Friday, May 13, 2022

ĐẤT ĐAI THUỘC SỞ HỮU TOÀN DÂN



Bất ổn xã hội mấy chục năm nay phần lớn xuất phát từ đất đai. Cần có cái nhìn thẳng thắn vào vấn đề. Nhưng nhìn như vị phó giáo sư, tiến sĩ này, tôi xin cãi. (“Quảng Nam hay cãi”).
PGS.TS Phạm Hữu Nghị: Luật Đất đai 1993 quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân là dựa vào những căn cứ sau đây:
1. Căn cứ chính trị: Nước ta có được vốn đất đai quý báu như ngày nay là do xương máu, mồ hôi của rất nhiều thế hệ người Việt Nam trải qua hàng mấy ngàn năm tạo lập nên. Bởi vậy đất đai không thể thuộc sở hữu của riêng cá nhân mà phải thuộc về toàn thể nhân dân Việt Nam.
- Xin cãi: Vậy, nước Mỹ chẳng đổ xương máu nhưng vẫn có được Alaska (mua của Nga), vậy tiểu bang này thuộc sở hữu gì? Hiến pháp VN năm 1946, 1959 quy định có nhiều chế độ sở hữu đất đai, vậy chủ tịch Hồ Chí Minh và các vị cộng sản tiền bối không có tầm nhìn để thấy ra “đất đai thuộc sở hữu toàn dân”?
2.Căn cứ tư tưởng: Việt Nam xây dựng đất nước theo hệ tư tưởng Mác - Lênin. Trong hệ tư tưởng của các nhà kinh điển có tư tưởng về xã hội hóa đất đai, quốc hữu hóa đất đai nhằm tiêu diệt cơ sở kinh tế của chế độ người bóc lột người. Tuyên bố đất đai thuộc sở hữu toàn dân là một phương thức thực hiện xã hội hóa đất đai.
- Xin cãi: Nếu theo đúng hệ tư tưởng Mác-Lênin, “quốc hữu hóa đất đai nhằm tiêu diệt cơ sở kinh tế của chế độ người bóc lột người” thì tại sao không quốc hữu hóa (luôn thể) các tư liệu sản xuất (máy móc, cơ xưởng... của các công ty, tập đoàn) để các nhà tư bản, tư sản không thể bóc lột giai cấp lao động Việt Nam?
3. Căn cứ kinh tế: Cần xây dựng nền kinh tế lớn xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Chế độ sở hữu toàn dân về đất đai tạo điều kiện thuận lợi cho xây dựng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất để thực hiện sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
-Xin cãi: Những nước như Mỹ, Nga, Anh…không có chế độ sở hữu toàn dân về đất đai sẽ không có điều kiện thuận lợi để xây dựng quy hoạch? Nếu tôi không lầm, đế quốc Mỹ có cơ sở hạ tầng hùng vĩ nhất thế giới. Họ “bó tay” hàng trăm năm nay vì không dễ dàng gì mà “giải phóng mặt bằng?”
4.Căn cứ lịch sử: Trừ vùng đất Nam bộ ra, các vùng đất khác ở Việt Nam có truyền thống đất công. Chế độ sở hữu toàn dân về đất đai là tiếp nối truyền thống đất công của cha ông.
- Xin cãi: Nói tới công thổ thì chỉ nói tới Bắc bộ và “loại” Nam bộ ra trong khi "nước VN là một" . Vậy Nam bộ (từ lúc hình thành cho tới năm 1975) chẳng “tiếp nối truyền thống đất công của cha ông” (cái con mẹ gì sất)?
5.Từ kinh nghiệm của Liên Xô: Năm 1978, Liên Xô thông qua hiến pháp mới - Hiến pháp 1978. Bản hiến pháp này tuyên bố: Liên Xô chuyển sang chủ nghĩa xã hội phát triển, đất đai thuộc sở hữu toàn dân. Có ý kiến cho rằng trong điều kiện kinh tế thị trường cần đa dạng các hình thức sở hữu đất đai. Tuy nhiên, để bảo đảm sự ổn định trong quan hệ kinh tế, quan hệ xã hội và quan hệ chính trị, hiến pháp hiện hành - Hiến pháp 2013 vẫn khẳng định: Đất đai thuộc sở hữu toàn dân.
-Xin cãi: Dẫn chứng phải thuyết phục bởi tính chân lý. Ai lại dẫn hiến pháp (“ngủm củ tỏi” năm 1990) của Liên Xô ra để làm “kim chỉ nam” bao giờ? Điểm này, nếu nằm trong bài luận văn lớp 12, sẽ bị cô giáo phê “lạc đề” (là cái chắc).

Thursday, May 12, 2022

NGƯỜI VIỆT:TỰ TÔN HAY TỰ TI?



(Có người còn “thần tượng” Liên Xô - họ lại nhầm lẫn với Nga - tôi xin đăng bài năm ngoái trên Facebook cá nhân, có xuất hiện trên Sài Gòn Nhỏ, Mỹ, ngày 28 tháng 3 năm 2021, thời điểm VN được thế giới ca ngợi về việc chống đại dịch Covid-19, số liệu về tình hình dịch bịnh, do đó, rất khác về sau)
Cách đây non 100 năm, cụ Phan Châu Trinh nhận xét: “Dân tộc nước Nam, trên lịch sử, có hai đặc tính cực đoan phản đối nhau: một là đặc tính bài ngoại và ỷ ngoại; hai là đặc tính tự tôn và tự ti. Hai đặc tính đó sẵn ở quốc dân, trong não mọi người”.
Tự tôn là đặc tính dễ thấy nhất trong “thời đại Hồ Chí Minh”. “Ra ngõ gặp anh hùng”. Việt Nam là nước nhỏ nhưng có vinh dự lớn là “đánh thắng hai đế quốc to” – Pháp và Mỹ. Có năm “bác” nằm trong Hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc thì ba “bác” đã bị ta “uýnh” te tua. “Chưa bao giờ trong lịch sử dân tộc, Việt Nam ta rực rỡ như ngày hôm nay” – một ông gì đã nói như thế. Khi dịch Covid làm đảo điên thế giới, Việt Nam thành quốc gia nổi tiếng, đứng thứ nhì – sau New Zealand trong dập dịch – theo đánh giá của Viện Lowy (Úc). Nhiều người Việt ở nước ngoài chạy về quê hương trốn… dịch, ngay cả đang học hành hay làm ăn ở các nước có nền y tế tiên tiến nhất nhì thế giới.
Có người nói rằng, thành công Việt Nam nhờ sự ưu việt của thể chế. Chắc chắn cách thức theo dõi, ngăn chặn, khống chế, thậm chí “phong tỏa” (lockdown) ở Việt Nam sẽ không thể thành công nếu có thể chế như Hoa Kỳ, nơi mà việc đeo khẩu trang, giữ khoảng cách, hạn chế đi lại… bị nhiều người phản đối ở rất nhiều bang. Số người Việt Nam chết vì Covid chỉ là hạt cát so với số người chết ở Mỹ, với hơn nửa triệu người, “đội sổ” thế giới. So với Trung Quốc, Hoa Kỳ như “chìm ngập” trong dịch bệnh. Không ít người kết luận như “đinh đóng cột”: chính thể chế (toàn trị) của Trung Quốc ưu việt hơn thể chế dân chủ Mỹ.
Kết luận như thế là phiến diện. Trong 10 nước dẫn đầu thế giới về khống chế dịch bệnh (theo thứ tự từ cao xuống thấp) – New Zealand, Việt Nam, Đài Loan, Thái Lan, Cyprus, Rwanda, Iceland, Úc, Latvia, và Sri Lanka – có mấy nước theo chế độ toàn trị? Toàn trị không phải là nguyên do chính của việc thành công kiểm soát dịch bệnh. Nhân câu chuyện này để nói câu chuyện khác. Khi thấy Trung Quốc thành công mở cửa cải cách, sắp đuổi kịp Mỹ, trở thành quốc gia có nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, nhiều người ở Việt Nam, có lẽ rõ nét ở một số người cầm quyền đã tin rằng hình mẫu thể chế quyết định tương lai. Trung Quốc thành công, Việt Nam cũng thành công.
Mô hình dân chủ Mỹ “bệ rạc” trong mùa bầu cử tổng thống 2020. Thiên tài như Donald Trump mà còn bị ông già lẩm cẩm Joe Biden “ăn gian” phiếu, cướp mất ngôi vị lẽ ra nằm trong tay của ông tóc vàng. Tòa cao, tòa thấp…, tất tần tật đều “ngậm tiền” xử ép người dám thách thức Tập Cận Bình, dám gọi coronavirus là “China virus”. Báo chí – quyền lực thứ tư (sau lập pháp, hành pháp, tư pháp) – trở thành fakenews dưới mắt một số người Mỹ lẫn người Việt. Thể chế chính trị Trung Quốc nên là khuôn mẫu điển hình? Ổn định. Chỉ cần một buổi họp “cơ cấu”, mọi chuyện êm xuôi. Trong khi đó, tổ chức tranh cử kiểu Mỹ, từ nội bộ đảng, rồi ngoài đảng, với cả Dân chủ lẫn Cộng hòa, vừa tốn kém, vừa rối loạn. Chưa kể xém chút thì biểu tượng dân chủ nhất thế giới – Điện Capitol – chìm trong vỡ vụn.
Trung Quốc mạnh nhờ thể chế toàn trị? Không. Tôi không nghĩ như thế. Nếu mạnh nhất về toàn trị phải kể đến Bắc Triều Tiên. Một đất nước mà ba đời một dòng họ độc quyền cai trị. Nếu nhờ thể chế độc tài để thành công thì thể chế “dân chủ” như Nam Hàn phải thất bại thảm thiết, tới gạo cũng mong cứu đói? Nói gì nói, vai trò của thế giới tự do – đứng đầu là chú Sam – vẫn quan trọng. Có thật sự vai trò dẫn đầu của Mỹ sẽ bị đe dọa lấy mất? Không. Tôi cho là không.
Trong khi Mỹ đưa phi thuyền lên Hỏa tinh thành công sau bảy tháng bay trong không gian, Trung Quốc mới đặt mục tiêu nghiên cứu lên Mặt trăng. Trong khi Bắc Kinh mua “ve chai” chiếc Varyag của Ukraine để bắt chước chế tạo hàng không mẫu hạm thì Washington sở hữu hàng chục chiếc từ “thời Bảo Đại”. Huawei khoe khoang khống chế thị trường thông tin công nghệ thế giới thì chỉ cần một chữ ký của Trump, tập đoàn khổng lồ này lính quýnh, làm ăn gần như bế tắc. Công nghệ ăn cắp làm sao bằng công nghệ sáng chế?
Đầu máy bay phản lực, rồi chip cho hàng điện tử cao cấp…, Trung Quốc đã có thể hoàn toàn làm chủ công nghệ được chưa? Trung Quốc đứng thứ hai về kinh tế nhưng mỗi người dân Trung Quốc thu nhập đầu người đứng ở đâu trong xếp hạng mức sống người dân? Chẳng qua “đông cây sây buồng”, tiền lẽ ra được chi cho phúc lợi người dân thì họ lấy đem chi cho tham vọng “bá chủ” thế giới qua “Một vành đai, một con đường” đầy ảo vọng. Sự phát triển thần kỳ của Trung Quốc không hẳn do họ có thể chế tốt với mô hình “toàn trị”. Trung Quốc thật ra không… toàn trị. Việt Nam “độc đảng” chứ Trung Quốc “đa đảng”. Ngoài Đảng Cộng sản, Trung Quốc còn có đảng Đài Loan dân chủ tự trị, Hội nghiên cứu Cửu Tam, Đảng Trí Công, Đảng Công nông dân chủ Trung Quốc, Hội Xúc tiến dân chủ Trung Quốc, Hội Xây dựng dân chủ Trung Quốc, Đảng Dân Minh, Ủy ban cách mạng Trung Quốc của Quốc dân đảng. Tôi chưa kể Trung Quốc còn có mô hình “một nước hai thể chế’ (one country, two systems) đối với Hong Kong (tuy sẽ thay đổi).
Thật ra đầu óc người Hoa chứ không phải thể chế đã giúp Trung Quốc đi từ một nước nghèo, lạc hậu, chỉ trong vòng 30 năm, trở thành cường quốc kinh tế. Khi Mao Trạch Đông mời phái đoàn bóng bàn Mỹ đến Bắc Kinh là lúc Trung Hoa cộng sản bắt đầu một bước ngoặc quan trọng: tách khỏi khối XHCN để bắt tay với đế quốc, đứng đầu là đế quốc Mỹ. Có lãnh tụ cộng sản nào trên thế giới dám đi với kẻ thù tư bản mà ông tổ Karl Marx đòi “đào mồ chôn” hay không? Có người nào suốt đời theo lý tưởng đánh đổ giai cấp bóc lột lại “liên minh” với giai cấp bóc lột mình? Có quốc gia nào gần một tỷ dân nhưng vẫn không dùng vũ lực để lấy lại hai lãnh thổ nhỏ còn hơn móng tay là Hong Kong và Macau, nằm ngay trên đất của mình? Bắc Kinh đâu có tử tế gì. Đây là cửa ngõ “nhìn ra thế giới” mà Mao Trạch Đông vẫn để cho bọn “đế quốc” cai quản. Ông ta sợ không dám lấy lại ư? Vậy, mục đích là gì? Là cái mà Đặng Tiểu Bình thực hiện sau này: “Mèo trắng, mèo đen đều tốt, miễn bắt được chuột”.
Thể chế hay con người giúp người Hoa thành công khắp nơi trên thế giới, nhất là trong việc buôn bán làm ăn? Người Hoa ở Đài Loan và người Hoa ở Bắc Kinh, người Hoa nào giàu có, văn minh hơn? Nền kinh tế Singapore và Malaysia không có đóng góp của bàn tay người Hoa sao? Người Hoa ở Chợ Lớn trước năm 1975 (và có thể cả hiện nay) chi phối thế nào đến nền kinh tế thịnh vượng một thời của VNCH? Nếu còn nhớ, quí vị sẽ thấy rằng hầu hết phi công làm việc cho Hãng hàng không Sài Gòn–Air Vietnam đều là người Đài Loan (lái máy bay tối tân Boeing).
Trở lại với chuyện người Việt. Trên khắp thế giới, kể cả Mỹ, có nhiều “Phố Tàu” hay nhiều “Viet Town”? Tôi xin dẫn nhận xét của Viện Nghiên Cứu Xã Hội Học Hoa Kỳ (American Institute for Social Research), từ bài viết của Trần Kinh Nghị. Xin trích như sau.
Về người Việt:
1- Cần cù lao động nhưng dễ thỏa mãn.
2- Thông minh, sáng tạo khi phải đối phó với những khó khăn ngắn hạn, nhưng thiếu khả năng suy tư dài hạn và linh hoạt.
3- Khéo léo nhưng ít quan tâm đến sự hoàn thiện cuối cùng các thành phẩm của mình.
4- Vừa thực tế vừa có lý tưởng, nhưng không phát huy được xu hướng nào thành nguyên lý.
5- Yêu thích kiến thức và hiểu biết nhanh, nhưng ít khi học sự việc từ đầu đến cuối, nên kiến thức không có hệ thống hay căn bản. Ngoài ra, người Việt không học vì lợi ích của kiến thức (lúc nhỏ học vì gia đình, lớn lên học vì sĩ diện hay chỉ vì muốn làm việc tốt có lương bổng cao) [when small, they study because of their families; growing up, they study for the sake of prestige or good jobs].
6- Cởi mở và hiếu khách nhưng sự hiếu khách của họ không kéo dài.
7- Tiết kiệm, nhưng nhiều khi hoang phí vì những mục tiêu vô nghĩa (vì sĩ diện hay muốn phô trương) [to save face or to show off].
8- Có tinh thần đoàn kết và giúp đỡ nhau chủ yếu trong những tình huống khó khăn và nghèo đói, còn trong điều kiện tốt hơn, đặc tính này ít khi có.
9- Yêu hòa bình và có thể chịu đựng mọi thứ, nhưng thường không thẳng thắn vì những lý do lặt vặt, vì thế hy sinh những mục tiêu quan trọng vì lợi ích những mục tiêu nhỏ.
10- Và sau cùng, thích tụ tập nhưng thiếu nối kết để tạo sức mạnh (một người có thể hoàn thành một nhiệm vụ xuất sắc; hai người làm thì kém, ba người làm thì hỏng việc) [one person can complete a task excellently; two people do it poorly, and three people make a mess of it].
Về người Hoa:
1- Cần cù, việc gì cũng làm.
2- Tiết kiệm, không sống khoe khoang hay xa hoa.
3- Khởi sự từ buôn bán nhỏ.
4- Đơn vị kinh tế gia đình: Gia trưởng đóng vai trò quan trọng. Tài sản có thể truyền từ đời nọ sang đời kia.
5- Hình thành những xí nghiệp không theo một hình thức chặt chẽ, không theo những quy luật nhất định, tất cả đều dựa vào chữ TÍN.
6- Không làm những công việc có tính cách phức tạp hay quá to lớn, chỉ thích kinh doanh những lãnh vực đơn giản. Khi cần làm ăn lớn thường chia ra làm nhiều công ty con.
7- Móc nối với chính quyền và cá nhân khác rất giỏi. Không tham gia chính quyền hay đảng phái nào, nhưng thường nắm được các nhân vật có địa vị quan trọng có thể bao che hay hỗ trợ cho làm ăn.
(Tại Indonesia, người Hoa chỉ chiếm từ 3-4% dân số nhưng làm chủ 70% tài sản ở đất nước này với khoảng 160 trong số 200 xí nghiệp lớn của Indonesia. Gia đình ông Liem Sioe Liong làm chủ xí nghiệp Salim với số vốn khoảng 9 tỷ USD, nhờ quen biết lớn với Suharto).
8- Không thích tranh tụng, kiện cáo. Thường tìm cách dàn xếp mỗi khi có đụng chạm hay bị bắt vì vi phạm luật pháp.
9- Phạm vi hoạt động gần như không biên giới.
10- Thích ứng rất nhanh với biến đổi thời cuộc.
(Hết trích)
Có thể quí vị không hoàn toàn nhất trí về nhận xét của người Mỹ nhưng tôi tin quí vị đều thấy đặc điểm nổi trội của người Hoa: họ rất thực tế. Điểm này khá giống người Mỹ. Biết đâu, tính thực tiễn này có thể khiến người Mỹ đặt hy vọng vào Trung Quốc mấy chục năm kể từ thời Nixon? Và chỉ sau sự kiện Thiên An Môn năm 1989 thì người Mỹ mới ớ ra “bé cái nhầm” người Tàu.
Nhà văn Lâm Ngữ Đường (Trung Hoa) từng nhắc câu “châm ngôn” của nước ông: “Đường đi đến trái tim gần nhất là đường đi qua bao tử”. Thành công của Trung Quốc hiện nay, tôi nghĩ, có lẽ được áp dụng theo “triết lý” này. Những ai còn mơ hồ nên bỏ đi tư duy: nhờ thể chế, nhờ chủ nghĩa cộng sản, Trung Quốc mới trở thành cường quốc. Nếu vậy, Bắc kinh không xuất khẩu Viện Khổng Tử mà sẽ xuất khẩu Viện nghiên cứu Marx-Lenin ra khắp thế giới. Giới thiệu cái “lý tưởng” (mà Việt Nam đang theo đuổi) ra các quốc gia tư bản thì có nước mà… đói dập mỏ. Dù sao, “con đường đi qua bao tử” cũng chưa phải là quyết định sự lớn mạnh của nền kinh tế Trung Quốc, mà chính là “bộ óc” Trung Hoa.
Có một ấp trưởng hay một hiệu trưởng tiểu học ở Việt Nam là một Việt kiều “yêu nước”? Có một trưởng phòng giáo dục nào giao cho một “núm ruột” trong hàng triệu núm ruột, mỗi năm đóng góp cho kinh tế Việt Nam hàng chục tỷ đôla? Vậy mà, ở Trung Quốc, một người Hoa từ nước Đức, không đảng viên, lại “được bố trí” làm bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ ngày 27 tháng 4 năm 2007 (thời Thủ tướng Chu Dung Cơ). Ở Việt Nam, 90 đến 95% đại biểu Quốc hội (đại diện cho dân) phải là đảng viên. Giao chức bộ trưởng cho “thằng” Việt kiều nào có mà… mất ngủ, mất ăn.
Kết luận: con người (ở đây là bộ óc – có thể gọi là tầm nhìn) chứ không phải thể chế quyết định tương lai một dân tộc (tất nhiên thể chế là do con người tạo ra). Bắt chước người mà không hiểu người, nếu ở đây là bắt chước mọi cái của Trung Quốc, Việt Nam vẫn không thoát khỏi tâm thế mà 100 năm trước Phan Châu Trinh nói tới: hoặc vì tự tôn hoặc vì tự ti. Cả hai đều nguy hại như nhau. Không tự tôn mà cũng không tự ti, đó là cái mọi người Việt Nam đang cần. Hóa ra cụ Phan nên “sống mãi” trong “sự nghiệp tư duy” của những người Việt Nam thật tâm yêu mến đất nước này…

Monday, May 9, 2022

HÓI DỪA


Hói (Lăng Cô) giông giống hóc (Thường Đức- quê tôi): vùng đất sát chân núi, có cồn, có suối, có cây, rất heo hút (có thành ngữ “hóc bò tó”). Dừa ở vùng này không còn nhưng tên vẫn giữ. Dừa mất nhưng đá vẫn còn nên mới có nhà thờ Đá và suối Đá. Đá của nhà thờ do con người tạo ra nhưng đá của suối là của thiên nhiên.

Thiên nhiên thường biến dạng theo ý muốn con người. Ý muốn trí tuệ kèm theo, thiên nhiên càng xinh đẹp. Suối Đá ở Hói Dừa không đẹp nhưng còn giữ nét hoang sơ nhờ con người vừa trí tuệ vừa yêu mến thiên nhiên. Vị linh mục nhà thờ Đá (đã rời giáo xứ) biến suối Đá trở thành nơi du lịch sinh thái. Suối có hai bờ rộng chừng 30 mét, ở giữa, nước chảy xiết theo triền dốc, có chỗ len lỏi, có chỗ dội thẳng vào tảng đá to, có chỗ tạo thành thác, nước bắn tung toé. Nước từ đỉnh đèo Hải Vân đổ xuống nên rất mát và rất trong. Có sáu hộ “khai thác” lòng suối qua “bốc sũng” (bắt thăm) có giám sát của các giáo dân xứ đạo. Mùa du lịch bắt đầu từ tháng giêng đến đầu tháng 9. Mấy tháng còn lại, các chủ hộ phải dỡ nhà tạm và sàn gỗ có mái che ngang qua suối vì mưa, lũ. Nhà sàn này trông giống chùa Cầu, Hội An. Giữa các nhà dọc theo suối nước chảy xiết này là các “hồ tắm”. Có chỗ nông, có chỗ sâu. Khách có thể ngồi trên sàn bỏ chân xuống suối hoặc ngâm mình trong dòng nước mát lạnh. Đùa giỡn với bọt nước tung toé, đùa giỡn với nhau, trong tiếng cười sảng khoái, khách có thể vói tay lên sàn cầm lấy lon bia hay thức nhắm làm theo khẩu vị đặc biệt của người địa phương Lăng Cô.
Cá chình nướng nghệ. Gà “đi bộ” kho sả ớt, gà nướng, ở đâu cũng có, nhưng không có cái đặc trưng qua bàn tay giản dị của người dân ở đây. Nếu chạy xe máy đang lúng túng hỏi đường, khách sẽ thấy có người tiến lại ngay. Họ sẽ không chèo kéo đâu. Họ chỉ đường cặn kẽ cho bạn, giọng nửa Quảng, nửa Huế rất chân tình.
Ở xứ sở của những người chân chất, cảnh vật hoang sơ, dịch vụ du lịch có thể còn thiếu thốn nhưng khách cảm thấy hài lòng, không có cảm giác “chặt chém”, ra về, trong tâm trí hiện ra ý muốn sẽ trở lại chốn này lần nữa. Tôi cũng như thế. Ba năm mới trở lại dây. Ăn bát cơm, tô canh, thịt gà kho…sau khi tắm mát, nằm nghỉ trưa trên chiếc chiếu, chìm vào giấc ngủ lúc nào không hay, tiếng rì rào của dòng suối êm ái như tiếng ru của mẹ thuở mình nằm nôi. Ngủ trong khách sạn sang trọng, tôi không thấy an bình như ở đây, bên dòng nước suối thiên nhiên, giấc ngủ an hoà, như mơ màng, thiên nhiên trong tôi hay tôi trong thiên nhiên.
Cô chủ tầm 45 không đẹp lắm nhưng có nước da trắng, nụ cười hồn hậu, giọng Huế ấm áp. Cám ơn cô và cám ơn suối Đá. Hẹn ngày gặp lại. See you again.
Ghi chú: Từ Đà Nẵng ra, gần đầu cầu Lăng Cô, bên trái, con đường nhựa chạy quanh chân núi, bên phải là đầm nước rộng mênh mông, chừng 3 km quý vị sẽ thấy bảng nhà thờ Đá. Từ đây, vào chừng 2 km đường, khúc rải nhựa, khúc đất núi, khách sẽ thấy suối Đá. Xe hơi vào tận nơi.

Wednesday, May 4, 2022

QUÊ NHÀ



Quê tôi tên Thường Đức. Các bác ở Bắc vào lập đài chiến thắng ghi thành Thượng Đức. Trên khắp nước VN, không có nơi nào lập một lúc 2 tượng đài chiến thắng như ở quê tôi. Số liệt sĩ hy sinh để đánh chiếm quận lỵ Thường Đức gần 1000 (năm 1974). Sự khốc liệt của chiến tranh làm quê tôi hoàn toàn kiệt quệ khi hòa bình lập lại - 1975.
Gần 50 năm sau, quê tôi, thật đáng mừng, đang trở thành điểm đến của du khách. Khu du lịch sinh thái Cổng Trời khai trương ngày 29 tháng 4 có số lượng khách tham quan rất đông với giá vé 200, 400 ngàn(bao ăn buffet)/người chứng tỏ tiềm năng du lịch của một vùng quê từng là nơi khói lửa, đạn bom.
Trên đường đến Cổng Trời chừng 29 km là điểm du lịch sinh thái Sông Cùng, nằm trên quốc lộ 14 (cũ).
Từ quốc lộ vào Sông Cùng đúng 2km. Có khoảng 400 mét chưa đổ bê tông nhưng xe con vẫn vào được. Khe suối nước trong veo, mát lạnh, có chỗ nước sâu hơn 2 mét dành cho ai biết bơi. Các chỗ khác nước cạn hơn, trong lòng suối cát, thi thoảng thấy cá con bơi lội tung tăng.
Hai bên suối là cây cối chằng chịt dây leo, xanh ngát, mọc trên dốc đá dựng đứng. Có chỗ trồng những cây mít ta mùa này đang cho quả. Khu sinh thái đang gầy dựng với các cây cảnh thật to được đưa tới. Bên hai nhà hàng lợp ngói đỏ là các cây trao, có cây rất lớn, cả người ôm không hết vòng tay.
Vì mới đưa vào khai thác nên Sông Cùng còn giữ nét hoang sơ. Đây chính là sự thu hút và đặc trưng của du lịch sinh thái. Tắm suối, nghe chim hót đâu đó trên các cành cây cao, tiếng suối róc rách, khách nằm ngửa nhìn lên bầu trời trong xanh, thiên nhiên và con người trở nên một.
Chiến tranh chìm vào dĩ vãng. Thanh bình đang hiện ra ở làng quê có khu du lịch Sông Cùng. Làng Hà Dục Đông quê tôi có lẽ sẽ đem lại cho du khách một cảm giác thư thái qua một ngày hoà mình vào dòng suối mát. Nếu khách muốn câu cá thì gần đó có Bàu Quyền, nơi nổi tiếng một thời có cá thần xuất hiện, chính quyền quận lỵ Thường Đức cho đặt hàng trăm ký thuốc nổ để giết cá thần nhưng nó không chết. Sau đúng 3 tháng 10 ngày, không ai còn thấy “cá thần “ xuất hiện khi tổng thống Ngo Đinh Diêm bị giết chết cuối 1963 (xin kể chi tiết một dịp khác).
Thường Đức có du lịch sinh thái yên bình bên tượng đài chiến tranh.
(Bảng ghi điểm đến khu du lịch bị mờ, quý vị có thể lấy đích đến nhờ bảng ghi tên chùa Bình An)

Friday, April 29, 2022

TRÁI ĐẤT NÀY LÀ CỦA CHÚNG MÌNH?




Trên đường đi đến khu du lịch sinh thái Cổng Trời ở rừng núi phía Tây tỉnh Quảng Nam (khai trương hôm nay, 200 ngàn/ người khách; có ăn buffet thì 400 ngàn/ người) quý vị sẽ thấy bảng chỉ dẫn đường vào khu Suối Xanh, cách quốc lộ 14 (cũ) đúng 1000 mét. Từ Đà Nẵng vào chừng 30 km.
Đặc điểm khu Suối Xanh là nước tắm rất mát, rất trong, nguồn nước suối trên cao đổ về và lòng suối tôn tạo như hồ bơi nhỏ, nền hồ được rải cát; khi tắm không có lớp bùn dưới đáy dậy lên làm vẩn đục nước như các hồ tắm ngăn suối ở khu du lịch Lái Thiêu (núi Thần Tài,Đa Nẵng)Tất nhiên Suối Xanh không thể sánh Lái Thiêu về quy mô vì nó là công trình của một nông dân 70 tuổi đầu tư 30 năm nay. Khi vào đây buổi sáng, tôi thấy ông đang chở đá cục bằng xe “cánh én” để kè bờ ngăn suối làm hồ bơi. Tại khu rừng này, ông Xanh (tên gọi cho Suối Xanh) trồng các loại cây ăn trái như mít, lòn bon (đã cho trái) vú sữa, xen kẽ với các loại cây rừng như dái ngựa (xà cừ), ươi…
Dưới tán cây xanh, bên dòng suối chảy xiết, đổ vào các hồ nhân tạo, các du khách, kẻ đang tắm, người lúi húi nướng gà trên lửa than đỏ nổ lách tách bắt nhịp với tiếng nói chuyện rôm rả, rổn rảng các tràng cười của các anh chị đang đưa cao lon bia, hồ hởi “zô zô”.
Ông chủ Suối Xanh cho biết đích thân ông đi dọn lá cây rừng đọng dưới đáy hồ mỗi ngày để giữ cho làn nước suối trong như kính. Ông nhắc nhở khách có thể ăn mít khi đã chín nhưng đừng hái khi trái còn xanh. Một vài nơi đất tốt, ông còn trồng lá lốt cho “khách hái quấn vào thịt, nướng”. Có một vài chỗ gắn bảng trên thân cây lớn “hãy cho tôi rác”. Đây là câu viết trên những thùng rác đúc bằng xi măng có hình gốc cây trước 1975. Nay là các giỏ nhựa lớn chứa đầy vỏ lon bia, nước ngọt, nước lọc. Ông chủ trên 70 mà! Và từng sống dưới chế độ VNCH. Tuy còn khắc khổ vì nghèo nhưng ông Xanh muốn chỗ ông gầy dựng phải xanh, sạch, mát. “Khi cây này cho trái, có lẽ tôi không còn sống “. Ông nói rồi đưa tay ra cầm lấy cây ươi mới trồng vài năm, cao quá đầu; tôi ngạc nhiên khi thấy gương mặt ông không buồn mà rất rạng rỡ. “Người ăn ươi sẽ nhắc tên tôi “cây này ông Xanh trồng”.
Tấm lòng người nông dân này thật quãng đại. Ông không đủ tiền đầu tư để bán vé như khu du lịch sinh thái Sun Group đang khai trương Cổng Trời hoành tráng, hùng vĩ.
“Anh nhặt từng cục đá, cạy rất nhiều tảng đá, ngăn suối dẫn nước theo ý muốn, hơn 30 năm cặm cụi một mình, nhiều người gọi “ông khùng”, để tạo chỗ cho người ta đến tắm, tận hưởng khung cảnh thiên nhiên; anh thu nhập bằng gì?”.
“Tuỳ hỉ”. Đây là hai chữ người Quảng hay dùng, thay cho câu “tuỳ lòng hảo tâm “ của du khách. Anh cười: “Trước đây, tôi có làm cái thùng đựng tiền “tuỳ hỉ”, khách bỏ tiền vào- bao nhiêu cũng được”. Chỉ vào cái hộp thiết dập nát, anh cười “kẻ xấu rình đập banh lấy mất số tiền cả mùa du lịch đó anh”. Nay, ai “tuỳ hỉ” thì đưa trực tiếp; ai quên, hay không đưa, cũng chẳng có răng (có sao)”; anh cười móm mém, hàm răng còn lại mấy chiếc.
“Mấy đứa ni vui là tui vui”. Ông vừa cười vừa chỉ những cậu bé, cô bé học sinh đang bơi đùa dưới hồ nước trong veo, thấy rõ lớp cát dưới đáy”.
“Trái đất này là của chúng mình “ có lẽ chỉ đúng với ông nông dân này. Có nhiều “phần của trái đất “ ở VN “không phải của chúng mình”. Một lần tôi chạy xe máy sâu vào nơi người ta đang làm khu nghỉ dưỡng sinh thái, một bảo vệ chạy ra la to rồi đuổi tôi tới tấp; “chỗ này không phải nhà ông đâu nhá; mù hay sao mà không trông biển cấm?”. Một kỷ niệm buồn cách đây 3 năm ở một khu rừng thông Đà Lạt. Người bảo vệ tuổi chưa bằng con út của tôi.

Tuesday, April 19, 2022

NHỮNG HẠT GẠO TRẮNG (Về quê nhớ lại)



Trưa hè oi bức, mặt trời đứng bóng, không khí dính chặt, tiếng kêu của một loài chim, ai oán vang lên, “bắt con trói cột” (*). Ban đầu nghe rất rõ cái tiếng kêu thảng thốt, sau đó nhỏ dần, thưa dần nhưng không mất hẳn. Tiếng kêu văng vẳng rồi lặng vào những đám mây trắng xóa trên cao. Không gian ngột ngạt vẫn nấn ná âm thanh như nuối tiếc, như thở than của một loài chim chưa ai biết tên, và cũng chưa ai nhìn thấy nó tỏ tường.
Trên bầu trời xanh vô tận, những đám mây trắng ngưng đọng, một điểm nhỏ như chấm mực di chuyển: con chim đang bay, kéo theo cái âm thanh não nuột “bắt con trói cột”, tiếng kêu này nối tiếp tiếng kêu kia, vang vọng một vùng quê tĩnh mịch. Dân làng thường nghe kể, con chim có tiếng kêu thê thiết ấy là oan hồn của một bé gái chết cháy trong một cơn hỏa hoạn khi cha mẹ đi vào núi đốt than; than đổi gạo, độ nhựt cho một gia đình nghèo khó thuở xưa.
Khi còn nhỏ chừng bảy tám tuổi, tôi đã nghe tiếng kêu của con chim vô danh này, cũng vào những buổi trưa hè nắng nóng. Bẵng đâu mấy chục năm rời xa quê hương, tôi không có dịp nghe tiếng kêu của loài chim, chỉ thấy bay, không thấy đậu. Và cũng vào những buổi trưa hè những năm gần đây, tiếng kêu “bắt con trói cột” lại hiện về. Tiếng chim nhắc tôi nhớ những kỷ niệm thời thơ ấu khi quê hương chưa chìm trong tiếng súng.
Quê tôi là vùng nông nghiệp, đất đai màu mỡ. Nhờ đất rộng người thưa, chưa bao giờ người nông dân biết đến cái đói và cũng chưa bao giờ họ lo lắng thiếu ăn. Gia đình tôi thuộc hạng khá giả. Nhưng có một năm, tôi không nhớ rõ năm nào, nhà tôi không có gạo ăn. Cha tôi bán tất cả số lúa dự trữ để đi về Hội An chữa bệnh liệt hai chân do thoái hóa cột sống. Lúa trong nhà không còn; cha tôi dự tính cả nhà gồm mẹ, chị, và tôi sẽ dựa vào số lúa sắp thu hoạch vào vụ xuân hè. Nhưng vụ lúa ấy mất trắng, không phải chỉ mỗi gia đình tôi, mà tất cả các hộ trong làng.
Những cánh đồng đỏ rực khi lúa đang làm đòng; đỏ như có ai đốt cháy. Chỉ có hộ không sống bằng nghề nông mới có thể không đói. Đó là nhà của hai đứa bạn tôi. Một buôn bán tạp hóa và một sống nghề cắt tóc, khá thư thả. Hồi ấy, hai ba làng mới có một tiệm hớt tóc.
Trong một lần ra sông tắm, chúng tôi ba đứa trông thấy một con gà nhỏ, mớm đuôi tôm, bằng nắm tay người lớn, đi lạc loài trên bãi cát rộng ven sông. Nó cất tiếng kêu gọi mẹ hay gọi bầy; tiếng kêu khẩn thiết không khác tiếng kêu của con chim “bắt con trói cột” nhưng nhặt hơn, gấp gáp hơn, van nài hơn. Ba chúng tôi vây nó lại. Chẳng mấy chốc, một trong ba đứa tóm được nó. Thay vì tắm, chúng tôi trở về nhà; tôi giữ con gà tội nghiệp ấy, nó không ngừng kêu chíp chíp trong đôi tay nhỏ bé của mình.
Hai đứa bạn “con nhà không làm nông” kia cung cấp “lương thực” cho tôi, người phụ trách nuôi con gà ấy. Nhà chúng nó không làm ruộng nên không góp thóc mà góp gạo. Lần đầu tiên, tôi thấy một loại gạo trắng hạt dài, mười hạt như chục, khác hẳn loại gạo nhà tôi xay ra từ lúa, bằng chiếc cối xay tay và giã cũng bằng tay trong một cối đá to tướng. Gạo màu đỏ nhìn thô ráp, không bóng sáng như gạo của hai thằng bạn mang tới để cho gà ăn.
Năm bảy ngày, khi thấy hết gạo, tôi thông báo cho hai đứa bạn. Thế là khạp đựng gạo của tôi độ đôi ba lít lại đầy. Khi hơn hai tháng, con gà của tôi trông lớn hẳn. Nó cao ráo với đôi chân vàng óng, bộ lông mượt đỏ, không ủ xù, xơ xác như hồi chúng tôi mới bắt về. Yêu gà như Cún, tôi đặt nó tên “Cúc Con”. Cúc Con rất thân thiện với tôi. Cứ mỗi lần đi học về, đang ở đâu đó trong vườn, bằng cách nào không rõ, nó luôn phát hiện ra tôi, và ba chân bốn cẳng, sải đôi cánh như chim, vừa bay vừa chạy về hướng tôi đang bước đến thềm nhà. Thế là nó đứng chờ trong sân. Một nắm gạo vãi ra trước mặt, Cúc Con kêu lên mấy tiếng như cám ơn tôi và cắm cúi mổ những hạt gạo trắng tinh.
Con gà ngày càng lớn, và do đó, số gạo góp của hai bạn tôi nhiều hơn, từ một lon dần dần tăng lên hai lon mỗi tuần mỗi đứa.
Còn bé, cứ đến bữa ăn, tôi ngồi vào bàn mà không hề để ý nồi cơm; mất mùa lúa, tôi vẫn không để ý nồi cơm của ba mẹ con ngày càng ít lại. Tôi đưa chén ra đế xin thêm lần thứ ba thì chị tôi, ngồi gần nồi cơm lắc đầu ái ngại: cơm hết. Các bữa cơm sau đó, số lượng chén giảm xuống. Mỗi người một chén. Chưa bao giờ tôi ăn đói lần nào trong ngôi nhà ngói to năm gian này; ngôi nhà hãnh diện của cha tôi đối với dân làng, đa phần còn ở nhà tranh, vách phên nứa trét cứt trâu. Trong tâm trí mình, tôi cứ nghĩ lý do nhà đói ăn chính là sự vắng mặt của cha tôi. Có ông, tôi nghĩ nhà tôi không bao giờ gặp thảm cảnh như thế.
Nhưng thảm cảnh không phải là cái thiếu ăn.
Số gạo hai bạn tôi góp hằng tuần, mẹ hay chị, tôi không rõ, đã lén lấy bớt bù vào chỗ gạo nấu ăn của gia đình mỗi bữa. Mẹ tôi không muốn tôi đưa chén ra về phía chị trong hai bữa ăn mỗi ngày, mọi khi là ba bữa? Người ăn nhiều hơn gà. Gạo hết nhẵn. Cúc Con của tôi có vẻ buồn bã. Nó không còn đón tôi mỗi lần đi học về. Còn thức ăn đâu mà tìm tới. Tôi lo lắng nó cũng sẽ đói như tôi. Trí óc non nớt hồi ấy không làm tôi an tâm. Gà có thể bươn chải trong vườn để sống nhưng tôi cứ nghĩ mỗi tối khi nhảy lên cây mít bên hè đi ngủ, bụng nó hẳn cũng sẽ cồn cào như bụng tôi, trằn trọc cả đêm vì đói.
Đứa bé như tôi không hiểu nỗi sĩ diện của người lớn ở nhà quê. Có tiếng là khá giả, mẹ tôi thà ăn đói, và không hề than thở với ai; đừng nói đến mượn gạo, mượn thóc của hàng xóm; mà họ cũng đứt bữa vì mất mùa như chúng tôi.
Đến bây giờ gần bước vào tuổi bảy mươi, tôi vẫn ân hận chuyện mình phải giấu chỗ gạo của hai bạn góp cho gà vào một nơi mà không bị mẹ tôi hay chị tôi hay biết sau lần gà hết thức ăn. Ai lại lấy gạo của người ta góp cho gà mà nấu ăn cho mình. Suy nghĩ như thế, chỗ gạo tôi giấu kỹ đã đủ cho Cúc Con mỗi ngày hai lần. Đi ngủ nó sẽ không còn cồn cào đói bụng.
Mất mùa lúa rất lâu mà cha tôi vẫn chưa về. Hai chị em tôi bèn ra bãi bồi ven sông: mót khoai lang rài. Khoai rài là khoai đứt một phần củ sau thu hoạch, nằm sót lại, nứt mầm khỏi mặt đất, có một hay hai lá non tim tím, rất dễ phát hiện.
Vì cả làng đều đói, ai cũng đi đào, khoai rài không dễ tìm. Từ sáng cho đến trưa đứng bóng, hai chị em tôi vất vả vác cuốc dò tìm, đi từ đầu bãi đến cuối bãi, chỉ đào được bốn củ khoai màu trắng, to hơn ngón chân cái người lớn.
Chừa hai củ đem về nhà ghế vào cơm, chị em tôi ăn sống hai củ, sau khi rửa sạch bằng nước sông. Nhai khoai sống có vị ngọt, ban đầu hơi hăng, nhai kỹ, nhai lâu, mùi hăng sẽ dịu, khi nuốt vào bụng, chúng tôi vẫn còn giữ cảm giác ngọt ngọt nơi miệng.
Ánh nắng mặt trời buổi đứng bóng qua trưa càng ngột ngạt. Chị em chúng tôi vác mỗi người một chiếc cuốc đi thơ thẩn thêm một lúc lâu mà vẫn chưa tìm ra một củ khoai rài nào. Trên bầu trời xanh ngút, lơ thơ một vài đám mây trắng, tiếng con chim “bắt con trói cột” vang lên.
Nhìn về hướng tiếng kêu trên bầu trời đầy nắng, chị em tôi thấy một chấm đen di chuyển chầm chậm. Tiếng kêu “bắt con trói cột” rõ dần, như ngập cả không gian. Tiếng kêu nối tiếng kêu trong bầu không khí ngột ngạt oi bức buổi trưa hè. Tôi nghe tiếng kêu có vẻ như não nùng, ai oán.
Khi Cúc Con giao cho hai bạn tôi thì tôi mới không còn lo lắng gạo của họ đóng cho gà ăn không còn bị “mất cắp”. Tôi được chia phần tiền nuôi gà. Nhà tôi có một tuần ăn mỗi người hai chén cơm đầy. Chị tôi không còn lắc đầu khi tôi đưa chén về phía chị để xin chén thứ ba. Rồi cha tôi trở về sau mấy tháng vắng nhà. Với tài xoay xở của ông, gia đình tôi không còn đứt bữa.
Lần đầu tiên về quê thăm chị vào mùa hè oi bức, đứng trầm ngâm trên bãi bồi ven sông trống vắng, tôi bồi hồi xúc động khi nghe lại tiếng kêu của con chim “bắt con trói cột” vang lên từ xa trên bầu trời xanh thẳm. Cha mẹ tôi không còn. Rời nơi chôn nhau cắt rốn mấy chục năm trời, tôi vẫn không quên câu chuyện về những hạt gạo trắng tôi giấu mẹ tôi, chị tôi.
Gió thổi nhẹ trên bãi bồi không còn khoai lang rài. Dòng sông trước mặt tôi, nước vẫn lững lờ trôi. Tiếng kêu của con chim nhỏ dần như nuối tiếc; tiếng kêu đượm vẻ u hoài có chút gì ai oán.
Ghi chú: (*) Có người còn gọi “các quan bó buộc “ để diễn dịch tiếng kêu của con chim này.

Thursday, April 14, 2022

MẤY SUY NGHĨ VỀ HỌP MẶT



(Riêng kính gởi: Anh, chị cựu học sinh TRẦN QUÝ CÁP, HỘI AN,
Niên khóa 1965-1972)
Ngày xưa, cuộc sống cơ cực, người ta thường hay giấu mặt, ít khi chường mặt, nói chi họp mặt. Ngày nay, cuộc sống khá hơn, họp mặt thường xảy ra, có khi “tối mặt” vì: họp mặt đồng hương, họp mặt đồng chí, họp mặt đồng nghiệp, họp mặt đồng môn…
Trong các loại “họp mặt”, họp mặt cựu học sinh có lẽ phổ biến nhất. Ai cũng phải qua thời gian cắp sách đến trường; hầu hết là tiểu học, trung học; một số là đại học hoặc du học sinh. Họp mặt để nhớ lại những kỷ niệm thời thơ ấu, thời thanh thiếu niên, thời đi học. Ý nghĩa xiết bao. Có nhiều bạn 60 năm mới gặp lại. Thấy nụ cười của họ ta mới nhớ tên. Gương mặt có thể gìa đi theo năm tháng nhưng nụ cười thì không, trừ khi cười móm mém, hàm răng “chiếc rụng, chiếc lung lay”.
Ý nghĩa họp mặt ban đầu là gặp gỡ để hàn huyên sau nhiều năm xa cách nhau. Về sau, “gặp nhiều cũng ngán” chuyện hàn huyên cạn dần, có khi mất hẳn. Họp mặt là chuyện “chẳng đặng đừng” vì nể nhau hay tránh mang lấy tiếng “chơi không đẹp”.
Họp mặt trở thành một sự kiện, ở đó, có nhiều sự kiện “ăn theo”. Người ta lập quỹ tương tế; quỹ khuyến học; quỹ tham quan du lịch (nếu bạn học có cuộc sống khá giả hơn). Có những cuộc họp mặt, ý nghĩa chính là hàn huyên tâm sự sau thời gian xa cách (thường là một năm). Nhưng có những cuộc họp mặt để một số người có dịp hãnh diện với đồng môn sự thành đạt của mình trong cuộc sống: thể hiện danh vọng và sự giàu có. Đến với bạn bè cùng lớp, cùng trường, họ như là những ngôi sao sáng của sự thành công.
Nhưng ở đời, đâu có phải ai ai cũng thành công. Có bạn gần thất thập cổ lai hy vẫn còn bươn chải mưu sinh. Họp mặt để bạn học thuở xưa cảm thấy gần gũi lại trở thành xa cách. Ý nghĩa ban đầu của họp mặt dần dần phai nhạt. Đây chính là lý do các cuộc họp mặt cựu học sinh gặp cảnh “đầu voi, đuôi chuột” hay tệ hại hơn, “sớm nở tối tàn”.
Không khí họp mặt của những người qua tuổi sáu mươi lẽ ra năm sau đầm ấm hơn năm trước nếu các lần họp mặt không bị chi phối bởi các lý do chẳng ăn nhập đến họp mặt: lập quỹ này quỹ nọ hay sự xuất hiện như các ngôi sao của một số ít người hãnh tiến.
Chưa kể có những dịp tổ chức họp mặt “hoành tráng” như một đại hội. Suốt thời gian họp mặt, cựu học sinh chỉ ngồi nghe “kính thưa” và “kính thưa”. Có trường hợp, người ta còn mời “cựu” học sinh là quan chức đương nhiệm lên diễn đàn phát biểu. Họ say sưa nói như đang chỉ đạo. Các đồng môn ngồi bên dưới nhìn lên vị cựu học sinh danh giá ấy như là niềm hãnh diện cho một ngôi trường mà họ từng học ở đó!
Họp mặt trở thành một diễn đàn…trang trọng không có chỗ cho “mày tao, mi tớ”. Suốt “đại hội", chẳng ai có thời gian tâm sự một câu gì về tình bạn, tình học trò, tình thầy cô.
Sau các phần “kính thưa” là phần ăn nhậu. Tửu nhập ngôn xuất, ai cũng hồ hởi phát ngôn. Ban đầu là mi nói tau nghe; tau nói mi nghe; sau đó phần ai nấy nói, chẳng biết có ai nghe.
Có cuộc họp mặt biến thành “đại nhạc hội”. Có đàn có hát để cuộc gặp gỡ thêm sinh khí. Nhưng đàn địch, hát hò quá nhiều, âm thanh quá mức làm không khí họp mặt trở nên ngột ngạt. Nhiều bạn ra về có cảm giác vừa bước ra khỏi phòng tra tấn chứ không phải phòng họp mặt. Và năm sau, những cựu học sinh này không còn tên trong những người họp mặt.
Không hiếm cuộc họp mặt cựu học sinh gặp phải tình trạng như thế. Những điều tôi nói ở trên giải thích lý do tại sao các cuộc họp mặt thường ít có trường hợp “năm sau học sinh đi dự nhiều hơn năm trước”.
Nhưng cũng có trường hợp họp mặt thành công khi người tổ chức không lặp lại những điều tôi nói ra ở trên và tâm thái những người đến buổi họp mặt có tấm lòng chân thật: hãy nói với nhau những gì mang lại niềm vui và tránh làm cho nhau bị thương tổn vì so sánh thành đạt, sang giàu.
Tôi viết những dòng này gởi đến các bạn tôi, cựu học sinh, đang chuẩn bị bước vào tuổi bảy mươi. Các bạn, cũng như tôi, có trước mắt một số năm không nhiều nữa. Chúng ta đến với nhau với tâm thế của những người bạn học cùng một mái trường. Mỗi năm gặp gỡ một lần không phải là nhiều.
Chúng ta còn có dịp gặp nhau bao nhiêu năm nữa? Họp mặt của chúng ta ở Hội An rất nhiều năm không có những gì đáng tiếc như thường thấy ở trên, đó là điều trân trọng.
Nguyễn Khuyến rất đúng khi nhận định: “Duyên kỳ ngộ là duyên tuổi tác” (*). Tuổi tác chúng ta chất đầy, tại sao chúng ta không “kỳ ngộ”? Ở Quảng Nam, Đà Nẵng, Sài Gòn và các nơi khác, học sinh Trần Quý Cáp, Hội An, các năm học từ 1965-1972 hãy hát câu của Trịnh Công Sơn “cuộc đời đó có bao lâu mà hững hờ?”
(*) Duyên kỳ ngộ là duyên tuổi tác/ Chén chú, chén anh, chén tôi, chén bác/ Cuộc tỉnh say, say tỉnh cùng nhau/ Nên chăng đá cũng gật đầu.