc.

Hay là, hữu kỳ tướng(viết chữ huyền bí) tắc hữu kỳ tài?

NGHỀ DÁN ÁO MƯA: Hội An một thời.

Mấy chục năm sinh sống ở miền Nam, tôi chưa bao giờ thấy mưa phùn gió bấc. Mưa lất phất những hạt bụi nước li ti trong không gian ảm đạm và giá buốt, hàng triệu triệu hạt từ trời rơi xuống như vô tận. Điều ngạc nhiên là, người đi trong mưa những con phố ngắn của Hội An lại không thấy ướt át áo quần. Học sinh chúng tôi ít khi mặc áo mưa đến trường. Nếu gần chỗ học, nam sinh nhét sách vở vào bụng và cắm đầu chạy, một mạch là tới trường. Chỉ các nữ sinh, áo dài trắng tha thướt đi nhẩn nha đến trường, mới phải mặc áo mưa. Cũng có vài cô cầm dù đi học. Hồi ấy, dù đa phần màu đen, ít có dù màu. Các cô thường nghĩ, phía sau họ làm gì cũng có chàng hát bài “Ngày xưa Hoàng thị”. Họ thường đi chậm rãi đến trường.

Những cô học trò Hội An ngày xưa.

Áo đi mưa thời ấy không nhiều không đẹp và đa dạng như ngày nay. Hầu hết các nữ sinh sử dụng áo đi mưa có tay, gài nút phía trước và đội thêm nón lá. Học sinh nam có nhà ở phố cũng sử dụng loại áo mưa như của nữ sinh. Học sinh nghèo, “tản cư” (gọi là tị nạn cộng sản) như tôi thì áo mưa là một tấm ni lông mỏng hình chữ nhật, khi mặc thì lấy hai chéo góc cột lại nơi cổ, phần dưới tỏa ra như hiệp sĩ trong phim Batman (Người dơi) hay chiếu trên truyền hình thuở đó. Lớp học rất đông, sĩ số thường trên 60 người nếu là cấp 2. Áo đi mưa thường vắt lên bục cửa sổ và lúc ra về, chúng tôi tuần tự của ai nấy lấy, xếp lại cầm tay nếu trời ngừng mưa.

VIỆT NAM MẤT LỢI THẾ CHỐNG DỊCH THẾ NÀO.

“VN là một trong những nước phản ứng với đại dịch nhanh nhất và bây giờ lại là nước chậm nhất đang tìm phương thoát dịch”.

(How Vietnam lost its pandemic-beating edge)

VN xứng đáng là một trong những nước đạt thành quả tốt nhất trong đại dịch. Cuối năm 2020, đất nước có 96 triệu dân ghi nhận không nhiều hơn 1.400 ca nhiễm, không hơn vài chục người chết, một trong một số ít nước châu Á ghi nhận tăng trưởng dương về kinh tế năm 2020.

Cựu thủ tướng nhận hoa từ tân thủ tướng.

Nhưng sự lây nhiễm tăng vọt từ đầu tháng 5, và hiện giờ, VN nằm gần chót hầu hết các nước Đông Nam Á trong việc chích ngừa. Sự dễ ngươi (laxity) đầu năm có khiến họ không thể chích ngừa cho hơn nửa dân số, ít nhất là năm tới, nếu không nói là lâu hơn.

Giữa đầu mùa dịch và ngày 7 tháng 5 năm nay, VN chỉ ghi nhận có 3.137 ca nhiễm, hầu hết số đó đều chẩn đoán vào năm 2021. Tuy nhiên, từ ngày 7 tháng 5, số người nhiễm tăng vọt lên 11.635 tính đến ngày 16 tháng 6, số người chết là 61.

So sánh với hầu hết các nước khác, VN vẫn là nước chống dịch tốt nhất thế giới. Số dân 16 triệu người so với 96 triệu của VN, nước Campuchia láng giềng hiện nay báo cáo có 40.100 ca nhiễm, và ngày 16 tháng 6 có thêm 693 ca. Thái Lan với số dân gần với VN cũng ghi nhận tới 205.000 ca nhiễm.

Tuy nhiên, VN hiện nay lại là một trong số nước có chương trình chích ngừa dân số thấp nhất, đến nay chỉ mới được 1,6 triệu liều vắc-xin.

Lào, quốc gia nghèo thứ hai trong khu vực, đã tiêm phòng đầy đủ cho 5,6% dân số. Campuchia, với tổng sản phẩm quốc nội (GDP) bằng khoảng một phần 10 của Việt Nam, đã tiêm phòng đầy đủ cho 15,7% dân số của mình, mức tốt nhất trong khu vực sau Singapore.

TRẬN TUYẾN VẮC-XIN

Tại sao Việt Nam là một trong những quốc gia có thành tích tốt nhất thế giới trong việc giữ tỷ lệ nhiễm Covid-19 ở mức thấp, và duy trì tăng trưởng kinh tế trong thời kỳ đại dịch, nhưng hiện nay lại là một trong những quốc gia có thành tích kém nhất nói về mặt tiêm chủng?

Ban đầu, hai vấn đề này không nhất thiết là quan hệ nhân quả. Nhiều quốc gia có tỷ lệ ca nhiễm tồi tệ nhất vào năm 2020 hiện đang đứng đầu trong việc tiêm chủng. Anh và Mỹ, hai trong số những quốc gia có thành tích tồi tệ nhất hồi năm ngoái về tỷ lệ tử vong do Covid-19 quá mức, hiện đang dẫn đầu việc chích vắc-xin..

Một câu chuyện đang rỉ tai là, chỉ có các quốc gia giàu có, và phần lớn ở phương Tây, mới có được các chiến dịch tiêm chủng thành công vì họ đã tích trữ các loại vắc-xin mà những nơi nghèo hơn trên thế giới không có.

Tuy nhiên, với GDP là 261 tỷ đô la Mỹ vào năm 2019, một trong số ít nền kinh tế tăng trưởng trên thế giới vào năm 2020, Việt Nam đã được ngân hàng Thế giới xếp hạng là quốc gia giàu vào hạng 46 trong năm ngoái.

Peru, xếp sau Việt Nam 5 bậc tính theo GDP, đã chích ngừa đầy đủ cho 6% dân số. Kazakhstan, đứng sau Việt Nam 8 bậc, đã tiêm chủng đầy đủ 7,8%.

Ngay cả trong khu vực Đông Nam Á, như dữ liệu đã đề cập ở trên cho thấy, không có mối quan hệ nhân quả đơn giản nào giữa sự giàu có của một quốc gia và chiến dịch chích ngừa trong quốc gia đó.

Theo ước tính mới nhất, Việt Nam đã ký hợp đồng 31 triệu liều vắc xin Pfizer, đồng ý mua 50-150 triệu liều Sputnik V của Nga và có khả năng nhận được khoảng 38,9 triệu liều AstraZeneca từ cơ sở Covax. Có 30 triệu lọ khác có thể mua của công ty và các cuộc đàm phán đã được thực hiện với Medigen của Đài Loan để mua từ 3 đến 10 triệu liều.

Nhưng hầu hết các thỏa thuận đạt được khi các ca nhiễm tăng đột biến vào cuối tháng 4 và đầu tháng 5, trong khi việc giao phần lớn vắc xin khó có thể hoàn tất cho đến cuối năm 2021, nếu không muốn nói là đến giữa năm 2022.

Vắc xin Pfizer-BioNTech không được cơ quan quản lý địa phương phê duyệt cho đến ngày 12 tháng 6. Loại vắc xin Sinopharm do Trung Quốc sản xuất chỉ được phê duyệt vào ngày 4 tháng 6.

Nếu tỷ lệ chích ngừa hiện hiện nay tiếp tục, và các đợt giao thuốc đang tới, Campuchia có thể chích ngừa đầy đủ cho khoảng 40-50% dân số vào cuối năm 2021. Lào, hiện có vẻ bị kẹt vắc-xin, có thể đạt mức độ đó vào giữa năm 2022.

Nhưng nếu đa số vắc-xin không kịp nhập về cuối năm cho VN, thì họ phải đợi đến năm tới mới đạt 50% miễn dịch phổ biến từng phần

Theo tính toán của Asia Times, nếu VN muốn chích ngừa 50% dân số với hai liều trong thời gian 6 tháng, họ cần phải chích 533.000 liều mỗi ngày. Hiện giờ, tình hình đó rõ ràng không thể xảy ra.

Đầu năm 2021, có thể nhà chức trách VN suy nghĩ họ không cần vội vã và tiêu phí nhiều tiền cho vắc-xin. Sau hết, xét các ca covid-19 cộng lại với số khá thấp VN ghi nhận cho đến nay, đa phần có 75% xảy ra sau ngày 1 tháng 5.

Nếu không xảy ra các biến chủng mới vào cuối tháng 4 ảnh hưởng toàn khu vực – 65% các ca nhiễm ở Campuchia và 67% ca nhiễm ở Thái Lan ghi nhận sau ngày 1 tháng 5 thì VN có thể sẽ đi tiếp khá tốt trong năm 2021 như họ đã làm trong năm 2020. Tháng 3 và tháng 4, VN ghi nhận không quá 20 ca mỗi ngày.

Những lô vắc-xin đầu tiên đến Campuchia và Lào là quà tặng của TQ, cuối tháng 12 và đầu năm nay. Hầu hết vắc-xin chích ở hai nước đều của Sinopharm và Sinovac (TQ) ngoại trừ vài trăm ngàn liều của Covax tặng.

Tuy nhiên, VN là nước sau cùng ở Đông Nam Á chấp thuận vắc-xin Sinopharm khi các nhà điều phối vội vã hành động vào ngày 4 tháng 6.

VẮC-XIN NỘI

Giáo sư  trường Đại học Chiến tranh quốc gia có trụ sở tại Washington, ông Zachary Abuza suy đoán trong một bài báo gần đây, một phần lý do khiến Việt Nam không thực hiện các hợp đồng mua sớm vắc xin “là lợi ích của chính nước này trong việc phát triển các loại vắc xin bản địa”.

Thật vậy, hiện nó có 4 loại vắc xin đang được phát triển của Nanogen, Vabiotech, Polyvac và Viện vắc xin và sinh phẩm y tế (IVAC).

Nanocovax, được phát triển bởi công ty khởi nghiệp Công nghệ sinh học dược phẩm Nanogen phối hợp với học viện Quân y Việt Nam, đã đi vào thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 3 trong tuần này và dự kiến sẽ có mặt trên thị trường vào cuối năm 2021.

Các chuyên gia bóng gió rằng, chính quyền VN xem thấy nhu cầu vắc xin trong nước và thế giới là cơ hội vàng để đẩy mạnh công nghiệp dược và sinh học của mình.

Đầu tháng nay, bộ y tế trao đổi chương trình Covax với Liên Hiệp Quốc về việc thiết lập cơ sở sản xuất ở VN, một kế hoạch nhượng quyền sản xuất vacxin sử dụng trong nước và thế giới. Các tường thuật cho thấy họ cũng đàm phán với Johnson & Johnson một thỏa thuận sản xuất vắc-xin tại chỗ.

Tuy nhiên, điều này coi bộ phản tác dụng. Đầu tháng 6, chính quyền cộng sản phải quay qua Bắc Kinh để cầu viện vắc-xin Sinopharm. Cái này chẳng mấy thuận lợi đối với một VN có tinh thần dân tộc cực cao, TQ là kẻ thù “truyền kiếp” trong lịch sử (where China is the historical “bete noire”).

Chính quyền cũng nhũn nhặn cầu đến quần chúng, kêu gọi tư nhân góp “quỹ vắc-xin”. Ngày 6 tháng 6, truyền thông trong nước đưa tin chính quyền góp được 329 triệu đô la Mỹ từ tư nhân nhất là các doanh nghiệp lớn, hai tuần trước khi có quỹ vắc-xin.

Abuza cho biết, đến nay chính quyền mới cấp kinh phí 630 triệu đô la Mỹ trong số 1,1 tỷ cần mua 150 triệu liều vắc xin đặt hàng. Cũng còn quá sớm để nói suy nghĩ của dân chúng về chính sách vắc-xin và hoạt động liên quan quyên góp của chính phủ.

THÀNH TÍCH: TỰ TÔN & TỰ TI.

Mới đây, một tòa án cấp huyện “vẽ” ra 59 vụ án ảo để lấy thành tích báo cáo thi đua. Thành tích, người ta hay gọi nó là bịnh, bây giờ lây nhanh không thua Covid-19.

Trong lúc thành phố chủ trương giãn cách thì cũng thành phố làm lễ ra quân chích ngừa vắc-xin rầm rộ. Tập họp đông người không là “mồi” cho virus? Chích ngừa là lo cho sức khỏe nhân dân. Cần phải biểu dương lực lượng để nhân dân thấy nhà chức trách yêu thương nhân dân? Rồi một cháu bé 5 tuổi mang một số tiền 100 triệu đồng “tiết kiệm” hai năm ra để ủng hộ quỹ mua vắc-xin. Nhìn cặp mắt cháu trong ảnh, tôi thấy dường như cháu có vẻ bất an: số tiền lớn như thế, ngay cả một vị bộ trưởng cũng không có để ủng hộ quỹ, huống hồ chi cháu; bất an là phải rồi. Cháu được truyền thông quảng bá như một “Phù Đổng Thiên Vương” thời đại dịch. Trẻ con tuổi cháu có em còn phải đi bán vé số không đủ ăn để sống. Tiền tiết kiệm “to” như thế chỉ có thể nhờ… “Thánh Gióng” độ trì.

Theo tôi, bịnh thành tích xuất phát từ hai yếu tố: tự tôn và tự ti. Vì tự ti, người ta mới yêu thích thành tích – thành tích càng to, tự tôn, tự ti càng lớn. Thành tích là lẽ sống còn trong chốn quan trường? Đố ai thăng tiến nếu không có thành tích.

Ban đầu, thành tích là để đo lường khả năng cống hiến cho xã hội của mỗi con người trong guồng máy quốc gia. Càng về sau, thành tích là mục tiêu chứ không phải mục tiêu là cống hiến. Tôi thường thấy,  người thật sự muốn cống hiến, hơi trớ trêu, lại là người không màng thành tích.

Người ta hay nói, giáo dục là máy cái của mọi cỗ máy. Máy cái nghe sao máy móc quá. Không sao. Trong học đường, sản phẩm của máy cái, thành tích không còn là ghi nhận công lao giảng dạy và học tập mà trở thành những con số “ám ảnh” không những trò lẫn thầy, ngành giáo dục, mà cả xã hội.

Tôi từng là học sinh rồi sinh viên, đào tạo một thời gian gần 15 năm trong nền giáo dục thể chế VNCH. Học bạ chúng tôi có ghi điểm số, thứ hạng, cả giấy khen (gọi là bằng danh dự) của từng tháng, từng học kỳ, từng năm, từng cấp học. So sánh với các cháu học sinh và sinh viên, chúng tôi thấy việc học hành thế hệ chúng tôi không nặng nề bằng thế hệ các em sau này. Có thể học chương trình nhẹ hơn, “thấp” hơn, nhưng chúng tôi và cả thầy cô không hề bị áp lực bởi thành tích, hay vật vã với chỉ tiêu thi đua.

Học là học cho bản thân không phải để học cho người khác. Thành tích nếu có là ghi nhận công sức học tập mà không phải để làm điều kiện thi đua, đánh giá phẩm chất học sinh. Dạy là để cho học sinh tiến bộ như thầy, hơn thầy, chứ không phải dạy để đạt thi đua danh hiệu này kia. Mục đích tối thượng của dạy học là giúp “khai trí” học sinh. Thi đua lập thành tích không phải là mục tiêu của người thầy; tiền đồ của người thầy là tiền đồ dành cho học sinh. Thế thì cần gì phải phấn đấu trở nên “thấy giáo ưu tú”, “thầy giáo nhân dân”?

Học sinh học để mở mang trí tuệ chứ không phải để đạt học sinh giỏi, học sinh xuất sắc. Giỏi, xuất sắc được ghi nhận chứ không phải lấy “giỏi”, “xuất sắc” là mục đích học tập cho thành tích thi đua.

Máy cái sẽ đẻ ra các cỗ máy con. Giáo dục làm sao để con người không coi thành tích là tối thượng: cống hiến mới là tối thượng.

Giáo dục như vậy có quá lý tưởng, có là không tưởng?

Không đạt đến một mức độ giáo dục con người VN thành những người cống hiến – tùy theo vai trò của mình trong xã hội – thì chí ít, giáo dục cũng không thể coi thi đua lập thành tích là…cống hiến.

Người ta cho rằng thi đua lập thành tích là…yêu nước. Có chỗ nào đó “sai sai” không?

Thi đua là yêu nước. Yêu nước là thi đua. Một số người có suy nghĩ như thế. Tôi thấy hơi bất ốn. Chúng ta không thi đua nhưng yêu nước, được không? Một người chạy xe ôm mỗi ngày làm ra vài trăm ngàn; anh ta không thể “thi đua” với ai cả. Thi đua mà vắng khách thì làm sao thi đua? Anh này không “yêu nước” ư? Đưa một người gấp rút đến trạm xá băng bó vì tai nạn té xe, anh xe ôm nhận thù lao nhưng anh đã làm một việc có ích: giúp đỡ người khác trong cơn hoạn nạn. Yêu đồng bào tôi cho là…yêu nước. Anh xe ôm này không được yêu nước vì không thi đua với đồng nghiệp đưa người bị nạn đi cấp cứu? Những nhân viên y tế, những bác sĩ trên tuyến đầu chống dịch, nguy hiểm tính mạng rình rập họ từng giờ từng phút. Lấy lại lẽ sống cho một người sắp chết vì covid, ngăn chặn dịch lây lan… là cống hiến hay thi đua?

Mọi người ở mọi cương vị tận tâm với công việc của mình chính là cống hiến. Mục đích tận tâm vì công việc để có thành tích thi đua, điều ấy thế nào?

Khi con người làm việc mà  không đoái hoài đến thành tích, họ sẽ tự do cống hiến, có thể nói nhiều hơn khi nghĩ đến thi đua.

Đây là điều đơn giản lại hóa ra rất phức tạp và không dễ dàng biến thành hiện thực. Tự tôn hay tự ti, tôi nghĩ, chính là thủ phạm đẻ ra thành tích. Đối nghịch với hai cái này là khiêm cung và tự tin. Không cần thành tích, người ta sẽ tự do có cống hiến nhiều hơn hay ít hơn?  Tự tin và khiêm cung, tôi thấy không nhiều trong con người VN ngày nay, nhất là ở những nhà quản trị đất nước. Nếu gọi là tính cách – cho văn vẻ hơn – căn tính dân tộc, thì TỰ TÔN và TỰ TI có lẽ là phổ biến. Đây là cội nguồn của bịnh thành tích. Điều rất buồn, căn tính này vẫn không hề thay đổi như hơn 100 năm trước lúc cụ Phan Châu Trinh vạch ra: “Dân tộc nước Nam, trên lịch sử, có hai đặc tính cực đoan phản đối nhau: một là đặc tính bài ngoại và ỷ ngoại; hai là đặc tính tự tôn và tự ti. (*)

CANH BẠC CỦA TẬP CẬN BÌNH

Lời người dịch: Thể chế toàn trị với lãnh đạo độc tài tưởng vô địch nhưng hóa ra không. Đây là lý giải không mới,  nhưng đáng quan tâm, khi mọi đường lối phát triển đất nước VN đều dõi theo mô hình TQ -  một “Thiên Tử” của mấy ngàn năm trước. Khai thác "vinh quang" quá khứ (đánh Nhật trong nước, đánh Mỹ ở Triều - chưa hẳn đã thắng) để khích động chủ nghĩa dân tộc cực đoan là hành động nguy hiểm nếu "người cầm lái vĩ đại" bị hoang tưởng chính trị.

Tập cận Bình đang mang trên mình một sứ mạng. Cầm quyền cuối năm 2012, ông nhanh chóng củng cố quyền lực chính trị, tiêu diệt tham nhũng tràn lan trong Đảng (CSTQ), loại trừ kẻ thù cá nhân, khống chế các tập đoàn công nghệ, tài chánh một thời lừng lẫy, trấn áp bất đồng nội bộ, hùng hổ khẳng định ảnh hưởng TQ trên trường quốc tế. Lấy danh nghĩa, “bảo vệ lợi ích cốt lõi” của TQ, Tập ra mặt đối nghịch với nhiều nước lân bang, khiêu chiến với cả những nước ở xa – đặc biệt là Hoa Kỳ. Trong khi các vị tiền nhiệm tin rằng TQ nên chờ đợi thời cơ, coi tăng trưởng kinh tế nhanh chóng, từ từ mở rộng ảnh hưởng của TQ thông qua hội nhập chiến thuật vào trật tự toàn cầu đang có, thì Tập lại nôn nóng với tình trang hiện hữu (status quo), chấp nhận nguy cơ, và có vẻ phải cần cấp bách, không giấu ý định thách thức trật tự thế giới.

Tại sao ông ta gấp rút như thế? Hầu hết các giới quan sát đều đi tới một trong hai giả thuyết căn bản trái ngược nhau. Có người cho rằng Tập đang nỗ lực với nhiều mưu kế sáng kiến không gì hơn là để sắp xếp lại trật tự nào có lợi cho đảng CS. Người khác thì khẳng định ông ta nôn nóng nhận thấy hệ thống chính trị Lê-nin-nít lạc hậu và lỗi thời đang cố bám víu quyền lực. Cả hai lối giải thích đều có điểm đúng nhưng chẳng cái nào giải thích thỏa mãn lý do tại sao Tập có cảm giác phải nôn nóng.

Lối giải thích chính xác hơn: Những toan tính của Tập không quyết định vì khát vọng hay lo sợ của ông nhưng là quỹ thời gian. Nói gọn lại, Tập củng cố mạnh mẽ quyền lực và quyết tâm thay đổi hiện trạng bởi vì ông ta thấy 10 đến 15 năm ngắn ngủi, Bắc Kinh có thể tận dụng một loạt những biến chuyển công nghệ, địa chính trị quan trọng, giúp TQ vượt qua những thách thức nội tại to lớn. Tập thấy ra sự tích tụ của lực cản khốc liệt về dân số, sự trì trệ do cấu trúc kinh tế, những tiến bộ thần tốc về công nghệ số, và sự dịch chuyển dễ thấy trong cán cân quyền lực tách khỏi Hoa Kỳ, theo như cách ông gọi, “những thay đổi sâu sắc chưa từng thấy trong một thế kỷ”, đòi hỏi cần những hành động tức thời và táo bạo.

Bằng cách rút ngắn tầm nhìn xuống 10 đến 15 năm, Tập truyền vào hệ thống chính trị quốc gia một cảm giác tập trung sự kiên quyết, có khả năng giúp TQ vượt qua nhiều thách thức dai dẳng trong nước, mong đạt đến đẳng cấp là tâm điểm thế giới. Nếu Tập thành công, TQ sẽ định cho họ vai trò kiến tạo một thời đại đa cực đang trỗi lên, nền kinh tế sẽ thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình, khả năng công nghệ trong ngành chế tạo và quân sự sẽ cạnh tranh được với những nước phát triển hơn họ.

Tuy nhiên, tham vọng và thực hiện không phải như nhau, Tập đưa TQ vào một quỹ đạo nhiều rủi ro, đe dọa những thành quả các vị tiền nhiệm đạt được từ thời sau Mao. Niềm xác tín của ông - đảng CS phải trực tiếp điều hành kinh tế, Bắc Kinh phải khống chế lãnh vực tư nhân – sẽ hạn chế tăng trưởng kinh tế đất nước trong tương lai. Ông bắt buộc các đảng viên phải kiên định ý thức hệ chính thống (CS), phải bày tỏ lòng trung thành với ông, điều đó sẽ làm hại sự mềm dẻo và tính năng động của hệ thống quản trị. Sự chú trọng quá mức của ông vào việc định hình nới rộng an ninh quốc gia sẽ đưa đất nước vào hướng co cụm và hoang tưởng. Chủ nghĩa dân tộc cực đoan “Lang chiến” (Wolf Warrior) do ông phát động sẽ làm cho TQ hiếu chiến hơn và cô lập hơn. Cuối cùng, vai trò ngày càng độc tôn của Tập trong hệ thống chính trị TQ sẽ ngăn trở những cải cách chính trị và điều chỉnh đường lối, vấn đề tồi tệ thêm khi ông loại bỏ giới hạn nhiệm kỳ và muốn nắm quyền vĩnh viễn.

Tập Cận Bình tin tưởng ông có thể nhào nặn (mold) tương lai TQ như các hoàng đế Trung Hoa trong quá khứ. Ông nhầm lẫn tự tôn với tự tin – không một ai dám nói trái ý. Tình huống trong đó một lãnh đạo toàn quyền với quyết tâm sắt đá không có thể lắng nghe những sự thật trái tai là mồi ngon cho tai họa, lịch sử cận đại Trung Hoa chứng minh rất rõ ràng.

CON NGƯỜI VỘI VÃ

Nhìn lại, thời điểm căng thẳng của Tập trông rất rõ từ buổi đầu nhiệm kỳ. TQ quen với nhịp bước của vị lãnh đạo tiền nhiệm, chậm rãi và đàn bệ Hồ Cẩm Đào, nhiều người kỳ vọng Tập cũng sẽ theo bước, nghĩa là đặt trọng tâm nhiều hơn vào cải cách kinh tế. Tuy nhiên, trong vài tháng cầm quyền năm 2012, Tập cho sắp xếp lại bối cảnh chính trị và kinh tế trong nước. Trước tiên là thanh lọc Đảng từ cao xuống thấp. Đảng nhiều lần có khả năng chống chọi các cơn bão tố nội bộ, nhưng ngày càng bị áp lực từ trong thể chế. Tham nhũng trở thành tràn lan, dẫn tới bất mãn trong quần chúng, phá vỡ kỷ luật tổ chức. Chức vị trong Đảng thì tùm lum nhưng ngày càng nhiều những quan chức không cùng niềm tin với Tập về sự ngoại lệ của đảng CSTQ. Các chi bộ đảng trong doanh nghiệp nhà nước, công ty tư nhân, tổ chức phi chính phủ đều tê liệt và loạn xà ngầu. Các quyết định của cán bộ cấp cao thiếu phối hợp và không thống nhất. Bộ máy tuyên truyền của Đảng khốn đốn phát đi thông điệp đến tầng lớp dân chúng ngày càng thạo tin học và hồ nghi.

Tập cùng lúc xử lý tất cả vấn đề trên. Nội trong năm 2013, ông đề ra chiến dịch chống tham nhũng quy mô, phát động phong trào đến “tận cơ sở”, loại bỏ tư tưởng đa nguyên, ý thức hệ tự do ra khỏi suy nghĩ của quần chúng, công bố hướng dẫn mới hạn chế phát triển Đảng, đưa ra nhiều quy định ý hệ mới trong kết nạp đảng viên. Ông ta tin rằng, quy mô đảng không quan trọng nếu đảng không gồm những đảng viên thật sự trung kiên. Ông nhấn mạnh, khi Liên Xô trên bờ vực sụp đổ những năm đầu 1990, “về quy mô”, đảng CSLX có nhiều đảng viên hơn (đảng CSTQ) nhưng chẳng có một ai đủ sức, đứng lên chống đỡ.

Bước đi tiếp của Tập là nhu cầu khẳng định lợi ích TQ trên trường quốc tế. Tập lập tức cho bồi đắp đảo nhân tạo ở Biển Đông, thiết lập vùng nhận diện phòng không trên vùng đất tranh chấp biển Hoa Đông, lập quỹ Phát triển mới (gọi là ngân hàng BRICS), hé lộ dự án kiến trúc hạ tầng, sau này có tên “Sáng kiến một vành đai, một con đường”, và đề xuất thành lập ngân hàng Đầu tư cơ sở hạ tầng châu Á.

Tập tiếp tục dấn bước trên cái hiện trạng ở nhiệm kỳ đầu, không cho thấy dấu hiệu chùng xuống khi chuẩn bị bước qua cuối nhiệm kỳ hai. Việc củng cố quyền lực không ngừng nghỉ: ông không có đối thủ chính trị thực sự, hủy bỏ giới hạn cầm quyền, cài cắm các người thân cận và trung thành vào các vị trí chủ chốt. Các trung tâm nghiên cứu mới được lập ra, hết lòng nghiền ngẫm các bài diễn văn, bài viết của Tập; các quan chức Đảng công khai ca ngợi óc sáng suốt và phẩm hạnh của ông ta, và các nghị quyết đảng, văn kiện của chính quyền luôn luôn công bố là dựa vào “Tư tưởng Tập Cận Bình”. Ông khẳng định sự chi phối của đảng CS vào mọi mặt đời sống kinh tế xã hội của tất cả nhân nhân TQ, thậm chí còn thúc ép các công ty công nghệ và kinh doanh có tầm ảnh hưởng khổng lồ phải khẩn cầu sự tha thứ vì họ tỏ ra thiếu trung thành với Đảng. Trong lúc đó, ông ta tiếp tục mở rộng tầm ảnh hưởng quốc tế TQ qua lối hành xử quyền lực cứng, o ép kinh tế, thâm nhập vào các tổ chức đa phương quốc tế.  

Nhiều người quan sát nước ngoài, kể cả tôi, ban đầu tin tưởng Đảng sẽ bất lực khống chế Covid-19, thể hiện rõ các yếu kém của thể chế TQ. Tuy nhiên, mùa hè năm 2020, Tập ca ngợi ưu thế tập quyền trong việc kiểm soát đại dịch lây lan trong nước (Thế giới thì…lãnh đủ! -ND). Khó có gì làm suy suyển quyền lực chính trị của ông ta; biện pháp “bàn tay sắt” của Bắc Kinh đánh bật vi rút bây giờ trở thành một điểm son đầy kiêu hãnh của quốc gia.

THỜI GIAN DUY NHẤT

Bước tiến của họ Tập bắt đầu vì sự tích tụ những đổi thay về địa chính trị, dân số học, kinh tế, môi trường, và công nghệ. Hiểm nguy chúng gây ra là đáng sợ, nhưng chưa phải hiện hữu; Bắc Kinh có cơ giải quyết trước khi chúng thành thảm họa. Và những lợi thế tiềm năng họ đưa ra rất đáng kể.

Thay đổi lớn đầu tiên là sự đánh giá của Bắc Kinh về sức mạnh và ảnh hưởng của phương Tây đang đến hồi suy thoái nhanh chóng,dẫn đến kết quả, một thời đại đa phương mới bắt đầu, thời đại mà TQ tự định hình theo ý muốn. Quan điểm này càng vững chãi khi cuộc chiến của Mỹ ở Afghanistan và Iraq đã sa lầy; nó càng được củng cố trước cuộc khủng hoảng tài chính 2008, các lãnh đạo TQ coi như hồi chuông báo tử cho uy thế quốc tế của Hoa Kỳ. Năm 2016, dân Anh bỏ phiếu rời khỏi EU và Donald Trump đắc cử tổng thống củng cố quan điểm đồng thuận là, Hoa Kỳ và phương Tây, nhìn tổng quát, đang đà đi xuống. Điều này ngụ ý cho TQ chọn lựa chiến lược: kiên nhẫn chờ đợi và đơn giản để cho quyền lực nước Mỹ dần dần héo hắt. Nhưng khả năng thay mới lãnh đạo Hoa Kỳ hồi sinh nhờ sự xuất hiện chính phủ Biden – và các quan ngại về tuổi già của Tập (sẽ là 82 tuổi vào năm 2035) – cho biết, Bắc Kinh không muốn chờ đợi để trông thấy giai đoạn suy tàn của phương Tây kéo dài thế nào.

Sức mạnh quan trọng thứ hai đối mặt Tập là triển vọng kinh tế và dân số đang ngày càng tệ hơn . Vào thời ông lên cầm quyền, dân số TQ đồng thời già đi và giảm sút, đất nước đối mặt đáng sợ quá đông người về hưu, làm sâu sắc thêm hệ thống vốn yếu kém an sinh và hưu bổng. Học viện khoa học xã hội TQ hiện nay cho thấy dân số TQ đạt đỉnh vào năm 2029, và một nghiên cứu mới đây của The Lancet dự báo dân số nước này sẽ suy giảm 50% vào cuối thế kỷ. Dù Bắc Kinh chấm dứt chế độ khủng khiếp một con năm 2016, đất nước này vẫn ghi nhận số sinh giảm 15% 12 tháng qua. Trong khi đó, chính phủ dự đoán vào năm 2033, gần 1/3 dân số sẽ bước qua tuổi 60.

Cộng thêm những khốn khó này là lực lượng lao động ít xuống và lương bổng tăng lên, trung bình 10% kể từ 2005. Lương cao có lợi cho người lao động nhưng các nhà sản xuất quốc tế ngày càng dời hoạt động của họ ra khỏi TQ đến những nước ít chi phí hơn, hậu quả, số lao động tay nghề thấp ở lục địa thất nghiệp hay khó tìm ra việc. Bởi lẽ, chỉ 12,5% lao động TQ có bằng đại học (trong khi Mỹ là 24%), sắp xếp lực lượng lao động khổng lồ trong nước, cạnh tranh công việc tay nghề cao trong tương lai sẽ là một trận tuyến cam go.

Liên quan trực tiếp tới bức tranh dân số đáng lo là sự suy thoái kinh tế ở TQ. Với tăng trưởng kinh tế từ điểm cao 14 % trong năm 2007 rơi xuống trung bình một con số ngày nay, rất nhiều vấn đề tồn tại từ lâu, Bắc Kinh có thể giải quyết trong hậu trường, cần sự chú ý và quyết tâm, chấp nhận đau đớn kinh tế và chính trị, từ việc thanh lý những công ty nợ như núi đến việc yêu cầu cá nhân và công ty phải trả nhiều vào kho thuế quốc gia. Trọng điểm khó khăn tăng trưởng của TQ là năng suất sụt giảm. Suốt các thập niên đầu sau thời Mao, thành quả tăng năng suất tương đối dễ thấy, lý do, nền kinh tế kế hoạch hóa bị giải thể, nghiêng về sức mạnh thị trường, và động lực cho người dân tự nguyện rời khỏi thôn xóm đi đến các vùng thành thị hay sát biển, với hy vọng tìm việc lương cao. Sau đó, khi các công ty ngoại quốc đem đến đất nước nào là đầu tư, kỹ thuật, và công nghệ, hiệu quả công nghiệp tiếp tục cải thiện. Sau cùng, hàng núi tiền đổ vào hạ tầng cơ sở, đặc biệt là đường bộ và đường sắt, đẩy mạnh sự nối kết, năng suất từ đó nâng cao. Tất cả những thứ này giúp nền kinh tế èo uột, chủ yếu dựa vào nông nghiệp, nhanh chóng bắt kịp các nền kinh tế phát triển hơn.

Tuy nhiên, vào thời Tập nắm quyền, các nhà hoạch định chính sách thấy ngày càng khó mà duy trì động lực nếu không tạo ra mức độ nợ nần nguy hiểm, như họ từng làm vào năm 2008 để đối phó với khủng hoảng tài chính. Còn nữa, đất nước đã bảo hòa cơ sở hạ tầng giao thông, do vậy, thêm một kilometre đường bộ hay đường sắt cũng không đem lại gì cho tăng trưởng. Bởi lẽ hầu hết lao động khỏe mạnh đều di chuyển từ thôn quê ra thị thành thị, định hình lại dân số cũng không ngăn cản sức giảm sút năng suất. Sau cùng, phí tổn xã hội, môi trường theo mô hình tăng trưởng trước đây của TQ trở thành, không những thiếu bền vững mà còn bất ổn, như ô nhiễm không khí khủng khiếp và sự tàn phá môi trường gây ra căm phẫn trong dân chúng.

Có lẽ những chuyển biến hiệu quả nhất trên lộ trình của Tập là những tiến bộ trong công nghệ mới, như là trí khôn nhân tạo, rô-bốt học, kỹ thuật y sinh, cùng những thứ khác. Tập tin rằng, thống lĩnh “đỉnh cao quyền uy” nhờ công cụ mới mẻ ấy sẽ đóng vai trò trọng yếu cho số mệnh kinh tế, quân sự, địa chính trị của TQ, và ông ta huy động toàn đảng chuyển hóa đất nước thành “cường quốc” công nghệ cao. Làm điều này là chi tiêu nhiều món tiền khổng lồ cho R&D (Nghiên cứu và phát triển) và năng lực sản xuất về công nghệ được coi rất quan trọng cho an ninh quốc gia, từ pin cho đến chất bán dẫn. Như Tập chỉ rõ hồi 2014, lợi thế dẫn đầu sẽ đến với “ai dắt được mũi con bò đổi mới khoa học và kỹ thuật”.

Tập Cận Bình cũng hy vọng công nghệ mới có thể giúp đảng CSTQ vượt qua, hay chí ít, tránh được gần hết những thách thức trong nước. Ông ta cho rằng, ảnh hưởng tiêu cực của lực lượng lao động thu hẹp có thể ngăn được nhờ sự thúc đẩy mạnh mẽ tự động hóa; mất việc làm trong các nền công nghiệp truyền thống có thể bù đắp bằng các cơ hội trong các ngành kỹ thuật cao tân tiến hơn. Năm 2014, ông ta tuyên bố: “Chúng ta có trụ vững trên diễn đàn quốc tế hay vượt qua ‘bẫy thu nhập trung bình’ hay không phần lớn đều dựa vào sự cải thiện khả năng sáng chế khoa học và kỹ thuật”.

Công nghệ mới cũng phục vụ nhiều mục đích nữa. Công cụ nhận diện gương mặt, trí tuệ nhân tạo, đem lại các cơ quan an ninh trong nước nhiều phương cách mới, giám sát người dân và đàn áp bất đồng chính kiến. Chủ trương kết hợp “quân sự- dân sự” của Đảng quyết sử dụng công nghệ mới này để nâng cao đáng kể khả năng tác chiến quân đội TQ. Sự tiến bộ trong công nghệ “xanh” đem lại triển vọng cùng một lúc theo đuổi tăng trưởng kinh tế và giảm nhẹ ô nhiễm, hai mục tiêu Bắc Kinh đang coi như là sự bức bách.

HOANG TƯỞNG CHÍNH TRỊ

Sự tích tụ nhiều đổi thay và diễn biến xảy ra không kể là ai nắm quyền ở TQ vào năm 2012. Có lẽ một lãnh đạo khác cũng phải tuân thủ bức đi táo bạo tương tự. Tuy thế, trong các nhân vật chính trị TQ đương đại, Tập chứng tỏ năng lực không ai bì trong việc đấu đá nội bộ. Và rõ ràng, ông ta tin mình là nhân vật quan trọng của lịch sử, số mệnh đảng CSTQ đặt lên vai ông.

Để thúc đẩy mạnh mẽ sự thay đổi quan trọng, Tập giám sát việc kiến tạo một trật tự chính trị mới, ở đó, bệ đỡ phải là tảng đá lớn cho sức mạnh và uy quyền trong Đảng. Tuy nhiên, xa hơn việc nâng cao quyền uy của Đảng, có lẽ thành quả quan trọng nhất của Tập là định nghĩa lại việc “mở rộng an ninh quốc gia”. Sự ủng hộ của ông về “khái niệm an ninh quốc gia toàn diện” xuất hiện vào đầu năm 2014, và trong một phát biểu hồi tháng 4, ông tuyên bố, TQ đang đối mặt “rất nhiều nhân tố quốc nội và quốc ngoại phức tạp nhất trong lịch sử đất nước”.  

Mặc dù rõ ràng đây là cách nói thậm xưng – chiến tranh với Hoa Kỳ ở Triều Tiên, nạn đói cuối thập niên 1950 phức tạp gấp mấy – thông điệp Tập gởi đến chế độ rất rõ: Một giai đoạn đầy hiểm nguy và bất trắc mà Đảng đang đối mặt.

Kinh nghiệm dài dài của đảng CSTQ về đào thoát, âm mưu đảo chính, lật đổ, bởi yếu tố bên ngoài mở đường cho Đảng đi tới hoang tưởng nặng, có cái gì như cao trào thời Mao. Tập dám thể chế hóa cái kiểu hoang tưởng này. Một kết quả làm mờ lằn ranh an ninh đối nội và đối ngoại là thổi phồng các mối đe dọa: Cán bộ đảng ở những vùng ít tội phạm, ít nguy hiểm, ngày nay phát đi cảnh báo nào là khủng bố, “cách mạng màu”, “sự thâm nhập của đạo Cơ đốc”.

Ở Tân Cương, nỗi sợ hãi ly khai được sử dụng để biện minh cho việc biến toàn khu vực này trở thành nhà tù thống khổ, giám sát bằng công nghệ cao. Ở Hong Kong, Tập dựng lên bộ máy “cai trị an ninh”, gạt bỏ luật lệ sở tại, điều hành hoàn toàn bí mật khi nó muốn tiệt nọc (weed out) các thách thức bàn tay sắt cai trị của Bắc Kinh. Ở cả hai nơi, Tập chứng tỏ mình sẵn sàng chấp nhận lời chê bai của thế giới một khi ông ta cảm thấy lợi ích cốt lõi của Đảng bị đe dọa.

Mặt đối nội, Tập khơi dậy tình cảm dân tộc cực đoan bằng cách dựng chuyện TQ đang bị kẻ thù bao vây, khai thác những tình cảm xúc động (đa phần là méo mó) về quá khứ, thần tượng hóa các cuộc chiến đấu của TQ chống người Nhật trong đệ nhị thế chiến, và “chiến thắng” Hoa Kỳ trong trận chiến Triều Tiên. Bằng cách cảnh báo TQ đang vào thời điểm hiểm nguy bởi “thế lực thù địch nước ngoài”, Tập đang cố rót vào đầu người dân TQ ý nghĩ về nhiều giai đoạn cam go phía trước, rồi bảo đảm rằng, Đảng và chính ông ta sẽ là sức mạnh đem lại ổn định.

Trong khi đó, để khai thác cơ hội thấy được khi Hoa Kỳ thoái lui dần sự can dự quốc tế, Bắc Kinh mạnh bạo tiến tới, trên nhiều mặt trận với nhiều đối sách đa dạng. Các mặt trận này bao gồm việc sử dụng chiến thuật “vùng xám” (không tranh chấp tạo thành tranh chấp -ND), như là triển khai các tàu đánh cá, nhằm khẳng định quyền lợi lãnh thổ ở Biển Đông và thiết lập một căn cứ quân sự đầu tiên ở nước ngoài, tại Djibouti.

Thị trường nội địa bao la của TQ cho phép Tập đe dọa nước nào không tỏ ra thuần phục về chính trị và ngoại giao, điển hình bằng chiến dịch mới đây của Bắc Kinh, cưỡng bách kinh tế nước Úc để đáp trả Canberra kêu gọi điều tra độc lập về nguồn gốc vi rút gây ra Covid-19. Tương tự, Tập khuyến khích các nhà ngoại giao “Lang chiến” (Wolf warrior) hù dọa và quấy rối nước chủ nhà nào phê phán hay khiêu khích TQ. Đầu năm nay, Bắc Kinh ra lịnh trừng phạt Jo Smith Finley, một nhà nhân chủng học, nhà khoa học chính trị, nghiên cứu về Tân Cương, và viện nghiên cứu TQ Mercator, một think tank của Đức; công việc của họ bị đảng CS tuyên bố là “phương hại trầm trọng chủ quyền và lợi ích TQ”.

Mao Trạch Đông và Đặng Tiểu Bình cho thấy sự kiên nhẫn chiến lược khi khẳng định quyền lợi của TQ trên trường quốc tế. Thật sự, Mao nói với tổng thống Nixon, TQ có thể đợi 100 nữa để thu hồi Đài Loan, và Đặng thương thảo việc trao trả Hong Kong với lời hứa (bị Tập nuốt lời) được tự trị 50 năm. Cả hai nhà lãnh đạo cảm nhận sâu sắc về sự mong manh tương đối và sự thiết yếu cẩn trọng trong điều hành đất nước TH. Tập không cùng quan điểm ẩn nhẫn hoặc tự tin như họ trong giải pháp lâu bền của cả hai ông.

Điều đó làm dấy lên quan ngại Tập sẽ cố đi một nước cờ hết sức nguy hiểm để chiếm Đài Loan bằng vũ lực vào năm 2027, kỷ niệm thứ 100 ngày thành lập Giải phóng quân TQ. Tuy nhiên, không chắc lắm, ông ta có thể lôi kéo xung đột quân sự với Hoa Kỳ đang ở cách xa bờ biển lục địa 110 dặm. Giả sử PLA thành công trong việc vượt qua hàng phòng thủ của Đài Loan, không nói gì tới khả năng qua mặt sự can thiệp của Mỹ, thì Tập phải thực thi sự chiếm đóng quân sự, chống lại một cuộc kháng chiến với một thời gian vô định. Cuốc chiếm đóng Đài Loan nếu có sẽ làm tiêu tan hầu như tất cả tham vọng khác, đối nội cũng như đối ngoại của Tập. Tuy nhiên, kịch bản nguy kịch vẫn chưa thể xảy ra vào lúc này, Tập sẽ tiếp tục cho TQ phô trương sức mạnh với các nước láng giềng, và dấn bước lên trước để theo đuổi quyền lợi của mình. Với nhiều vấn nạn, có vẻ ông ta muốn hoàn tất quyết tâm đã định của mình.