Monday, February 21, 2022

CON HAY TÔI?



Ảnh: ổng thống Richard M.Nixon bắt tay một cô giáo VN.

Danh xưng tiếng Việt khá tế nhị và (có phần) rắc rối. Cho đến giờ này, trong học đường vẫn còn tranh cãi cách xưng hô giữa người dạy và người học. Cộng đồng mạng (chứ không phải cộng đồng dân cư đại diện công luận) lên tiếng gay gắt khi thấy một bảng ghi lời chào học sinh đến trường sau gần một năm ở nhà vì dịch bịnh. ““Chào mừng các con học sinh trở lại trường học”.
Tôi thấy cách xưng học sinh bằng con như thế vừa thân mật vừa yêu mến. Học sinh như con mình, các thầy cô giáo nghĩ như thế, rất chân tình.
“Lúc ở nhà mẹ cũng là cô giáo. Lúc ở trường cô giáo như mẹ hiền” (một câu hát rất hay) Nhưng có thực sự học sinh được yêu mến như con? Cô giáo như mẹ hiền một thời gian không còn là mẹ hiền nữa khi nền giáo dục ngày càng nhiều vấn đề. Vai trò của học trò và thầy cô bị cuốn vào một môi trường, chạy theo thành tích là chủ đạo. Có cô giáo bắt học sinh uống nước giẻ lau bảng vì muốn nó không thể là học sinh “cá biệt” hay “học sinh dở”, có thể ảnh hưởng đến thành tích dạy dỗ của cô. Có lớp học gần như 100/100 là học sinh giỏi để bảo đảm “học tốt, dạy tốt”. Chưa kể những vấn nạn như áp lực thi cử, thi đua, tất bật việc lo trường, lo lớp cho con cái, tiền học thêm, tiền mua sách “tham khảo” ào ào phát hành của cái bộ chăm lo…giáo dục. “Cô giáo như mẹ hiền” khiến người ta liên tưởng “Lương y như từ mẫu”, một số người diễu cợt “Lương y như kế mẫu”.
Lý tưởng tốt đẹp của những khẩu hiệu ấy không còn tốt đẹp nữa vì những “biến tướng” của việc (một số) người phục vụ sức khỏe và chăm lo tinh thần của công dân biến thành ông cha bà mẹ uy quyền…
Gọi học trò là con không còn thân thương nữa. Ở vào vị trí con, học trò chắc chắn sẽ “gọi dạ, bảo vâng”, một lối giáo dục phi giáo dục, khi gọi những điều dối là thật, bảo những việc “xưa bày nay bắt chước” là truyền thống ông cha (dưới dạng “kiên định” lập trường) và bắt học trò tin theo và làm theo.
Chính vì thế, dư luận mới phản ứng việc gọi học sinh bằng “con”. Vì chữ con này làm họ nhớ tới: “Con không mặc áo quá đầu”; “Thương (con) cho roi cho vọt”. Họ muốn bỏ từ “con” trong ý nghĩa, học sinh không còn là một thứ dễ sai bảo như trong gia đình "gia giáo", nói đâu nghe đó, để được tiếng “hiếu thảo”. Học sinh là học sinh. Người thầy là người thầy. Học sinh có thể sẽ trở thành người thầy trong tương lai. Họ là “đồng nghiệp” của vị thầy một ngày nào đó. Họ không cần sự bình đẳng vì xã hội không bao giờ bình đẳng mọi cái. Họ cần sự tôn trọng. Họ không thể là con của một ai ngoài cha mẹ họ.
Nhưng tên gọi không nói hết sự tôn trọng khi tên gọi ấy là kết quả của một nền văn hóa lâu đời của người Việt Nam.
Có thể bây giờ không còn quan điểm tôn ti “Quân-Sư-Phụ” nhưng trong thâm tâm một số nguoi VN đều có tư tưởng ấy. Ông thầy đứng sau vua, trên cả cha mẹ. “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư”, một chữ cũng thầy, nửa chữ cũng thầy. Ông thầy trọng vọng vì nhờ ông mà con người Việt thời xưa mới có thể “đổi đời”, từ một nông dân tay lấm chân bùn, trở thành một vị quan (huyện) “trên đầu nào biết có trời là ai”. Học để làm quan, để giải thoát số phận con ngươi, do đó, học rất quan trọng. Chỉ có ai đỗ đạc mới ra làm quan. Học để làm quan, “một nguoi làm quan cả làng đều hưởng”. Học để thi, và thi cho đỗ. “Anh chưa thi đỗ, thời chưa động phòng”. Vợ cưới về để thèm thuồng ngó chứ nào dám “rờ tới” khi việc học thi quan trọng hơn cả hạnh phúc. Không quá đáng khi một "nhà" thực dân nổi tiếng (Paul Doumer) nhận xét: Trong mỗi đầu óc của người An Nam đều có một ông quan”.


Ảnh: Cô giáo dạy tôi thời trung học.


Học để làm quan chứ không phải học để làm nguoi, học để phụng sự bản thân, phụng sự xã hội. Ông thầy do đó còn hơn cha hơn mẹ. Việc họ gọi học trò bằng “con” cũng có chỗ hữu lý.
Xưa thì như thế còn nay thì sao? Như tôi nói, tư tưởng học làm quan không phải là không còn rơi rớt trong suy nghĩ của một số nguoi hôm nay. Nếu không coi trọng thi cử thì chắc chắn sẽ không có những sĩ tử thời @ ra Văn Miếu Quốc Tử Giám, sờ đầu mấy chú rùa đội bia tiến sĩ “để lấy hên”. Họ dựa vào uy danh các vị tiến sĩ, hồn thiêng của mấy vị này, mà không dựa vào chính bản thân họ, là cái quyết định tương lai của mình, chứ không phải mấy ông có tên trên văn bia, tài năng đa phần trong số họ chỉ là "làu làu" kinh sử của nước Tàu phong kiến.
Chưa bao giờ các quan chức nhà nước VN có bằng cấp nhiều như trong lịch sử. So với Mỹ, một nước văn minh nhất thế giới, tỷ lệ bằng tiến sĩ hay chức giáo sư trong chính phủ của họ thua xa trong chính quyền VN. Học quan trọng vì học để có bằng cấp?
Ai là người có thể giúp học trò của mình đỗ ông nghè, ông cống nếu không phải là thầy, cô? Sự quan trọng của nguoi thầy là hướng dẫn học sinh, sinh viên tự học chứ không phải chỉ có dạy họ học. Vai trò học sinh phải là trung tâm chứ không phải nguoi thầy. Do đó, việc các ngươi làm giáo dục gọi học sinh là “con” khiến dư luận bất bình. Họ không phải là hạng “con, cháu” nữa khi giáo dục ngày càng xuống cấp, học sinh không còn như ruột thịt (con), họ trở thành “con” của cha của mẹ. "Cha mẹ đặt đâu con ngồi đó”.
Nhưng không gọi học sinh bằng con, thầy cô thì gọi họ bằng gì? Có nguoi bảo thầy cô xưng tôi và học sinh cũng xưng tôi. Có nguoi nói gọi học sinh bằng trò, nguoi dạy gọi mình là thầy, cô. Đây có thể là cách gọi có vẻ “trung tính” nhất trong danh xưng giữa nguoi học và nguoi dạy. Nhưng xin đi vệ sinh, học sinh nói: “Trò xin thầy (cô) trò đi tiểu”. Thầy (cô): Thầy cho trò đi tiểu, đó”. Cách xưng này có vẻ dung hòa hơn cách gọi con, xưng tôi nhưng nghe sao không êm tai mấy. TRường họp khó nghe hơn khi học sinh 5 tuổi (mẫu giáo) nói với cô: “Tôi xin cô đi tiểu” nếu tất cả học sinh không cứ nhỏ tuổi xưng với thầy cô bằng “tôi”. Hay học sinh lớp 1: “Tôi thấy thầy giảng sai” thì thử hỏi có vị thầy nào không nổi nóng? Nếu là tiếng Anh thì vấn đề không còn “khó nghe” vì “I” (trò, con, em, tôi) xin “You” đi tiểu. Ngôi thứ nhất và ngôi thứ hai rõ ràng. I và You không thể hiện “danh xưng” rắc rối như tiếng Việt.
Nhưng không xưng, trò với thầy, tôi với em, hay tôi với thầy (cô) thì gọi bằng từ gì cho nó không thể hiện địa vị “con” thấp bé? Rất nan giải.
Tiếng Việt, khi xướng danh xưng, người ta nói lên ngay tức khắc “thân phận” nguoi nói, nguoi nghe. Trong công sở, “Thưa bác, xin bác ký giấy này giùm em (giùm cháu)”. Chắc chắn ông quan chức này lớn tuổi. Cũng không hẳn. Một số nguoi miền Bắc hay gọi nguoi cùng tuổi hay nhỏ tuổi hơn chút bằng bác và xưng em trong khi ở miền Nam, bác là anh của cha, lớn tuổi hơn cha. Chỉ có chữ bác thôi, ý nghĩa khác nhau tùy ngữ cảnh và thân phận nguoi nói, nguoi “được thưa”. “Ông mà gọi một cú phone, con đi ăn mày ngay”. Ông này có nghĩa là tôi, không phải grandfather. Tôi này nhớn lắm, oai quyền lắm. Con này có nghĩa là thằng, mầy. Chỉ nghe danh xưng, chúng ta biết ngay thân phận, địa vị của mỗi người. Tiếng Việt mình nó thế, phong phú lắm.
Con, do đó, dễ gây dị ứng khi các thầy cô gọi học sinh của mình. Nghe nói ở đại học, nhiều vị thầy giáo sư, tiến sắp về hưu hay sử dụng lại (lưu dung?) gọi các cô cậu sinh viên bằng con, cháu vì thực sự tuổi của họ chỉ tầm bằng tuổi con, cháu của các vị này.
Danh xưng biểu hiện tư duy nữa. Trước đây, trong tiếng Anh, gọi ông, bà bằng Mr. hay Mrs (Mrs. thường hiểu là nguoi có gia đình). Sau này, để bảo vệ quyền riêng tư của phụ nữ có gia đình hay độc thân, người ta dùng Ms. chỉ chung cho phụ nữ. Người đọc sẽ không biết Ms., những phụ nữ, có gia đình hay chưa; đó là quyền riêng tư, không ai được xâm phạm. Tiếng Việt có chữ nào gọi chung như thế không? Không. Bà để chỉ nguoi có chồng; cô để chỉ nguoi chua chưa chồng. Nhưng về mặt pháp lý, Ông/Bà để gọi đàn ông và đàn bà. Đây là bước tiến bộ. Nhưng tròng công đường hiện nay, việc xưng hô giữa nguoi dân và quan chức có tiến bộ như vậy không? Vào đó thì nào là con, cháu, chú, bác, ông, cô, dì…như trong một gia đình?
Quay lại vấn đề xưng hô thầy cô, tôi thấy quan điểm dung hòa là có cũ, có mới, có châm chước, có nguyên tắc: hãy trở lại cách gọi trước đây (ở miền Nam và nghe nói ở miền Bắc). Cấp mẫu giáo, tiểu học, trung học cơ sở: nguoi dạy xưng “thầy, cô” và gọi nguoi học bằng em. Học sinh xưng em với thầy cô. Cấp ba và đại học, học sinh sinh viên gọi nguoi dạy bằng thầy, cô và xưng em; thầy cô gọi học sinh bằng anh, chị và xưng tôi.
Không thể một sớm một chiều thay đổi cách gọi ăn sâu trong tiềm thức khi vị thầy đứng trên cha, mẹ; tuổi tác của họ ở vào hàng cha mẹ, có khi ông bà, của học sinh. Nhưng không thay đổi bây giờ, vị trí ngươi dạy nguoi học qua cung cách xưng hô, vừa tương kính vừa thân yêu, thì đến khi nào nữa? Đừng để chuyện cỏn con (tôi nói cỏn con vì chỉ cần một thông tư của bộ là xong chuyện xưng hô) như cách gọi đang bàn có thể ảnh hưởng đến môi trường giáo dục, sự tự do và bình đẳng cần tỏ rạng, trong quan hệ thầy trò.


MI NGU QUÁ

 


Lúc nhỏ, tôi hay bị chị mắng như thế khi tôi không thuộc bài hay làm sai một bài toán. “Mi ngu quá” không làm tôi cảm thấy bị sỉ nhục. Bởi đó là lời “nhắc nhở” đầy yêu thương của chị tôi. Nhưng nếu dịch mấy chữ này sang tiếng Anh, “How stupid you are”, như thế, chắc chắn tôi sẽ đứng dậy, vất sách, vất vở, trợn mắt với chị tôi và bỏ đi chơi. Và bây giờ tôi sẽ không làm được bài toán 2+2=4 hay viết nổi một lá thư tình gởi cho bạn gái là…vợ tôi bây giờ.

Tiếng Việt, người ta bảo “giàu lắm”. Chỉ tên con chó có bộ lông màu đen thôi đã có biết bao từ để gọi: chó mực, chó mun, chó đen hay cún mực, cún mun, cún đen. Tiếng Việt phát ra từ một tình cảm đôi khi lại ẩn giấu. "Nói zậy nhưng không phải zậy". “Mẹ mày” sẽ rất dễ thương nếu đó là lời của cha nói với mẹ. Nhưng với một người khác, “mẹ mày”, người nói sẽ nhận một cú đá hay cú đánh, lổ đầu vỡ trán…là chuyện đương nhiên.
Mấy hôm nay, tôi thấy trên mạng, từ trí thức đến thường dân, tất cả đều phẫn nộ khi đọc lời nhắc nhở của nhà trường đối với học sinh “Chào mừng các con học sinh trở lại trường học”. Như tôi nói, tiếng Việt chất đầy cảm tính. Câu chào này rất tình cảm, rất yêu thương, và rất gần gũi. Mấy tháng xa cách nhau vì dịch bịnh, cô thầy và học trò ao ước gặp nhau. Ao ước thật lòng, tự tấm lòng. Thầy cô không có học trò hay học trò không có thầy cô thì đâu còn giáo dục, đâu còn tình thầy trò, đâu còn tình nghĩa “giáo khoa thư”.
Khi gọi học sinh là con, các “nhà giáo dục” coi học trò như ruột thịt thì “con” hết sức thiêng liêng. Nhưng thực sự học sinh có là con như trong gia đình, con với cha, với mẹ, với tình yêu thương cùng dòng máu? Chắc chắn là không.
Con ơi! Hãy mua sách giáo khoa nhiều như núi, lớp một thôi, cũng cả bạc triệu. Con ơi! Hãy đóng đủ tiền phụ huynh học sinh đề nghị, càng cao, uy tín nhà trường, uy tín hội phụ huynh càng lớn. Con ơi! Hãy là học sinh giỏi, học sinh khá, không được học sinh trung bình, học sinh kém, các nhà quản lý sẽ mất điểm thi đua. Con ơi! Hãy đăng ký học thêm ở thầy A, cô B nếu con muốn đạt học sinh giỏi, khá, không phải làm ô danh nhà trường, có học sinh trung bình, học sin kém. Con ơi! Con cần phải có “màu cờ, sắc áo” của trường ta. Đồng phục nhà trường các con cần có. Bộ áo quần đi học ở chợ có thể rẻ hơn nhưng bộ áo quần đồng phục nhà trường là niềm kiêu hãnh “trường ta”. Niềm kiêu hãnh cũng như tự hào, tiền nào mua được. Dẫu đồng phục nhà trường có đắt hơn ngoài chợ, đó vẫn là niềm tự hào, hãnh diện vô giá, các “con nên nhớ”…
Các “con” mà như vậy thì thôi, xóa bỏ là vừa, là đúng lúc. Nhưng “các con”, giỏi cũng như kém, nhà trường không vì thế mà có hay mất thi đua, tiền “phí” do hội phụ huynh đề xuất đóng nhiều hay ít, không em nào mặc cảm, y phục đến trường tùy hoàn cảnh mỗi học sinh miễn “kín đáo”, “cơ động” chơi cũng như học, đi học thêm hay không học thêm cũng không bị phân biệt đối xử, cũng không lấy đó làm lợi thế điểm cao nhờ “học trước”…các con như thế ai mà chống đối?
Thay cách gọi học trò bằng “con”, gọi họ là “anh” là “chị”, học trò nên xưng “tôi” với thầy cô mà không thay đổi căn cơ giáo dục: học trò là trung tâm, hay những thực trạng như tôi vừa nhắc (chỉ là bề nổi mà thôi) thì tốt nhất các thức giả cũng đừng cần lớn tiếng. “Nước đổ đầu vịt” mà thôi.
Quý vị thấy khi nào ở một xã hội mà các quan chức cấp dưới không bắt tay cấp trên bằng hai cánh tay khúm núm thì tiếng nói quý vị mới có "chút ký lô". Và khi một ông “cao cấp chính trị” lại đi rao giảng văn hóa giáo dục cho những người làm văn hóa giáo dục thì tốt nhất quý vị nên yên lặng cho nó…lành. Gọi học trò là “con” hay “thằng” cũng rứa mà thôi.

TẠI SAO VIỆT NAM KHÔNG DẠY LỊCH SỬ CHIẾN TRANH VIỆT TRUNG? (Why Won’t Vietnam Teach the History of the Sino-Vietnamese War?)

 Bài khá dài nhưng khá lý thú. Chỉ dành cho ai kiên nhẫn đọc vì tôi kiên nhẫn dịch tặng quý vị.



“VN ngần ngại đưa cuộc chiến 1979 vào sách giáo khoa, kéo dài hàng thập kỷ im lặng”.
Travis Vincent đăng trên The Diplomat, ngày 09 tháng 02, 2022
Thời gian thi học kỳ ở đại học thường vào cuối tháng giêng, một vài tuần trước kỷ niệm chiến tranh Việt –Trung, thường gọi là Chiến tranh biên giới. Cô Hằng, giảng viên tại một trường đại học đẳng cấp ở Hà Nội, cho biết cuối học kỳ như thế “là thời điểm lý tưởng để suy niệm về cuộc chiến 1979 nhưng, cuối cùng, tôi không thể hướng dẫn sinh viên thảo luận điều gì”.
Đáp trả việc Việt Nam chiếm đóng Campuchia và ký kết Hiệp ước hữu nghị và Hợp tác với Liên Xô năm 1978, Trung Quốc tiến hành xâm lược Việt Nam vào tháng 2 năm 1979, chiếm một số tỉnh biên giới. Bang giao giữa hai nước cộng sản anh em tệ hại chưa từng thấy. Từ ngày 17 tháng 2 đến ngày 16 tháng 3, cuộc chiến cướp đi sinh mạng hàng chục nghìn binh sĩ Trung Quốc và Việt Nam, mặc dù con số thương vong chính xác vẫn còn nhiều tranh cãi. Quân đội Trung Quốc rút lui sau ba tuần với thông báo hoàn tất “sứ mệnh trừng phạt”.
Nhưng bốn chục năm sau chiến tranh, các trường học VN vẫn ngần ngại, một cách khó hiểu, khi giảng về cuộc chiến. Với một tên khác, Hằng không thể đưa sự kiện này vào kỳ thi cho sinh viên, ngay cả không đưa vào giáo trình của mình.
Sự im lặng về cuộc chiến trong học đường có phần khá hơn thời cô là sinh viên năm thứ hai tại chính trường đại học cô đang dạy, năm 1979.
Cô Hằng nói: “Giáo sư dạy chúng tôi cả quyết cuộc chiến (giữa TQ và VN) sẽ không thể xảy ra bởi vì chúng tôi là đồng chí, là anh em. Rồi ngày hôm sau, TQ nã đạn pháo vào biên giới. Nhưng vị giáo sư của chúng tôi không hề tự mình đính chính. Chẳng ai dám cất lên tiếng nói”.
Trong khi đó, trường học TQ nhắc đến cuộc xung đột với tên gọi “Chiến tranh tự vệ chống Việt Nam” (对越自卫反击战).
Trên thực tế, chính quyền Việt Nam miễn cưỡng dạy học sinh ở tất cả các cấp học về chiến tranh Việt-Trung - một điều gây tò mò, vì học sinh Việt Nam từng làm quen với lịch sử chống xâm lăng Trung Quốc. Từ lớp 6 đến lớp 7, học sinh tìm hiểu gần một thiên niên kỷ dưới sự chiếm đóng của Trung Hoa cho đến năm 938, cũng như các cuộc chiến tranh rải rác qua các triều đại khác nhau chống lại các vua chúa Trung Hoa. Các cuộc chiến tranh đó được nghiên cứu sâu hơn từ lớp 10 đến lớp 11. Tuy nhiên, cuộc chiến tranh giữa hai quốc gia năm 1979 lại bị che mờ trong các giờ lịch sử. Bản in năm 2001 sách giáo khoa Lịch sử lớp 12 ở Việt Nam kể lại cuộc chiến chỉ với 24 dòng ở cuối sách, trong khi bản in năm 2018 giảm phần miêu tả (cuộc chiến), chỉ còn 11 dòng.
Lời kêu gọi cải cách sách giáo khoa lịch sử của các nhà chuyên môn, đặc biệt là cung cấp các tường thuật chi tiết về cuộc xung đột năm 1979, cho đến nay vẫn rơi vào im lặng. Mặc dù chính quyền cho phép các cuộc thảo luận cởi mở hơn về cuộc chiến trên các phương tiện truyền thông nhà nước, nhưng việc giảng dạy toàn diện hơn về cuộc chiến này vẫn chưa được thực hiện và vẫn chưa chắc sẽ xảy ra. Việc viết lại và ghi nhớ cuộc chiến đòi hỏi một cuộc “đại tu” các sách giáo khoa lịch sử, do đảng Cộng sản chỉ đạo viết.

CUỘC CHIẾN NGẮN NGỦI VÀ QUAN TRỌNG

Hằng thấy mình mắc kẹt giữa hai khối đá: cô không thể thực hành điều mình giảng dạy. Cô nói: “Tôi bảo sinh viên thảo luận và đặt câu hỏi trong lớp, nhưng rồi tôi chẳng lôi kéo nổi họ vào chính đề tài này”.
Để giải quyết tình huống khó xử,cô gợi ý sinh viên đọc “Hồi ức và suy nghĩ”, cuốn hồi ký nổi tiếng, phổ biến trên mạng, của nhà ngoại giao kỳ cựu Trần Quang Cơ, được xem là tài liệu có thẩm quyền nhất về quan hệ Trung-Việt trong thập niên 1980. Cô còn khuyến khích sinh viên thảo luận thân tình với cô về cuốn hồi ký ấy.
Đây là cách các giáo sư đại học thường làm để lấp bớt khoảng trống tri thức.
Một sinh viên năm thứ ba học về quan hệ quốc tế ở TP.HCM, cô Phạm Kim Ngọc, cho biết giáo sư của cô có nhắc đến cuộc chiến trong một bài giảng ngắn; ông rất hoan nghênh các câu hỏi sau giờ đứng lớp. Tuy nhiên, cô không có sách giáo khoa nào để nghiên cứu thêm (về đề tài này- ND).
Ngọc nói: “Người ta dạy chúng tôi, rằng TQ là nước quan trọng nhất chúng tôi cần nghiên cứu, nhưng sự kiện như thế (nói về cuộc chiến –ND) vẫn còn “nhạy cảm”.
Một giáo viên dạy sử trường trung học tư thục ở Hà Nội, cô Nguyễn Ngọc Trâm thấy rằng, phương thức giảng dạy về chiến tranh từ trên đưa xuống rất là hời hợt. Trong sách dành cho giáo viên, không có hướng dẫn cụ thể việc nói về cuộc chiến. Trâm cho biết: “Cuộc chiến biên giới nhắc tới ở cuối cuốn sách, nghĩa là, sẽ được dạy vào giờ cuối của năm học. Lúc đó, chẳng ai chú ý”.
Ngoài ra, Trâm còn dạy kèm học sinh lớp 12 môn lịch sử để thi vào đại học. Bộ giáo dục không đưa cuộc chiến tranh ấy vào nội dung thi. “Vì cuộc chiến (biên giới) ấy không phải thi, học sinh của tôi không buồn để mắt tới”.
Việc giảng dạy ít ỏi về cuộc chiến khiến Trâm ngạc nhiên, vì học sinh cấp tiểu học, trung học, phải chú trọng cái gọi là “giáo dục về biển đảo”, nhấn mạnh chủ quyền lãnh thổ VN đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, tranh chấp cốt lõi giữa VN và TQ.
Chuyên ngành sử, Trâm có cơ hội tìm hiểu cuộc chiến ấy ở đại học, dù ở mức độ hạn chế. Tuy nhiên, nhiều bạn sinh viên của Trâm lại không để ý điều đó.
Đặng Ngọc Oanh, sinh viên năm nhất đại học Kinh tế quốc dân, cho biết cô có kiến thức về cuộc chiến (biên giới) nhờ bố. Oanh cảm thấy kinh ngạc khi cô chưa hề được dạy ở trường: “Bố tôi là bộ đội. Ông không tham dự cuộc chiến đó nhưng ông kể cho tôi nghe”, Oanh nói và cho biết, cô tìm hiểu thêm cuộc chiến qua tiếng Anh.

HIỆP ƯỚC TỪ TRÊN CỐ QUÊN QUÁ KHỨ.

Mặc dù TQ viện trợ VN trong các cuộc chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ, quan hệ giữa hai nước xấu đi vào cuối thập niên 1960. Phát động cuộc chiến 1979, TQ muốn dạy “tiểu bá tham vọng” VN một bài học, sau khi Hà Nội đánh bật Khmer đỏ, do TQ đỡ lưng, sau cuộc xâm chiếm Campuchia.
Sự căm phẫn của đảng CSVN đối với Trung Quốc sau đó cao đến nỗi, phần mở đầu của Hiến pháp 1980, Việt Nam gọi Trung Quốc là “kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm”. Tuy nhiên, cụm từ này bị loại bỏ khỏi Hiến pháp vào năm 1988, mở đường cho quá trình bình thường hóa giữa hai nước.
Từ 1980 đến 1987, Hà Nội có nhiều động thái chính thức và bí mật để nối lại đàm phán bình thường hóa với đồng chí phương Bắc, nhưng tất cả đều vô ích. Tháng 3 năm 1988, Trung Quốc cưỡng chiếm các khu vực thuộc quần đảo Trường Sa thuộc quyền tài phán của Việt Nam.
Tuy nhiên, do bị quốc tế cô lập sau sự kiện thảm sát Thiên An Môn năm 1989, Bắc Kinh đề xuất cuộc gặp bí mật năm 1990 tại Thành Đô; hai nước “gác bỏ quá khứ, hướng tới tương lai”. Kết quả là, nước VN không tổ chức kỷ niệm cuộc chiến 1979 một cách chính thức, và cuộc chiến đi vào quên lãng. Lãnh đạo hai nước thông báo bình thường hóa song phương ở cấp quốc gia lẫn cấp đảng năm 1991.
Một thập kỷ sau, hai bên ký Tuyên bố chung về hợp tác chiến lược toàn diện. Năm 1999, trong chuyến thăm của Tổng bí thư Lê Khả Phiêu tới Bắc Kinh, một phương châm, còn gọi là “16 chữ vàng”, được thông qua cho mối quan hệ của hai nước: láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, và hướng tới tương lai. Đồng thời, Nguyễn Cơ Thạch, người nổi tiếng với lập trường cứng rắn trong các vấn đề Trung Quốc và thúc đẩy quan hệ chặt chẽ hơn với Hoa Kỳ, bị loại khỏi bộ Chính trị và Ủy ban trung ương, thậm chí mất chức ngoại trưởng.
Trong nhiều bảo tàng, từ “chiến tranh” tránh nói với “Trung Quốc” thậm chí không được nhắc đến khi đề cập đến sự kiện năm 1979, không như cách mô tả “cuộc đấu tranh kiên cường và chính nghĩa chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và quân ngụy miền Nam Việt Nam”. Trong một thời gian dài, Việt Nam không công nhận những người đã ngã xuống trong cuộc chiến tranh biên giới là liệt sĩ. Những người lính hy sinh trong cuộc chiến chống Trung Quốc chỉ được gọi là “bảo vệ tổ quốc”, không giống đồng đội của họ trong các cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ.
Trong khi Việt Nam thành công trong việc buộc Trung Quốc thoái lui vào năm 1979, cả phương tiện truyền thông chính thống lẫn sách giáo khoa lịch sử của nước này đều không đề cập đây là một chiến thắng quân sự. Mặc dù Việt Nam nhiều lần yêu cầu Hoa Kỳ bồi thường chiến tranh, nhưng Việt Nam hoàn toàn im lặng trước những hành động tàn bạo của cuộc chiến năm 1979 do Trung Quốc gây ra.

TƯỞNG NHỚ CHIẾN TRANH (là) “PHẢN ĐỘNG”.

Tuy nhiên, chính quyền đã thay đổi quyết định trong bối cảnh Trung Quốc ngày càng quyết đoán ở biển Nam Trung Hoa, tiếng Việt là Biển Đông.
Năm 2014, căng thẳng giữa hai nước leo thang khi Trung Quốc chuyển một giàn khoan dầu đến vùng biển gần quần đảo tranh chấp Hoàng Sa. Các cuộc biểu tình chống Trung Quốc nổi lên khắp Việt Nam. Nhiều người bắt đầu bày tỏ sự quan tâm đến các cuộc xung đột vũ trang trong quá khứ với nước láng giềng phương Bắc. Cuộc chiến do đó đã sống lại trong ký ức của quần chúng.
Theo Giáo sư Tường Vũ từ Đại học Oregon, chiến tranh Việt-Trung vẫn chia rẽ sự lãnh đạo của Hà Nội ngày nay. Một bên đổ lỗi cho Lê Duẩn, cựu lãnh đạo đảng nổi tiếng chống Trung Quốc, một bên cho rằng đảng đã sai lầm vì cả tin Trung Quốc.
Qua email, ông Vũ viết: “Cho phép tranh luận về chiến tranh sẽ đe dọa sâu thêm hố chia rẽ và sự tồn vong của đảng; việc ấy còn phơi bày những sai lầm của lãnh đạo chóp bu. Dạy trẻ em biết về cuộc chiến này, qua thời gian, có thể tạo ra áp lực buộc đảng phải quay khỏi TQ và tiến gần Mỹ hơn, một điều đảng không muốn”.
Trong một cuộc phỏng vấn năm 2018 với BBC, ông Dương Danh Dy, cựu Tổng lãnh sự Việt Nam tại Quảng Châu và là nhà nghiên cứu Trung Quốc hàng đầu tại Việt Nam, cho biết vẫn chưa rõ ai là người chủ trương giữ im lặng về cuộc chiến (Việt-Trung).
Nhưng rõ ràng, người đóng vai trò chính, mở lại các cuộc bàn thảo và tưởng niệm chính là: Các cựu chiến binh trong cuộc chiến này. Đặc biệt, các chiến sĩ tham dự trận đánh Vị Xuyên và Hà Giang là những người cất to tiếng nhất.
Các kênh truyền hình quốc gia bắt đầu phát nhiều phim tài liệu về cuộc chiến (biên giới). Nhiều tác phẩm nghệ thuật bắt đầu lưu hành. Hơn 30 năm sau cuộc chiến, nhà nước phát động sáng kiến tìm kiếm hài cốt binh sĩ ngã xuống ở chiến trường Vị Xuyên.
Tháng giêng năm 2016, chủ tịch Trương Tấn Sang viếng thăm chính thức các tỉnh biên giới phía bắc để tưởng niệm cuộc chiến; ông trở thành chủ tịch nước đầu tiên thực hiện việc đó.
Bắt đầu kỷ niệm 40 năm cuộc chiến năm 2019, truyền thông quốc nội mới công khai đề cập cuộc chiến mặc dù có nhiều chuyện kể bị kiểm duyệt. Cuốn sách năm 2019, “Bảo vệ biên giới”, của nhà xuất bản bộ Thông tin và Truyền thông, là một trong rất ít xuất bản phẩm về cuộc chiến (biên giới) phát hành tại VN. Cuốn sách vẫn nhắc đến cuộc xung đột là chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc, không đả động gì tên Trung Quốc.
Đầu năm nay, thủ tướng Phạm Minh Chính có cuộc thăm chính thức nhà tưởng niệm phía bắc tỉnh Quảng Ninh, nhằm tưởng nhớ các chiến sĩ hy sinh trong cuộc chiến 1979.
Tuy vậy, một số đề tài vẫn còn bị giới hạn, ví như số thương vong, hay số người thiểu số bị “xử” (execution) ở bắc VN vì hùa theo quân Trung Quốc trong cuộc chiến.

CẦN THAY ĐỔI SÁCH GIÁO KHOA

Là cô giáo, Trâm phải cân nhắc việc nói với học sinh về cuộc chiến đa phần “bị bỏ quên” và không được phép đi quá lằn ranh bất thành văn.
Trâm nói: “Tôi phải dạy mọi thứ với một ngôn ngữ ‘uyển chuyển’, từng chút, từng chút, kẻo phụ huynh sẽ phàn nàn tôi dạy điều không giống sách giáo khoa”.
Tận dụng môi trường sư phạm tương đối mở trong một trường tư thục, Trâm còn cố dạy học sinh nhỏ tuổi của mình về những cột mốc lịch sử quan trọng không nêu trong sách giáo khoa.
Trâm cho biết: “Rất quan trọng khi dạy học sinh rằng, VN từ 938 không như Việt Nam ngày nay, (Ngô Quyền đánh thắng quân Nam Hán, đem lại độc lập cho VN sau gần 1000 năm đô hộ giặc Tàu, từ khi Hai Bà Trưng nhảy xuống Hát giang tuẫn tiết năm 43– ND). Tôi vẫn phải dạy học sinh của mình rằng, có rất nhiều trang sử về những gì các em gọi là ‘Việt Nam’ ngày nay, không phải chỉ có một Việt Nam như sách giáo khoa nhà nước định nghĩa”.
Ngay cả vị tướng lừng danh Võ Nguyên Giáp, nhà chỉ huy chủ chốt phía sau chiến thắng quan trọng của cộng sản đối với người Pháp trận Điện Biên Phủ, cũng bị loại khỏi sách giáo khoa chính thống.
Tuy nhiên, còn một số tự tình (narrative) vẫn khó mà thay đổi.
Viết lại lịch sử chiến tranh Việt-Trung còn đòi hỏi trình bày chi tiết cuộc xâm chiếm năm 1978 vào Campuchia, bên Việt Nam vẫn coi là “Giải phóng Campuchia khỏi ách Khờ-me Đỏ”. Cuộc chiến này chỉ nhắc có 13 dòng là “cuộc chiến bảo vệ biên giới tây nam” trong sách giáo khoa hiện hành.
Nhà nước Cộng sản cũng chẳng bao giờ công nhận Việt Nam Cộng hòa là một chính quyền hợp pháp. Nói cách khác, họ chưa bao giờ chấp nhận có hai Việt Nam cùng tồn tại trong thế kỷ thứ 20, mà vẫn coi Việt Nam là một nước bị bọn xâm lược và bè lũ bán nước chia cắt. Sự sụp đổ của Sài Gòn mô tả trong sách giáo khoa cho thấy việc thống nhất đất nước là lẽ tất nhiên.
Hậu quả là, giao chiến quân sự giữa hải quân Trung Quốc và hải quân Nam Việt Nam năm 1974 cũng rơi vào quên lãng. Tất cả sách giáo khoa lịch sử quốc gia dạy cho học sinh cả nước chỉ tập trung vào miền Bắc Việt Nam.
Ở VN, nhà xuât bản Giáo dục, thuộc bộ Giáo dục và Đào tạo, độc quyền in sách giáo khoa sử dụng toàn quốc hàng nhiều thập kỷ. Từ 2019, chính quyền cho phép thêm một số nhà xuất bản tham gia làm sách. Trường học ngày nay có thể chọn sách nào họ muốn. Năm 2021, sách giáo khoa mới của lớp 10 vừa phát hành. Một số sách cho lớp 12 sẽ phát hành vào năm 2023. Nhưng, trừ phi Đảng Cộng Sản đồng ý nới lỏng “sự tình” (câu chuyện, narrative), sách giáo khoa sẽ chỉ là “bình mới rượu cũ” mà thôi.

Nguyễn Long Chiến dịch.

Bài gốc
https://thediplomat.com/2022/02/why-wont-vietnam-teach-about-the-sino-vietnamese-war/?fbclid=IwAR1XELltjsuQYKG0OrSn1txvrlWV7hKNeCTh5TmC19xSAMs9zVCGyaJvJaE

Wednesday, February 9, 2022

Bi kịch? Ngẫm nghĩ chuyện dùng Facebook




Hôm qua, tôi có bài “ca ngợi” Facebook. Hôm nay, tôi thấy ân hận quá. Tại sao tôi yêu ông Mark (trẻ) mà không yêu ông Marx già râu ria. Lẽ đáng mỗi ngày tôi phải đọc Nhân Dân. Nhưng tôi lại không. Tôi sống với nhân dân, tại sao tôi không yêu Nhân Dân. Bội bạc, thật quá là bội bạc. Vốn tính thật thà, tôi nói thẳng: Tôi thích Facebook mà không thích Nhân Dân vì cái mạng của thằng đế quốc này hấp dẫn hơn cái mạng “quốc dân”.
Dù tôi có là giáo sư nổi tiếng thì bài tôi viết chắc chắn không được đưa lên mặt báo Nhân Dân nếu quan điểm của tôi không theo định hướng hay không được phép. Chả có định hướng (con mẹ gì – xin lỗi, “cương” tý) tôi gửi cho thằng Mark, ý lộn, chú Mark, một bài dù ở dạng lơ tơ mơ, “hắn” đăng liền , mà không hỏi tôi có bằng cấp gì, hộ khẩu ở đâu, qun điểm chính trị thế nào, có thuộc thành phần phản động hay chống phá nhà nước (Mỹ) không.

Facebook của “hắn” thật tử tế. Nào là like, love, care, haha, wow, sad, angry (thích, yêu thích, quan tâm, cười vui, ngạc nhiên chưa, buồn, giận). Gần như đủ “thất tình” (hỉ, nộ, ái, ố, dục, lạc, bi). Trước Facebook ấy có dislike (ghét) nhưng sau đó bỏ đi. Con cháu tác giả Đắc Nhân Tâm (Dale Carnegie)mà lỵ. Khen hiệu quả hơn chê. Quý vị không thấy chê (phê) tự chê (tự phê), “phê bình như ăn cháo, kiểm thảo như ăn cơm” thất bại ê chề không? Càng phê và tự phê càng hỏng việc. Phê và tự phê càng nhiều con người càng chai lỳ. Xem đạo đức quan chức thì rõ, khỏi cần dài dòng.

Có mấy điểm Facebook thu hút nhân loại không chỉ VN:

1- Tự do tư tưởng: Bạn có thể suy nghĩ và viết ra suy nghĩ bất cứ điều gì, mà không phải lo lắng suy nghĩ ấy có “phạm chính trị” hay không.

2- Tự do biểu đạt: Bạn có thể đăng tin buồn, tin vui, tin tức mình, tin yêu thương hoặc ghét bỏ ai đó (miễn không phạm luật).

3- Tự do ngôn luận: Bạn có thể chửi tổng thống Mỹ hay chì chiết tổng bí thư Trung Quốc…Bạn có thể góp ý với quốc hội hay ban chấp hành trung ương đảng CSVN dù chẳng ai thèm nghe bạn.

4- Tự do tín ngưỡng: Không ai cấm bạn chụp hình trong nhà thờ và cũng chẳng ai không cho phép bạn quỳ mọp trong chùa đảnh lễ Phật. Miễn bạn không đề cao tín ngưỡng mình và hạ thấp tín ngưỡng người khác.

5- Tương tác nhanh: Chỉ cần đọc một câu còm của bạn ở VN, một người ở Mỹ có thể hồi đáp tức thì chưa tới một vài giây. Có khi bạn chỉ đề nghị một điều gì đó, năm ba giây sau đề nghị ấy được tiếp nhận và giải quyết tức thì. Có thể bạn bày tỏ “Anh yêu em” thì ngay lập tức trong messenger sẽ hiện ra câu “Em yêu anh”. Những hẹn hò sau đó có thể thực hiện không tới 60 giây.

6- Hiểu biết tha nhân: Khi lên facebook, bạn sẽ thấy đủ loại người theo suy nghĩ và nhận xét của bạn: bao dung và hẹp hòi; quảng đại và bó ró; yêu thương và thù hận; rộng rãi và nhỏ nhen; hiền lành và hung dữ; thẳng ruột ngựa và ti tiện, hiểm sâu…Nói chung con người “ảo” trên mạng không khác con người thật ngoài đời. Không tiếp xúc trực tiếp, chỉ tiếp xúc trên “giao diện”, các bạn hiểu hết lòng dạ con người. Ai nên tiếp tục là bạn, ai trở nên “thù” cần unfriend, chỉ một cái nhấp chuột. Ở ngoài đời, muốn kết bạn hay muốn chia tay ai đâu có dễ. Kết bạn xô bồ thì sẽ gặp cảnh “tin bạn mất vợ, tin bợm mất bò”. Chia tay ai thì phải tốn biết bao nước mắt. Facebook không khó khăn như thế.

7- Kết nối: Đây là cái Facebook rất thành công. Tôi ở VN. Khi chơi facebook một thời gian, tôi biết được bạn mình, đứa ở quê, đứa ở Mỹ, ở Úc, đứa ở Đức, đứa ly dị đứa cưới vợ khác, đứa còn sống, đứa đã chết, đứa bỏ mình nơi biển cả, đứa chôn thây nơi trại cải tạo…Không gặp họ nhưng tôi biết họ qua những trao đổi với các bạn quen từ lúc nhỏ cho tới lúc trưởng thành.

8- Hiểu biết thế giới: Có thể tra trên Google để biết mọi thứ nhưng “người thật, việc thật” không bằng các bạn, người thân, các friend người nước ngoài, tôi hiểu bản chất, lối sống, văn hóa, văn minh xứ sở họ.

9- Hiểu biết người trong nước: Tôi có thể nghe một người ở Hà Nội giải thích rau diếp không hẳn là rau diếp cá, mà là một loại rau hơi giống sà lách người Pháp mang sang. Ở Sài Gòn nhưng tôi biết Hà Nội đón tết thế nào; không phải qua sách vở nhưng là qua những bài viết về Tết của các friends ở ngoài ấy.

10- Tạo sự cảm thông: Có thể tôi là người trưởng thành trong chế độ VNCH. Các friends của tôi trưởng thành trong chế độ cộng sản (gọi là XHCN). Chúng tôi không coi nhau là kẻ thù như trong chiến tranh trước đây. Bởi tôi nói họ nghe và họ nói tôi nghe, trong tinh thần hiểu biết và tương kính.

11- Cuối cùng: Hiểu nhau để thương nhau. Qua facebook chứ không phải mấy trăm tờ báo, hàng trăm đài phát thanh, truyền hình của nhà nước, con người VN, trong nước và ngoài nước, có thể bắc một nhịp cầu cảm thông. Sức mạnh quốc tế- các cường quốc- có thể nay hùng cường, mai suy yếu, không ai lường trước được. VN từng dựa dẫm vào họ để tìm con đường tiến lên cho hai miền Nam-Bắc. Sự dựa dẫm ấy từng sai lầm và ngộ nhận dẫn đến đất nước tang thương, lòng người ly tán, chia rẽ không chấm dứt dù hơn nửa thế kỷ đi qua.

Tôi luôn nhìn mọi cái bằng con mắt yêu thương. Những cái đáng ghét (có đầy trên Facebook) tôi không nhắc tới. Và tôi nghiệm ra rằng: Không có chiếc cầu nào ngoài…Facebook giúp chúng ta nối kết Nam-Bắc một nhà, hòa giải “Quốc gia” và “Cộng sản”. Trên Facebook chúng ta nói thật, dám nói thật. Có câu: Sự thật mới cứu rỗi loài người. Thật vui nhưng cũng thật buồn: Tại sao chúng ta- những con Lạc cháu Hồng- đòng bào, một bọc sinh ra, không có một diễn đàn nào "mấp mem"" hay ngang chừng phân nửa Facebook? Trong khi đất nước có hàng vạn vạn giáo sư tiến sĩ, có hàng trăm kênh thông tin, con dân VN lại dựa vào một kênh thông tin của một người ngoại quốc để bày tỏ thất tình: hỷ, nộ, ái, ố, dục, lạc, bi ai?

Khi ca ngợi Facebook tôi có cảm giác tội lỗi với Nhân Dân, một kênh thông tin mà tôi, và có lẽ hàng chục triệu người VN khác, không biết mặt mũi nó dài ngắn, xấu đẹp thế nào. Tôi yêu nước Việt nhưng không yêu Nhân Dân vì nó xa lạ với tôi quá thể. Tôi không yêu nước Mỹ nhưng tôi yêu Facebook vì nó gần gũi với tôi quá đỗi. Đó là bi kịch của tôi – một công dân Việt Nam.

Monday, February 7, 2022

Hãy cho tôi biết



Có người nói hãy cho tôi biết bạn chơi với ai, tôi sẽ nói bạn như thế nào. Có người nói lên facebook là kẻ vô công rỗi nghề. Tôi nói, qua facebook tôi có thể hiểu người, dù chưa cặn kẽ, bởi đó là thế giới, là cuộc đời, là con người thật, dẫu đó là thế giới ảo, cuộc đời ảo, và có khi con người ảo.
Tôi muốn được gần gũi, tôi muốn thân tình. Tôi muốn được sẻ chia. Tôi muốn được hiểu thấu. Tôi muốn được bao dung, yêu mến, và hiểu nhau qua tranh cãi, thậm chí qua chống đối nhau.
Tôi đâu có điều kiện để đến với người tôi quí mến khi họ xa tôi hàng chục ngàn dặm, và có người chẳng bao giờ gặp mặt; nhưng tôi vẫn yêu mến họ qua những câu chuyện, tâm tình, hình ảnh họ đăng mỗi khi lên mạng.
Hãy tưởng tượng một ngày nào đó, Facebook biến mất, bạn và tôi như những người bơ vơ, lạc lõng, có được hỏi han nhau mỗi ngày không? Có chia sẻ cho nhau vui buồn hờn giận?
Tôi ước muốn: Phải chi đừng có facebook, cuộc đời chúng ta sẽ...khổ hơn, không?

(Bài 3 năm trước)

Sunday, February 6, 2022

Tu viện Vĩnh Nghiêm quận 12



Hòa thượng Thích Tâm Giác “khai sơn” năm 1971 nhưng đến năm 2009, tu viện mới được xây dựng sau 10 năm xin phép đủ các loại giấy tờ. Thượng tọa Thích Giác Dũng được tổ đình giao việc xây dựng cũng hơn 10 năm với sự phát tâm đóng góp hằng sản của mẫu thân và anh em trong gia đình cùng với tăng ni Phật tử xa gần tiến cúng.
Tu viện nằm kế nghĩa trang Vĩnh Nghiêm; cả hai khuôn viên chiếm gần hết một con đường dài hơn 300 mét. Thiết kế chính của chùa như hình chữ H; Phật điện gồm tiền điện, chánh điện, hậu điện. Tiền điện gồm 7 gian với hơn 30 cánh cửa gỗ quý chạm khắc tinh tế, sắc sảo. Bên trong, đập vào mắt là các cột gỗ cao hơn 5 mét, vòng thân một người ôm không hết. Chánh điện gồm có chín gian, hẹp hơn tiền điện nhưng dài hơn, cũng gồm các cột gỗ uy nghi sừng sững. Nơi này có sàn gỗ bóng làm chỗ chiêm bái, quỳ lạy của thiện nam tín nữ. Hậu điện có chiều dài gần bằng tiền điện, hai bên thờ các vị thần áo mão như các vị quan thời xưa, vị nào cũng có hàm râu (đen) giống nhau, và đôi mắt không nhìn thẳng mà hơi nhìn xuống có vẻ không quan tâm một số người nhìn lên khấn vái.
Đặc điểm trong ngôi chùa: không có chỗ thắp nhang cho tín hữu hay du khách, một điểm hay, không khí trong lành không ngọt ngạt khói hương. Thỉnh thoảng có một tiếng chuông ngân nga nhè nhẹ hòa nhịp theo lời tụng (ghi âm sẵn) làm không khí trang nghiêm càng trang nghiêm hơn, tĩnh lạng càng tĩnh lặng hơn, khoan hòa càng khoan hòa hơn. Trang trí bên trong không dày đặc hoa trái như một số ngôi chùa khác.
Khoảng không thinh lặng có lẽ là mục đích của công trình sư xây dựng tu viện này. Chùa có đặt một chỗ duy nhất hai hòm công đức nhỏ bên bàn thờ chính điện, các chỗ khác không thấy, như một số chùa tôi viếng thăm, chỗ nào thuận thì sừng sững thùng quyên tiền bá tánh.
Ngày Xuân ở đây, khách vãng cảnh chùa, thiện nam tín nữ, không phải chen chúc nhau bỏ tiền vào thùng Phước Sương để rút những lá xăm, lá quẻ xem kiết hung năm mới. Cũng không có những chỗ đặt bàn giải quẻ, tán xăm, các tín hữu ngồi quanh, kẻ thì hớn hở khi gặp quẻ cát, người thì âu sầu khi gặp quẻ hung. Cảnh chùa ồn ào nhộn nhịp.
Tôi ấn tượng nhất ở ngôi tu viện này là, trên những chiếc cột cao có những câu tiếng Việt ghi lời của Phật hoàng Trần Nhân Tông. Tôi không thấy hàng cột nào có những chữ Hán như một số ngôi đình, ngôi chùa khác.
Đến ngôi chùa này, tôi có cảm giác thư thái, nhẹ nhàng, và suy nghĩ, mình đã hàm ơn vị tu sĩ lập nên ngôi chùa: đem lại cho những ai đến chùa phút giây tĩnh lặng trong một thành phố đua chen, bẩn chật bụi đường, tiếng xe cộ ngày đêm và quanh năm suốt tháng. Tôi chỉ tiếc một chút: ngay cổng tam quan có các cô gái đứng bên sào bán áo dài để vào chùa đảnh lễ, giá cả ghi rất rạch ròi 200 ngàn một áo. Không rõ mua rồi đứng chỗ nào để thay, để mặc. Và về mặt “phong thủy” ít có gia đình nào phơi áo trước cổng nhà nói chi đến một ngôi chùa uy nghi bề thế như tu viện Vĩnh Nghiêm.

Saturday, February 5, 2022

Tắm xuân




Đón Xuân, chơi xuân, ít ai tắm Xuân. Miền Bắc đón Xuân trong không khí se lạnh, có khi giá rét. Miền Trung có không khí Xuân ấm cúng pha chút lành lạnh. Miền Nam đón Xuân trong nắng nóng; có người gọi “nắng ấm” cốt để “an ủi” thôi.

Tắm Xuân đối với dân Sài Gòn là tắm biển. Có thể ở Vũng Tàu, gần hơn, có khi Cần Giờ. Nước biển cạnh rừng đước, tràm đầy nhóc khỉ, không trong trẻo lắm. Dưới bước chân khách tắm là lớp cát pha bùn hay lớp bùn pha cát, không rõ, nước biển có màu ngà ngà như nước hến chợ Đông Ba.

Những người không thích tắm Xuân ở biển thì tắm Xuân ở hồ, suối. Suối Mơ ở Đồng Nai là địa điểm tắm lý tưởng. Nước tắm ở đây chảy ra từ các hốc đá của núi nên trong vắt và mát lạnh. Gần nguồn suối, người ta chèn nhiều tảng đá làm bờ mương dẫn nước vào các hồ tắm. Vì suối liên tục tuôn nước ra, rất dồi dào, các hồ bên dưới thiết kế theo địa hình cao thấp, hàng ngàn người tắm, nước vẫn trong mát.

Ai thích cảm giác mạnh có thể ngồi bên dưới các thác nước nhân tạo, thác này kế thác kia, theo đường vòng cung; nước bắn tung toé, trắng xoá, ở xa nhìn như nhiều thác Cam Ly (thời xa xưa) nằm kế nhau. Trong nước, trên lớp cát sạch bên dưới thác, từng đàn cá to bằng bàn tay chạy qua, chạy lại, quanh các tảng đá tròn, nhám, để ai không tắm có thể đi qua, chụp hình, ngắm thác; nhiều con cá chạy như muốn va vào chân người tắm. Có bạn trẻ nhào người theo chụp nhưng chụp hụt, khôn ngoan và rất là dạn dĩ, chúng bơi như tên bắn, có lẽ muốn vui Xuân với người.

Không khí oi bức của mùa Xuân miền Đông Nam bộ trở nên mát dịu nhờ những dòng suối mát lành trong vắt. Cùng tắm với trẻ em, thiếu niên, thiếu nữ, thanh niên, thanh nữ, các cụ ông cụ bà “thất thập cổ lai hy” chúng tôi cảm thấy như trẻ lại. Nhìn người tắm, nhất là các giai nhân (tất cả phụ nữ là giai nhân), người ta rất yêu đời, và qua đôi kiếng đen, lỡ có ngắm họ hơi quá đà, cũng không mang tiếng “ông già mất nết”, có ai thấy ánh mắt của U70 này đâu.
Tắm Xuân mà.