Friday, November 3, 2023

NHƯ CỔ TÍCH

Chú voi biểu tượng (hình) ở đất nước Kenya vừa mới qua đời, tuổi phỏng đoán từ 60 đến 65. Voi ở Việt Nam còn lại bao nhiêu con? Tôi không rõ. Nhưng ở vùng quê “cổ tích” của tôi (Tây Quảng Nam), chúng nhiều đến nỗi làm sợ hãi dân làng. Đi thành bầy, thường xuyên, chúng xuất hiện phá hại lúa ở những thửa ruộng sát bìa rừng (ruộng lúa gieo cấy bằng nước “trời” - nước mưa, nước khe suối). Đó là những năm tôi chưa sinh ra. Đầu thế kỷ 20 khi núi rừng còn là thế giới huyền ảo, cọp gọi là “ông Hổ”, voi gọi bằng “ông Bồ”.

Không sợ hãi chúng, một nông dân gan dạ - ông Bốn- rắp tâm “trả đũa”. Dựa vào thói quen voi đầu đàn hay cạ mình vào thân cây ‘dừng’ (lộc vừng) cổ thụ, gốc hai người ôm khi ‘đàn em’ say sưa quậy phá, ông Bốn leo lên cao, với một mo cau chứa đầy ‘dầu rái’ (lấy từ cây dầu dùng để trét ghe nan, thúng, mũng…) đang đốt cháy. Thấy lưng như tấm phản của con voi ở ngay bên dưới chỗ ngồi an toàn trên cao, ông đổ chất lỏng đang bốc cháy của dầu rái xuống, lửa cháy theo dầu lan ra, ngọn bốc lên cao. Voi đầu đàn rống lên nhiều tiếng thảm thiết vang động núi rừng tịch mịch trong đêm tối. Vốn thông minh, những con voi khác dung vòi nhổ những bụi lách (một loại lau sậy) có rễ dính bùn vất lên lưng vị đàn anh gặp nạn. Dầu không phải là xăng. Nó cháy dai dẳng rất lâu. Cả đàn voi bỏ chạy. Bẵng thời gian, đàn voi không xuất hiện nữa. Những thửa ruộng Ông Bốn và dân làng xanh tốt hơn xưa.

Dân làng mừng rỡ. Càng mừng rỡ hơn, có người kể đã từng thấy con voi cháy lưng đang ở một vùng rừng núi khác. Những cây lách vẫn ‘tươi tốt’ trên lưng nó. Đây là dấu hiệu chắc chắn cho biết ‘thành tích’ của vị nông dân gan dạ. Không rõ, lách sống trên lưng voi bao lâu nhưng câu chuyện con “Voi Lách” vẫn còn trong kho ‘cổ tích’ của những vị bô lão còn sống cho đến ngày nay.

Câu chuyện trên chỉ nghe kể lại nhưng câu chuyện này có thật. Nhân vật chính là ông nội tôi. Tuổi ông có lẽ ngang ngửa với thân sinh cụ Nguyễn Sinh Cung. Ông tôi có võ nghệ khá thuần. Sở thích là bẫy thú rừng. Nai, mang (mễnh), heo rừng… cứ năm bảy ngày hay lưng nửa tháng bắt một con. Có một lần - và cũng là lần duy nhất, ông bị buộc từ bỏ đam mê bẫy thú rừng- bẫy ông mắc một con…beo (hai ‘đòn khiêng’ – nghĩa là 4 người khiêng bằng 2 đòn cây).

Ngày xưa không có đồng hồ, đi ‘thăm bẫy’ dựa vào tiếng gà gáy. Không rõ ngứa miệng hay sao, hôm đó con gà gáy quá sớm. Ông tôi thức dậy, rút chiếc mác dài vác lên vai rồi một mình lặng lẽ vô rừng “làm nhiệm vụ”.

Dưới bóng trăng mờ bìa rừng, ông mừng rỡ ngỡ con beo là con cáo khổng lồ dính bẫy. Đến gần, con beo gầm to một tiếng chồm tới, ông tôi trụ người ở tư thế phản công, mũi mác chĩa tới trước; chiếc cần bẫy tre đực dẻo dai bật mạnh, sợi dây thừng cột trên đỉnh thít chặt chân trước quật ngược lại do trớn nhảy của con thú. Thú bật ngửa phơi bụng trắng nhờ trên đất. Đây là thời điểm mũi mác phóng vào ngực nó. Với phản xạ cực nhanh, con thú chụp lấy cán mác giật mạnh, mác gãy đôi, mũi mác văng ra, phần cán dài hơn 1 mét vẫn còn trên tay ông tôi nhờ nắm chặt. Thế là, mỗi lần nhứ, con thú chồm tới, sợi dây thừng giật ngược, thú té ngửa ra sau, miệng gầm dữ dội sau mỗi cú đánh vào ngưc của ông. Không rõ bao lâu thì con báo chết và ông tôi cũng ngất đi vì sợ và vì mệt: ông hiểu mình đang đánh một con… beo, điều ông không hề nghĩ tới vì cứ ngỡ là con cáo khổng lồ dưới ánh trăng nhờ nhờ mờ ảo.

Mặt trời lên ‘một sào’ (tầm 9 giờ, cách đo đếm thời gian hồi xưa ở quê tôi), cha tôi không thấy ông về. Biết là gặp nguy. Thời đó, cọp ra bắt người, bắt heo tha vào rừng là chuyện thường xuyên vì làng mạc ít người ở lại nằm gần bìa rừng thâm u. Bác tôi kêu thêm một vài thanh niên lực lưỡng, vũ trang rựa rìu, cùng vào rừng nơi ông nội thường đặt bẫy trong tâm trạng lo lắng sợ hãi.

Thấy ông nội và con beo nằm bất động, cả hai dính đầy máu, cha tôi sụp xuống ôm lấy ông, khóc nức nở. Con beo giết cha mình rồi sao. Ông tôi bỗng mở mắt. Nhìn mọi người chung quanh, ông mỉm cười, chắc thầm nghĩ ‘mình hãy còn sống sao’.

Thịt beo chia ra cho hàng xóm và bà con, ăn lấy lộc. Da beo phơi khô độn trấu, nhìn như con thú còn sống. Hiện nay, cháu đích tôn của dòng họ nhà tôi vẫn còn giữ được một chiếc vuốt khá to của con beo. Dân làng lầm lẫn beo (báo?) với cọp. Từ đó, ông tôi có biệt danh “ông Thắng đánh cọp”.

Tôi kể hai câu chuyện trên cho dài dòng để nối tiếp câu chuyện nữa: cũng là bẫy thú rừng.

Những năm sau 1954, quê tôi vẫn còn rất nhiều thú rừng. Cọp thi thoảng mới thấy ở rừng sâu; voi cũng vậy. Ông Phạm Hùng từng săn một con cọp ở tả ngạn sông Bung (giờ có thủy điện sông Bung). Voi cũng bị chết dưới tay ông vài con. Thời đó chưa thấy ai cấm bắn cọp bắn voi. Nhưng mang (mễnh) và heo rừng thì nhiều “vô kể”. Súng không dễ gì có; người ta sử dụng phương tiện khác để bắt thú rừng. ‘Hầm heo’ là phổ thông nhất.

 NGười ta chọn một khoảng đất khá trống trải đầu bìa rừng để đào hầm bẫy heo rừng. Hầm dài 5 mét, rộng 1 mét, sâu 3 mét. Đáy hầm nhỏ lại ở dưới như hình tam giác, miệng hầm là đáy, đáy hầm là đỉnh của tam giác ấy. Đáy hầm hẹp có mục đích, heo rơi xuống đó không lấy được trớn để nhảy lên khỏi miệng hầm. Chung quanh hầm 1 mét có một hàng rào tre vót nhọn cao 1,5 m. Đầu hầm chừa khoảng trống làm cửa. Tại đây sẽ có một tấm ‘giá khổ’ chừng 3 mét cao 1,5 treo lên cao, cài bằng một then nối với một sợi dây. Khi vướng dây, giá khổ rớt xuống, heo rừng hốt hoảng nhảy tới theo hướng hầm đào sẵn, miệng hầm che bằng lá bật cật ngụy trang (giống lá kè miền Nam). Heo thích rau lang và nhất là sắn. Rau và sắn trồng quanh miệng hầm, giới hạn trong một hàng rào, để dẫn dụ heo vào. Giá khổ làm bằng cây tốt, rất nặng phải hai người hợp lực mới có thể nâng lên để ‘giăng bẫy’.

Khi rớt xuống hầm, chúng sẽ bị đâm chết nếu heo lớn, bắt trói nếu heo con. ‘Tiết canh’ heo rừng nghe đâu rất đặc biệt vì rất ngon.

Nhưng làm sao biết có heo sa vào hầm? Rất dễ. Người ta chừa một cành cây cao gần đó, nối giá khổ với một khung màu trắng (làm bằng lá bật cật) bằng một sợi dây rất mảnh. Khi giá khổ đóng, heo nhảy xuống hầm, chiếc dây nhỏ kia sẽ kéo theo khung màu trắng. Mỗi sáng, ‘chủ hầm’ đều đứng ở đầu làng căng mắt nhìn vào nơi có hình dáng chiếc khung. Không thấy nó, người ta chắc chắc hầm ‘sụp’ và heo đang ở bên dưới. Khi thăm hầm, ít nhất phải hai người, trang bị một hay hai lưỡi mác, phòng gặp heo ‘đực chiếc’ (lợn lòi) có con cực lớn, thịt móc hàm không kể xương có thể tới 1 tạ. Đông người mới có thể lôi heo lên khỏi miệng hầm sâu 3 mét. Có khi, chiếc hầm dài 5 mét ấy chứa cả một bầy heo, một con mẹ và hơn chục con con.

Ngày nay, quê tôi còn nhiều thú rừng không? Heo rừng cũng được. Không. Nói cho gọn. Không một thú nào tìm thấy nữa, kể cả: nhím, cheo, chồn, mang (mễnh), chứ chưa nói tới nai. Cọp, beo, voi…chỉ còn trong ký ức.

Những câu chuyện về thú rừng trở thành cổ tích dù chưa quá 100 năm. Ngày nay, còn heo rừng thiên nhiên không? Còn. Nghe đâu phải qua tận đất Lào để bẫy lén. Khi con thú dính bẫy, việc đầu tiên là chích phot môn rồi xẻ thịt. Trên các bàn tiệc dành cho các ‘’đại gia” ham đặc sản núi rừng, thịt rừng thật (không phải nuôi) và phot môn cũng rất thật. Thiên nhiên tạo ra cây rừng và thú rừng. Con người ngày nay tiệt diệt thú rừng và tàn phá cây rừng. Không hẳn chỉ ở quê hương tôi đâu. Có lẽ là quê hương của rất nhiều quí vị.

Quê hương có thú rừng và cây rừng chỉ còn là câu chuyện “hồi xưa”, một ngày nào đó không còn nghe ai kể nữa…

Wednesday, November 1, 2023

VIỄN KIẾN CỦA MỘT NHÀ LÃNH ĐẠO

1.11.1963 là ngày đảo chánh tổng thống Ngô Đình Diệm. Cuc diện chiến tranh Việt Nam đi qua bước ngoặt quan trọng: Sự can thiệp ra mặt của người Mỹ vào nội tình chính trị miền Nam Việt Nam, một trong điều ông Ngô Đình Diệm lo lắng và không muốn: Mỹ đưa quân vào VN.

Tầm nhìn này được cựu đại sứ VNCH tại Mỹ, ông Bùi Diễm (con trai cụ Bùi Kỷ, cháu Trần Trọng Kim), vừa qua đời ở tuổi 95, chia sẻ trong cuốn hồi ký Trong Gọng Kìm Lịch Sử (bản tiếng Anh chính ông viết: In The Jaw Of History):https://nhatbook.net/gong-kim-lich-su-bui-diem-2019/

“Nếu chỉ nhìn bề mặt của miền Nam Việt Nam vào mùa thu 1967, thì quả thực về cả hai phương diện chính trị và quân sự, tình hình chung đã được cải thiện nhiều so với hai năm về trước, và cuộc bầu cử năm ấy có thể được coi như một cao điểm của cả một giai đoạn. Biểu tình, xáo trộn, đảo chính, tất cả đã nhường chỗ cho những hoạt động chính trị bình thường, một chính phủ hợp hiến, một tình trạng ổn định, ngoài ra cũng không còn mối đe dọa bị tràn ngập bởi một cuộc tấn công của đối phương. Thế nhưng chiến tranh cứ kéo dài, vì vậy mà dưới bề mặt phẳng lặng, người ta vẫn thấy ẩn hiện một số vấn đề phức tạp mà nhiều người cho rằng đã bắt nguồn ngay từ bản chất của cuộc chiến.

Vì mặc dầu sự can thiệp của Hoa Kỳ có giúp nhiều cho Việt Nam, chính sự can thiệp đó cũng lại tạo nhiều khó khăn. Chiến tranh càng kéo dài bao nhiêu, thì sự có mặt của gần nửa triệu quân đội Hoa Kỳ và hàng ngàn cố vấn đủ loại, càng làm cho nhiều người Việt Nam thắc mắc. Họ nhận thấy là người Mỹ có mặt gần như ở mọi lãnh vực trong đời sống hàng ngày của họ. Họ không mấy vui lòng vì Việt Nam phải lệ thuộc quá nhiều vào Hoa Kỳ. Tuy người Mỹ không hống hách như người Pháp thời Việt Nam còn là thuộc địa Pháp, nhưng họ vẫn tự hỏi làm thế nào giữ được chủ quyền, nếu người Mỹ lúc nào cũng đứng đằng sau nắm giữ mọi việc từ cách soạn thảo các chương trình phát triển kinh tế cho đến việc điều động chiến cuộc” (trang 257).

Người Việt Nam vốn "dị ứng" với người ngoại bang, dù đó là ngoại bang Mỹ. Tổng thống Ngô Đình Diệm nhận định đúng: Cần viện trợ Mỹ, không cần quân đội Mỹ. Sự có mặt của họ là cái cớ để đối phương tuyên truyền "chống Mỹ cứu nước". Sau Ngô Đình Diệm không có gương mặt chính trị nào ở Sài Gòn tương xứng tầm vóc của ông. Người Mỹ trả giá đắt vì không hiểu văn hóa VN, người Việt Nam.

Monday, October 23, 2023

CÂY LỤT

"Ông tha mà bà chẳng tha.

Làm cho cây lụt hăm ba tháng mười" (Ca dao)

Ở vùng rừng núi tây Quảng Nam, ông bà chúng tôi thường gọi "cây" lụt mà không gọi trận lụt. Lụt kinh hoàng nhất, hàng ngàn người chết năm 1964 mới có tên Trận lụt năm thìn.

Cây lụt nghe hiền lành hơn, xảy ra vào tháng 9, 10 âm lịch, mùa thu hoạch hoàn tất. Thường sẽ có mưa liên tục 5, 7 ngày, nước sông dâng lên điềm đạm. Người dân quê xem lượng mưa, ngày mưa để quyết định có "dọn lụt" hay không.

Ở nông thôn, gia đình nào cũng bừa bộn vật dụng trong nhà; dọn lụt rất vất vả. Nếu nước không vào nhà, việc khuân vác các thứ từ trên gác xuống thật gian nan và mất rất nhiều thời gian. Vì sao, người dân quê "cân nhắc" việc dọn lụt? Vì họ có thể đoán lụt to hay lụt nhỏ tùy cảm nhận, quan sát lượng mưa, ngày mưa, hồi đó không có dự báo thủy văn ở nông thôn.

Nghe cha dự đoán "nước sẽ vô nhà", tôi khi 9,10 tuổi rất háo hức. Sẽ có nước ở đầu ngõ, trong sân, tha hồ chèo chống bè cùng các trẻ hàng xóm. Bè làm từ cây chuối chặt bằng nhau, kết lại nhờ que tre dài đóng vào thân chuối. Nhiều nhà có ghe đi lại, không bao giờ trẻ chúng tôi được cho đi nhờ để ra ngoài đồng rộng, xem nước lụt ngập mênh mông. Khi nước lên cũng như khi nước rút, trẻ con luôn theo dõi, bằng cách cắm 1 que tre có đánh dấu, xem nhanh hay chậm. Nước lên, trẻ hồi hộp chờ đợi, không khác những ngày chờ tết, sẽ có quần áo mới tinh tươm; nước xuống, lụt sắp hết, lòng man man buồn như khi thấy con dế yêu quý bỗng dưng lăn ra chết, không rõ nguyên do.

Lụt có nước ngâm lâu ngày, từ tốn, đồng ruộng thêm phù sa màu mỡ, mùn lá từ rừng cây bạt ngàn trôi theo dòng nước, đem tươi tốt lại cho mùa màng năm sau. Nước lụt giúp rửa sạch tồn đọng tích tụ mỗi năm; lụt làm bớt đi kẻ thù nhà nông: mấy ông Tý. Lụt giúp cá, tôm đi từ sông vô đồng, trú ẩn lại ở các ao đìa, sinh con đẻ cháu, đem lại nguồn thức ăn tươi cho người lao động.

Đó là "quá khứ" mấy chục năm trước. Giờ đây, theo dõi bão lụt quê nhà, tôi không còn mong lụt như thời còn bé. Chị tôi cho biết chỉ 5 ngày thôi đã có 3 trận (không phải cây) lụt. Vì sao lụt biến thành lũ? Ông thủy điện. Nước tích đầy, ổng phải xả; không xả, ổng vỡ ra thì "ăn cho hết". Lũ trở nên nguy hiểm vì nước dâng như vũ bão. Có lần về quê ngay mùa lụt, tôi mới thấy lũ nguy hiểm hơn lụt rất nhiều: không lường trước chuyện gì. Khi giúp người cháu ra vườn di chuyển độ 30 con heo choai choai bằng ghe nhôm phẳng đáy, nước chưa ngang đầu gối. Lúc các chú heo ụt ịt, an vị trên ghe chuẩn bị đưa lên gác, nước lên tới ngực tôi: thời gian chưa tới 30 phút. Tôi hỏi các năm nước lớn nhanh như vậy không, cháu tôi cười buồn "năm mô cũng rứa. Nước lụt cộng nước xả thành nước lũ, chú ơi!".

Thiếu điện phải cần thủy điện, rất hợp lý. Quê tôi và vài nơi miền Trung có địa thế dễ làm thủy điện nhờ có núi rừng lớp lớp.

Friday, October 6, 2023

SÀI GÒN DỠ PHONG TỎA

(Tản mạn sau 5 ngày Sài Gòn “cởi trói”)

Có thể là hơn 40 năm, lần đầu tiên tôi nghe lại tiếng rao “bánh mì đây” của một người đi bán bánh mì. Bây giờ, chỉ có xe bánh mì hoặc tiệm bánh mì, không có người đi rao bán bánh mì ổ.

Với trẻ con thời xưa, nhất là ở thôn quê, bánh mì là món ăn Tây lạ lẫm. Các bà mẹ quê có dịp ra phố mới có thể mua về cho con: những ổ bánh mì mà chính người mẹ chẳng mấy ai dám ăn vì mọi điều tốt nhất đều dành cho con. Ở miền Nam, thập niên 1950 và 1960, bán bánh mì ổ (không thịt) là một nghề hẳn hoi, chỉ những người nghèo khổ nhất ở thị trấn lớn hay thành phố mới làm. Bánh mì bỏ vào trong một bao vải đã đựng bột mì giặt sạch. Đi gần hết các con phố, bánh mì của người bán vẫn còn nóng nhờ lớp vải dày của bao vải. “Bánh mì nóng dòn đây”. Đó là tiếng rao quen thuộc chỉ những người có tuổi như tôi mới còn nhớ.

Thời tân tiến, không còn những tiếng rao từ những người đi bán dạo. Một vài lời rao hàng thôi, tiếng rao lảnh lót kéo dài có khi cả ngày nhờ một thiết bị nho nhỏ lớn hơn nắm tay.

“Bánh mì đây”, những ngày Sài Gòn trong không khí ngưng đọng, nặng nề, khó thở, ngột ngạt - “ai ở đâu, ở yên đó”; tiếng rao từ một con người, không phải từ máy lại làm tôi sửng sốt. Những ngày tháng chưa có “bình thường mới”, có ai ăn bánh mì không thịt, không chả, không rau mùi, không ớt và không dưa leo?

Đất nước gần 100 triệu dân, nơi nào có cái gì, thì Sài Gòn đều có cái đó. Những ngày phong tỏa, ai có được một ổ bánh mì “vừa nóng, vừa dòn” lấy ra từ một cái túi vải dày, bên trong thêm một lớp túi ni lông? Cầm trên tay, bánh nóng như mới ra lò, thơm phưng phức. Tôi mua một ổ và cắn từng miếng, từng miếng mì dòn rụm, bánh mì không thịt, không nước sốt. Có lẽ như phở Hà Nội thời chiến tranh: phở không người lái (phở không thịt) nhưng cực ngon. Vừa nhai từng tý, chậm rãi, từ tốn, nhảnh nha, tôi vừa thở rất nhẹ, sợ mùi thơm thoang thoảng của ổ bánh mì sẽ tan biến vào thinh không.

Tôi ăn từng miếng như chưa từng ăn một ổ bánh mì trong đời. Gần 4 tháng tóc bạc cứ dài ra. Những ước ao giản dị cũng dài ra theo tóc bạc. Lúc bị hốt vào khu cách ly, mọi cái đều phụ thuôc “nhà nước”, chẳng hạn chỉ một phần tư quả ớt, tôi cũng ước ao. Có hôm, nhận phần cơm, người nấu ăn nào đó “tốt bụng” hay “sơ ý” bỏ vào phần ăn của tôi hơn phân nửa trái ớt đỏ, nỗi mừng vui như vô hạn.

Khi “mất tự do”, chỉ một ánh sáng hay làn không khí lọt qua khe cửa, người ta cảm thấy đất trời đáng yêu vô kể, huống hồ gì một mẩu ớt, thức ăn tôi yêu từ tuổi dậy thì. Ổ bánh mì nóng dòn còn ngon hơn thế.

Vì sao người phụ nữ chưa qua tuổi 30, gương mặt cháy sạm, chỗ không cháy nắng nơi cổ vẫn còn nõn nà, lại có thể liều lĩnh đi bán bánh mì trong thời như giới nghiêm chiến tranh? Tôi thắc mắc và hỏi nhưng cô không đáp, vừa quan sát vừa nở nụ cười (tôi đoán thôi, khẩu trang che mất nụ cười). Khi thắng chiếc xe đạp phía sau là túi đựng mì ổ trước nhà tôi, cô lo lắng nhìn trước, nhìn sau, đôi mắt đầy sợ hãi, như một người sắp sửa phạm tôi. Cô vội vã lôi ra một ổ bánh mì nóng hổi, mùi thơm phưng phức. (Một ổ vì vợ tôi đang nằm nhà thương chữa Covid). Lúc đó chỉ tầm 5.30 sáng, tôi “len lén đi bộ tập thể dục chừng trăm bước tới lui trên lề đường trước nhà.

Sau ngày “giải phóng” 1/10/2021, tôi mới có dịp tìm hiểu lý do. "Khó như thế, cô không sợ bị đóng phạt hay sao?". “Chồng cháu bị kẹt làm công nhân ở Bình Dương, cháu ở Sài Gòn, thường ngày bỏ mối bánh mì cho các xe bán bánh mì. Nay các xe bánh mì không còn, cháu bèn đi bán dạo bánh mì không”. “Lò bánh mì có hoạt động sao?”. “Dạ còn, nhưng rất ít, chỉ đủ cho ba bốn người như chúng cháu- sống qua ngày. Số bột bánh còn dôi ra của họ”.

Người làm (lò) bánh mì kiếm sống hay chỉ muốn giúp những người gắn bó với họ kiếm sống, tôi không rõ; nhưng ăn được ổ mì nóng dòn, thơm, người bán rao kia làm sống trong tôi ao ước giản đơn: ăn một ổ bánh mì trong những ngày Sài Gòn như “chết lâm sàng” vì dịch bịnh, không một thứ gì được bán rong.

Sài Gòn năng động, có tiếng. Sài Gòn bao dung, có tiếng. Sài Gòn “xé rào”, có tiếng. Nếu để ý, quý vị sẽ thấy, kiếng chống giọt bắn ra đời đầu tiên ở Sài Gòn. Các ATM gạo nảy sinh, các cách thức tiếp cận của những người “nghĩa hiệp” đối với đồng bào khốn khó trong những căn nhà tối tăm, lụp xụp, những ngõ hẻm ngoằn ngoèo, có cái sâu hun hút…xuất hiện đầu tiên và rộng khắp, cũng ở Sài Gòn – tuy có lúc người làm từ thiện phải chật vật vì quy định nghiêm ngặt của các cấp thẩm quyền.

Khi đi đến chỗ cho phép tập thể dục ngoài trời sau ngày “giải phóng”, tôi lại phát hiện thêm chuyện “hớt tóc tại nhà” (xin gọi số.... viết nguệch ngoạc trên cửa tiệm hớt tóc bình dân). Bán bánh mì dạo và hớt tóc tại nhà trong thời phong tỏa: phạm luật. Chẳng may bị bắt, họ sẽ chịu phạt, nhân đạo đạo lắm cũng bằng thu nhập một tháng làm chui.

Nhờ có người bán bánh mì rao bất hợp pháp; nhờ bác thợ hớt tóc không tuân thủ quy định giãn cách, những người như tôi mới có được ổ mì để ăn mà nhớ bánh mì trong lúc không một xe bánh mì hay tiệm bánh mì nào có mặt ở thành phố 10 triệu dân; đầu tóc của những người mỗi tháng ra tiệm hớt một lần mới không trở thành tổ quạ.

Những người “phá rào” này thật năng động. Họ sống nhờ “phá rào” và chúng tôi cũng sống nhờ sự liều lĩnh phá rào của họ. Đứng bên lề đường, cả hai người mua, người bán đều mang khẩu trang, đứng cách xa nhau hơn một mét, cả hai đều lấy bình cồn ra xịt vào tiền trả, tiền thối, vào tay, và túi chứa ổ bánh mì nóng hổi, có lẽ cô Vy cũng thương tình không “bắt” con người lao động bé mọn trong trận chiến khổng lồ “chống dịch như chống giặc”.

Người bán bánh mì dạo và người hớt tóc thuộc giới nghèo khổ, có thể nói ít học nhưng cả hai đều rất “năng động” bươn chải cho cuộc sống éo le của họ trong dịch bịnh ở Sài Gòn. Tôi nghĩ, thành phố có rất nhiều giới tinh hoa. Sài Gòn chẳng lẽ không năng động hơn gấp trăm, gấp ngàn lần người bán bánh mì và bác hớt tóc dạo trong lúc ngặt nghèo?

Sài Gòn như một gã khổng lồ, sức khỏe vô song, làm ra 10 đồng chỉ cần tiêu 2 đồng thôi, cũng vui vẻ, nhưng bị trói chặt lại để “đập” con vi rút Vũ Hán - bằng hàng rào, bằng phong tỏa. Bị đập dữ dội như thế mấy tháng, con Covid chẳng xi-nhê, chàng khổng lồ thì xấc bấc, xang bang, tối tăm mặt mũi. Cũng may mắn, nhờ bề trên sớm "diễn biến", chàng mới được cởi trói; Corona vì thế lụi dần (thống kê sau ngày 1/10, các ca nhiễm càng về sau càng ít, tôi tin là con số đúng).

Sài Gòn đẹp lắm Sài Gòn ơi, Sài Gòn ơi. Chỉ sau năm ngày khởi sắc nhờ mở trói..

Saturday, September 30, 2023

CHO MƯỢN CÁI THANG

Ngày nay, bánh trung thu không còn là niềm mong ước của trẻ thơ. Không rõ ở thôn quê, trẻ em thành thị bây giờ rất hờ hững với những chiếc bánh đựng trong những hộp giấy sang trọng và lấp lánh sắc màu. Hai chất cần thiết cho sự sống là đường và tinh bột không còn cần thiết nữa trong những chiếc bánh trung thu đầy đủ dưỡng chất, quá ngon và quá ngọt ấy.

Nhưng đối với chúng tôi – tuổi ‘xưa nay hiếm’ – bánh trung thu là một ước mơ của tuổi thơ. Cơm là thức ăn hằng ngày mà (cơm) nếp lại là hàng ‘đẳng cấp’. Ngày trọng đại như Tết hay kỵ giỗ, trẻ con mới được dịp ăn…xôi. Xôi là loại cung cấp tinh bột rất quý. Người lớn còn thích huống hồ trẻ con. “Chập chập rồi lại cheng cheng. Con gà trống thiến để riêng cho thầy. Đơm xôi thời đơm cho đầy. Đơm mà vơi đĩa thòi thầy không ưa”. Xôi nấu từ nếp quan trọng lắm lắm. Không quan trọng người ta đâu có ghép hai chữ xôi và thịt thành “xôi thịt”, xôi luôn ngon khi ăn kèm với thịt; chỉ có ‘bọn xôi thịt’ mới không khen ngon.

Dông dài để nói cái quan trọng của một loại bánh trung thu hồi nhỏ chúng tôi được phát trong đêm rằm tháng tám: Bánh ú. Bánh ú là đơn vị nhỏ nhứt nhưng ăn có thể ấm bụng nhứt. Trẻ em tập trung đầy đủ ra “nhà hội” – một loại ‘nhà văn hóa’ ngày nay, hay là đình trung ngày xưa. Các em sẽ ngồi sắp hàng như xếp hàng vào lớp. Ngồi mà không đứng vì các em phải chờ rất lâu để ‘ổn định trật tự’. Khi thấy số lượng khớp hay gần khớp với số bánh ú có sẵn thì người ta bắt đầu phát bánh. Còn nhỏ, tôi không nhớ là ai nấu bánh nhưng chắc chắn ở quê không ai ‘mướn’ nấu hay mua bánh ú để làm quà trung thu. Mỗi năm chỉ có một lần. Chắc chắn có một hay hai mạnh thường quân nào trong làng muốn đem lại niềm vui cho tuổi thơ và có thể cho con cháu của họ. Những năm tháng yên bình chưa có khói súng chiến tranh.

Điều đáng nói bánh ú trung thu ấy không em nào nhận ‘thêm’ một chiếc 'ngoài' tiêu chuẩn. Có thể ngồi cuối hàng rồi chạy qua hàng khác nhân lúc chộn rộn lãnh bánh để ‘nhận’ thêm một cái bánh quý giá. Trẻ con rất ngây thơ, trong sáng. Chúng không ‘nghĩ’ ra ‘mưu đồ’ giành lấy phần hơn. Có em lột bánh ra ăn ngay nhưng có em cầm lấy trên tay như là niềm hãnh diện- để ‘dành’ mang về nhà chia phần cho anh chị hoặc em nhỏ chưa nằm trong tuổi nhận bánh ‘theo quy định’ của thôn làng.

Ở miền Trung, tháng tám là tháng mưa dầm. Chẳng thà mưa thật to nước ngập mọi nhà. Người ta chèo ghe đến từng gia đình để phát bánh ú trung thu. Chứ mưa dầm rả rích, đêm trung thu trở thành ‘đêm không ngủ’ vì thao thức mong được cùng nhau ra ‘đình’, nghe tiếng trống lân giục giã ‘tiếng’ trung thu, đón mừng vầng trăng sáng vành vạnh trên bầu trời trong xanh, cao vút.

Người miền Nam sẽ rầu thúi ruột nếu vô phước tham quan miền Trung nhằm những tuần (không phải ngày) mưa dầm ‘thúi đất’. “Đất Quảng Nam chưa mưa đà thấm”, huống chi mưa dầm! Lũ lụt có ảnh hưởng đến trung thu không? Vô vàn. Hãy tưởng tượng cảnh lầy lội khi ban đêm, ở quê trời rất tối, không đèn điện, trẻ con phải lục tục đến nhà hội để lãnh quà trung thu. Vậy là, bánh ú trung thu sẽ mang đến từng nhà. Cầm chiếc bánh ú còn nóng trên tay mà lòng đứt từng đoạn ruột: Bóng trăng chìm trong bóng mây. Ánh trăng là ánh đèn ‘bóng hột vịt’ trong nhà leo lét. Tiếng trống trung thu lẫn chìm mất hút trong tiếng mưa dầm nẫu ruột, nát gan. Còn đâu:

Bóng trăng trắng ngà có cây đa to

Có thằng Cuội già ôm một mối mơ

….

Mười lăm tháng Tám trời cho

Một ông trăng sáng thật to

Các em thích cười muốn lên cung trăng

Cứ hỏi ông Trời cho mượn cái thang (*)

Trung thu ngày nay có nhiều quà bánh hơn nhưng trẻ em (có thể là) ít háo hức hơn chúng tôi thời con nít ở một vùng quê heo hút xa xăm. Niềm vui trẻ con bây giờ phong phú và đa dạng. Mùi vị của những chiếc bánh đắt tiền không làm cho chúng ‘ngẩn ngơ’ như chúng tôi: Mùi nếp chin tỏa ra nhẹ nhàng từ chiếc bánh vừa tháo dây buộc và tước từng mảnh là chuối thơm phưng phức. Mùi của bánh trung thu.

“Cứ hỏi ông Trời cho mượn cái thang

Cho mượn cái thang ...”

“Cứ hỏi ông Trời cho mượn cái thang

Cho mượn cái thang ...”

(*) Nhạc sĩ Lê Thương.

DẠY THÊM, THỜI VNCH CÓ KHÔNG?

Xin trả lời ngay: Có. Ở một thành phố tiêu biểu ‘hiếu học’ của tỉnh Quảng Nam, Hội An, việc học thêm diễn ra “xưa như trái đất”. Có trường học là có học thêm.

Vì sao học thêm? Có hai lý do: Học để nâng cao môn nào đó học sinh yêu thích hoặc khó tự học và học để đi thi, hay gọi là học ‘luyện thi’. Các môn khó hay thích thường là ngoại ngữ, toán, lý, hóa. Không ai dạy thêm cũng như học thêm các môn: Văn, công dân giáo dục, triết, vạn vật (môn sinh?), nữ công gia chánh, thể dục…Còn luyện thi (lấy bằng tiểu học, trung học, bỏ rất sớm, và tú tài 1- lớp 11- cũng bỏ nốt trước 1975, một năm thì phải) thì học các môn: Toán, Lý, Hóa và nhất là ngoại ngữ.

Ai là người dạy thêm? Có thể là người chưa hề đi dạy nhưng rất giỏi ngoại ngữ (Anh, Pháp) muốn mở lớp ‘dạy thêm’. Và những giáo viên nổi tiếng muốn dạy thêm; tất nhiên không ai nổi tiếng đều dạy thêm; nghề dạy học lúc đó có thể nuôi cả gia đình (lương một giáo viên cấp 3 cao hơn lương phó quận trưởng, hay kỹ sư Phú Thọ).

Không ai cho phép hay cấm dạy thêm. Có cung ắt phải có cầu. Học sinh muốn học thêm ắt có thầy sẽ dạy thêm. Khi chuẩn bị thi tú tài 1 và tú tài 2, học sinh mới chịu khó ôm vở đi học thêm. Học thêm diễn ra mỗi buổi tối hoặc ngày nghỉ như thứ bảy hay chúa nhật. Tất nhiên, không phải học sinh nào thi tú tài đều đi học thêm. Tự học tại nhà hoặc ‘cặp bạn’ một hai học sinh xuất sắc để cùng nhau học tập. Toán, lý, hóa thì toán là có người học thêm nhiều nhất, tôi không hiểu tại sao. Kế đến mới là ngoại ngữ.

Có ‘trung tâm’ luyện thi không? Không. Đâu có nhiều học sinh học thêm mà lập trung tâm. Như vậy, toàn tỉnh (nói cho rộng ra) chỉ có một hay đôi ba chỗ dạy thêm. Nơi dạy thường là trong nhà thầy (ít thấy cô dạy thêm;có lẽ họ còn lo việc bếp núc và chăm sóc gia đình). Thầy dạy có tiếng, học sinh học thêm đông, thì mượn chỗ dạy; có thể đó là hội quán người Hoa hay các đình bỏ trống (ít khi thuê; dân khá giả Hội An thường không lấy tiền chỗ dạy học trò).

Học phí học thêm có nhiều không? Nhẹ hều. Học thêm không nghe phụ huynh nào than vãn đắt đỏ. Miễn con có ‘đôi ba chữ’ là cha mẹ vui lòng rồi. Tiền có sá là bao. Dân Quảng chúng tôi nghèo… mà rất hiếu học. Tôi muốn nói học thêm để thi tú tài (1,2). Tú tài là cái bằng ngốn công sức rất lớn của học sinh và cha mẹ. Tỷ lệ đậu tú tài 1 chừng 35-40%; tú tài hai chừng 15-25%. Có câu “Rớt tú tài anh đi trung sĩ (chỉ huy chừng 1 trung đội). Em đi làm sở Mỹ nuôi con”. Hay câu hát “Ta hỏng tú tài, ta hụt tình yêu…Đau lòng ta muốn khóc. Đau lòng ta muốn khóc”. Viễn cảnh thê thảm như rứa nên học thêm để thi là việc làm ‘dầu sôi lửa bỏng’ ảnh hưởng đến tương lai. Ai rớt một năm thì phải nhập ngũ.

Có một trường hợp duy nhất, học thêm không tốn tiền. Đó là những năm sau 1971 hay 1972 gì đó. Thầy dạy thêm không hề dạy học là (đại đức, thượng tọa?) Thích Tuệ Không. Gần như phân nửa học sinh thi cuối cấp đều học ông. Sự “uyên bác” trong mọi môn học của vị thầy giúp rất nhiều việc nâng cao tỷ lệ học sinh đỗ tú tài. Học thêm với thầy đông như đi xem phim hay coi hát. Điều lạ lùng, có lớp trên 50 em nhưng họ im phăng phắc mỗi lần ông cất tiếng bắt đầu giảng bài. Những năm thầy Tuệ Không dạy, một số lớp dạy thêm khác đều ‘giải tán’ vì không ai theo học, không phải học sinh sợ tốn tiền, mà vì muốn học với “siêu” thầy trước nay chưa từng dạy học.

Lấy tiền ít hay không đáng kể hoặc không lấy tiền…trong các lớp học thêm chứng tỏ: Học thêm là tự nguyện của người thầy, người trò. Học thêm là một nhu cầu có thực nhẹ tựa ‘lông hồng’.

Ngày nay, học thêm đang là vấn đề nóng bỏng, nặng nề. Thái Hạo, người rất nặng lòng với giáo dục nước nhà, phân tích: “Dạy thêm - học thêm do đâu?”. Thầy đưa ra lý lẽ và giải thích:

“1-Chương trình nặng?”.

Đây là nguyên nhân nhiều người nêu ra nhưng theo thầy: “Nội dung chương trình giáo dục của Việt Nam không phải nặng mà là khô cứng, cách dạy thì nhàm chán, máy móc, nặng tính văn mẫu...”

“2- Do thi cử?”.

“Đúng, thi cử nặng nề cả về nội dung lẫn sự khốc liệt trong “tỉ lệ chọi” đã dẫn đến một cuộc đua và đẩy học sinh vào con đường học thêm”. Nhưng thầy nói nếu quan sát kỹ thì sẽ thấy: “…học sinh Tiểu học, đâu có thi cử gì, nhưng chính ở cấp học này nạn học thêm dường như lại trầm trọng nhất”. Thầy dẫn chứng thêm: “Áp lực thi cử chủ yếu là đối với học sinh lớp 9 chuyển cấp lên lớp 10 và học sinh 12 thi vào đại học”. Áp lực thi theo thầy: “Cái áp lực thi vào công lập là do đâu? Do thiếu trường. Vậy giải pháp đơn giản là xây thêm trường. Nhà nước không thể phó mặc cho dân tự bơi tìm trường trong khi trường lớp thiếu nghiêm trọng như hiện nay”.

“3- Vì thành tích của nhà trường?”.

“Có, và khá nặng, nhất là đối với những trường THPT chuyên, trường chất lượng cao. Nhưng các trường phổ thông bình thường thì không hoặc không đáng kể”.

“4- Vì tiền?”.

Thái Hạo thẳng thắn:” Theo tôi, đây mới là nguyên nhân chính”. Thầy giải thích: “Nếu vì chất lượng, vì sự phát triển của học sinh thì các nhà trường sẽ thực hiện đầy đủ và hiệu quả chương trình Giáo dục Quốc dân”. “Giáo dục Quốc dân”: Như vậy thì đâu cần học thêm, cứ theo chương trình của bộ đưa ra, tự khắc, học sinh sẽ học tốt ở trường.

Thái Hạo dứt khoát: “Bên cạnh đó là ép học sinh học thêm bằng đủ các mánh khóe chiêu trò, như viết đơn tự nguyện, chèn vào giờ chính khóa, đưa tiết chính khóa cài vào buổi học thêm, trả bài chính khóa trong buổi học thêm, phân biệt đối xử, cố tình gây khó dễ bằng điểm số; liên kết với bên ngoài và gắn những cái tên rất kêu như STEM, STEAM, Tin học Quốc tế, Tiếng Anh Bản ngữ, Kỹ năng sống, v.v…”

Thời đại nào cũng có học sinh. Thời đại nào cũng có học thêm. Thời VNCH cũng thế. Học thêm nhẹ nhàng và chưa hề là “vấn nạn” dù thi tú tài thời đó rất “sát phạt”, rất cam go, không kém phần gian khổ. Chỉ có thời nay, sao học thêm lại cần thuốc chữa nhức đầu nhiều như thế.

Wednesday, September 27, 2023

MỘT BỨC ẢNH

Tôi vừa đăng, để thay đổi không khí, một bức ảnh, chụp từ cuốn sách của ký giả Mỹ, Catherine Karnow, tặng cho tôi mấy năm trước. Hình như năm ngoái, trên mạng cũng có ai đăng ảnh này, và status ấy đón nhận hàng trăm lời nhận xét (comment) khác nhau, hầu hết là ‘chống đối’ nhau – giông giống như với bức hình tôi đăng (tuy còm ít hơn).

(Ảnh của Catherine Karnow).

Với câu hỏi, phụ nữ trong ảnh đến từ vùng nào, thì có một số bảo, cô ấy là người miền Nam; số khác cho là người miền Bắc. Tất cả đều không đúng: Cô ta không ở “vùng” nào cả. Nguyễn Phương Anh, một người Mỹ gốc Việt, về Sài Gòn mở quán Q Bar năm 1992 – những năm VN bắt đầu mở cửa mạnh mẽ. Cách ăn bận ‘mát mẻ’, đi xe xịn (thời đó đã sắm Vespa là oai lắm), không bước xuống xe và nắm cổ con gà, thay vì nắm chân dốc ngược, chắc chắn không có người Việt nào ở vùng nào mà như thế. Quan sát nhiều khách đi đường trố mắt nhìn cô gái mua gà, chúng ta thấy ‘sự khác biệt’ giữa một số người Việt Nam với nhau.

Khác biệt là bản chất sự sống. Cuộc sống giống nhau sẽ là ‘sống mòn’, sống như máy, sống ‘không hồn’. Nhưng có một sự khác biệt -dù rất nhỏ đi nữa- dễ dàng gây chia rẽ, đó là ‘khác biệt’ Nam- Bắc. Chiến tranh chấm dứt gần nửa thế kỷ nhưng hậu quả của nó vẫn chưa chấm dứt. Ở đây, xin đơn cử một số còm trong một status ngắn của tôi về một bức ảnh (Tôi xin mạn phép người có comment)