Friday, October 24, 2025

KHÔNG THỂ THÀNH CÓ THỂ.

Cái bắt tay của 2 cựu thù tại Singapore vừa qua gợi nhớ nhiều cái bắt tay lịch sử khác.

 Năm 1975, 2 chỉ huy tàu Soyuz Nga, Appollo Mỹ bắt tay nhau trong không gian. Bắt tay của 2 thủ lĩnh đối chọi nhau giữa Reagan và Gorbachev, mở đầu cho sụp đổ khối cộng sản, chấm dứt chiến tranh lạnh từ 1945.

 Những cái bắt tay hòa giải sau đó như: Rabin, thủ tướng Do Thái và Arafat thủ lĩnh Palestine; Mao Trạch Đông và Nixon, đã chia rẽ Trung Quốc với Liên Xô, chấm dứt thù địch giữa Mỹ và Tàu. Nữ hoàng Elizabeth bắt tay thủ lĩnh Bắc Ái Nhĩ Lan Mac Guinness, chấm dứt xung đột đẫm máu 2 bên, mà em họ của bà bị giết tại đó. Cái bắt tay cũng hết sức ngoạn mục giữa Raul Castro và Obama, chấm dứt mấy chục năm cách ly cấm vận Cuba.

Gần đây nhất là bắt tay giữa nguyên thủ Nam, Bắc Triều Tiên, hứa hẹn một tương lai hòa giải giữa 2 miền cùng một dân tộc.

Những cái bắt tay hòa giải giữa những bên coi nhau như kẻ thù không đội trời chung, khiến chúng ta chợt suy nghĩ: ước chi sau Geneve 1954, chủ tịch Hồ Chí Minh bắt tay tổng thống Ngô Đình Diệm, thống nhất 2 miền, để Việt Nam không phải mất đi mấy triệu sinh mạng, đất nước không bị tàn phá bởi vũ khí, bom đạn của Tàu, của Liên Xô, của Mỹ.

 Hậu quả chiến tranh vì thiếu những cái bắt tay lịch sử cho đến nay vẫn còn là một "cuộc chiến" khác, âm ỉ, giữa "bên thắng cuộc", và "bên thua cuộc".

Trẻ con thật khó nghĩ khi học lịch sử " chống Mỹ cứu nước". Những đứa trẻ cháu chắt miền Nam khi hỏi: ngụy là ai mà "ác" quá vậy ông nội? Ông nội lặng lẽ trả lời, "ngụy là ông đây", vì trước 1975, ông nội làm sĩ quan VNCH.

Người ta đã bắt tay nhau khép đi quá khứ, quên đi hận thù được mà chúng ta hiện nay lại không bắt tay nhau thực lòng hay sao? Bên ngoài chúng ta nói hòa giải nhưng tận trong tâm khảm, chúng ta có thực sự hòa giải không, khi hiện nay vẫn còn những chì chiết có khi cay độc giữa "bên thắng cuộc" và "bên thua cuộc". Người Việt Nam chẳng có đủ trí tuệ, đủ lòng bao dung để biến cái "không thể" thành "có thể" hay sao: Bắt tay nhau?

ĐẶC KHU KINH TẾ

Đây là mấy từ rất nóng. Nóng như hơ. Dân mạng, có lẽ mọi người dân, rất nóng với mấy từ này. Nóng không phải vì muốn phản đối đặc khu kinh tế như một số nước đã làm, ngay cả Mỹ. Nóng vì yếu tố Trung Quốc (dù dự thảo không nói là đặc khu cho Trung Quốc thuê). Nóng vì thời hạn 99 năm như một nhượng địa. Nóng vì có ông nghị tiến sĩ bảo ở Mỹ cũng có Chinatown (vị trí thức này nói chẳng trí thức tý nào, ai lại đi so sánh lờ mờ như vậy. Chinatown ở Mỹ cũng như Chợ Lớn ở Việt Nam, không phải đặc khu).

 Nếu trong dự luật cho phép Mỹ, Anh, hay một nước châu Âu nào đó thuê 99 năm làm đặc khu kinh tế, liệu dân chúng có phản ứng như bấy lâu nay hay không? Chắc có, nhưng không bằng như mấy hôm nay. Hồng Công phồn thịnh ngày nay cũng "nhờ" là "nhượng địa" cho người Anh gần 100 năm.
 

Đặc khu kinh tế là nên làm, dù quá trễ. Nhưng làm ở vị trí nào, khả năng ai sẽ thuê, đó mới là cái đáng bàn, chứ không phải chỉ bàn cãi về luật.
 

Có 2 lý do để chọn làm đặc khu kinh tế: một, nơi nào nghèo khổ quá, chó ăn đá gà ăn muối, cần thu hút nhà đầu tư đến để xây dựng hạ tầng, kinh tế vùng đó phát triển, lan tỏa ra các vùng khác. Hai, vì muốn mở rộng điều kiện làm ăn, nghĩa là "cởi trói" quy định về cơ chế, cần tạo thông thoáng, tự do hơn những vùng còn lại.
 Vân Phong, Vân Đồn, Phú Quốc có phải là những vùng nghèo khó không? Chắc là không. Những nơi đó nếu có chính sách thông thoáng sẽ hái ra tiền dài dài mà chẳng phải ngay ngáy lo an ninh quốc gia khi có ai đó mang theo ngài Tôn Tử, thuê gần 100 năm, cửa ngõ thuận lợi vừa lên bờ, vừa ra biển.

 Mà tại sao đặc khu lại phân ra 3 miền? Nhà chức trách chắc muốn "vùng nào" cũng có đặc khu để ... cùng giàu như nhau? Hay vì "anh có, tôi cũng có" để khỏi so bì? Tư duy "ba miền" thực sự ăn sâu trong đầu óc chúng ta cũng ảnh hưởng từ thực dân Pháp, đã chia nước ta thành "3 nước" Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ.  Cũng do muốn kéo ông miền Trung nghèo khổ lên mà chúng ta đã có kinh nghiệm đắt giá về Dung Quất, khu lọc dầu ở rất xa nơi có dầu thô, và xa nguồn nhân lực.

 Có kẻ bảo Trung Quốc họ giàu nhờ đặc khu kinh tế. Có thể đúng. Nhưng sao họ không chọn Thượng Hải, hay Thiên Tân mà chọn Thâm Quyến vì đây là vùng nghèo mạt, toàn là dân chài khốn khó, và chọn rất sớm khi cả nước họ đang làm "công xã nhân dân".
 

Phú Quốc là một thiên đường nếu biết khai thác, đợi chi đặc khu. Đặc điểm thứ hai để chọn làm đặc khu kinh tế là cơ chế thông thoáng. Liệu chúng ta đang quá khép chặt hay sao? Samsung đâu cần cơ chế cởi trói vẫn mang lại thu nhập hàng đầu cho Việt Nam. Còn tuyên bố "một đồng mang lại trăm đồng", "lót ổ cho phượng hoàng đẻ", không phải là tuyên bố cân nhắc của một chính khách cẩn trọng.

 Người giàu họ đâu có khờ như ta nghĩ. Ai đem cho ta tiền dễ dàng như thế. Nếu có đặc khu là có tiền, sao bây giờ mới nghĩ tới, các nước nghèo sao không thi đua "nước nước" làm đặc khu, "tỉnh tỉnh" làm đặc khu. Lót ổ cho phượng hoàng đẻ mà không sợ tu hú sao. Ca dao: "Uổng công cà cưỡng tha mồi. Nuôi con tu hú lớn rồi (nó) bay đi".
 

Bàn cãi nếu quý vị còn sung sức, hãy bàn cách thế nào một đặc khu kinh tế sẽ không thể trở thành một nhượng địa cho một xứ sở chẳng đủ đàn bà để làm vợ.
 Bàn bạc không kỹ, mai đây họ đến ở, tha hồ cưới vợ, tha hồ đẻ con, nhờ quy chế đặc khu, họ tự do sinh sống như nước của họ. Formosa còn là ví dụ. Nhà nước địa phương năm có sự cố đã không thể dễ dàng ra vào khu họ ở nếu không được phép.
 Chẳng còn chỗ trang trọng cho quý vị ngồi để bàn việc quốc gia đại sự nữa đâu nếu không suy nghĩ kỹ lưỡng ngay từ bây giờ.

 

HÀ NỘI SẼ ĐUỔI KỊP HONG KONG, SINGAPORE.

Đó là tít báo Tuổi Trẻ online đưa tin về một hội nghị tổ chức ngày 17 tháng 6 năm 2016 tại Hà Nội, lời phát biểu của thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc. Báo giật tin có đúng ý ông thủ tướng hay không khi có mấy dòng trích cụ thể trong báo: "Hà Nội đặt ra 1 số tiêu chí trong môi trường kinh doanh đuổi sát Singapore, Hong Kong trong 4 năm tới...Tôi nghĩ Hà Nội hoàn toàn làm được".

Ước muốn chính đáng.
 Ước muốn thì ai cũng có. Những người cách mạng tiền bối đã du nhập chủ nghĩa cộng sản về Việt Nam cũng ước muốn người dân Việt Nam thoát ách thực dân, có cuộc sống ấm no, bình đẳng, người không bóc lột người. Đảng cộng sản Việt Nam cũng ước muốn năm 2020 nước ta sẽ trở thành cơ bản là một nước công nghiệp hiện đại, tiên tiến.

Khi vào lãnh nhận chức bí thư thành phố Hồ Chí Minh, ông Đinh La Thăng cũng ước muốn sẽ có 1 giải Nobel y học cho thành phố lớn nhất nước. Ông Nguyễn Thiện Nhân cũng ước muốn thành phố nầy sẽ là thành phố thông minh.

Tất cả ước muốn của các cấp trên cao lẫn dưới thấp như chúng ta đều chính đáng. Nhưng liệu những tuyên bố ấy có thành hiện thực không, đó mới là quan trọng.

Năm 1960, Kennedy đến dự một buổi lễ tổ chức tại NASA, cơ quan hàng không và không gian Hoa Kỳ, phát biểu: 10 năm nữa chúng ta sẽ cho người đổ bộ lên mặt trăng. Và năm 1969, Apollo đã đưa Armstrong lên chị Hằng cắm cờ ở đó.
 Kennedy là tổng thống, ông phát biểu hẳn phải dựa vào nghiên cứu tỉ mỉ của các nhà khoa học mới dự báo chính xác như vậy.

Ngay cả một thường dân Mỹ cũng thận trọng khi nói chuyện ngày mai. Tôi đơn cử: Trong bộ sách giáo khoa English for Today dùng ở miền Nam trước 1975, cuốn Our changing world, (Thế giới đổi thay), bài nói về computer, máy vi tính, đã dự báo (sách xuất bản khoản năm 1965): Tương lai máy vi tính sẽ chơi được cờ, sáng tác được nhạc. Đoạn nói về viễn thông (telecommunication), họ đã dự báo tương lai mọi người trên trái đất sẽ nói chuyện với nhau qua một thiết bị lớn bằng bao thuốc lá, nay chính là chiếc điện thoại di động đó, thưa quý vị.

Dự báo của một tác giả trong một cuốn sách giáo khoa không nhất thiết chính xác như dự báo của một vị tổng thống nhưng cả hai dự báo đó chắc chắn đều đã dựa vào những nghiên cứu cẩn trọng của những nhà khoa học Hoa Kỳ làm việc thầm lặng ngày đêm.

Lúc học tới bài này, học sinh và cả thầy chúng tôi đều cười: Mấy “thằng” Mỹ này hãnh tiến, cái gì cũng khoe "nhất thế giới". Làm gì có chuyện máy biết chơi cờ, sáng tác nhạc, làm gì mà xa hàng trăm ngàn cây số nói chuyện được với nhau qua một thiết bị trong bàn tay.

Nhưng giờ thì tôi cũng phải tự cười tôi. Bọn đế quốc này dự báo cũng...OK đó chứ.
 "Hà Nội sẽ đuổi kịp Singapore, Hong Kong trong vòng 4 năm nữa" sẽ thành hiện thực để đám "rỗi hơi" không còn " hả hê" châm biếm tràn lan trên mạng nữa.

 Tôi cũng tin tưởng ước muốn thật lòng đó của các vị lãnh đạo đất nước, duy chỉ có một ý này. "Hãy bắt đầu từ cái nhỏ nhất", ví như dẹp những bảng quảng cáo che khuất tầm nhìn, dọn dẹp hè phố thông thoáng, dành lối cho người đi bộ, chỉnh trang trật tự đô thị, rác phải có thùng đựng, mà một vị phó quận lớn nhất Sài Gòn đã thề thốt quyết làm bằng được nhưng chẳng làm xong, bực tức đến nỗi đòi cởi áo từ quan.

Tôi vốn không hâm mộ mấy vị tổ cộng sản, nhưng thấy ông này nói có lý: "Hãy bớt đi những lời hoa mỹ mà làm thêm những việc tầm thường mỗi ngày" (V.I. Lê Nin).

TỰ SƯỚNG

Mỗi sáng, sau khi đọc tin tức, ghé vài trang web yêu thích, tôi thường lướt chút đỉnh Facebook, cho vui.

Sáng nay, trên timeline, chú Mark, ông chủ mạng nhắc:
 "Hi, Long (tên lót, tôi tên Chiến), bạn hãy tận hưởng những giây phút tự sướng ngày hôm nay đi". A, ông ngoại quốc này muốn nói selfie đây.

Nhưng người Việt ta cũng dùng từ "tự sướng" rất nhiều, thậm chí cây gắn phone chụp hình thì gọi " gậy tự sướng"(gậy nầy gợi nhớ gậy kia), nên Tây nó bắt chước theo, để nói "tự chụp hình".

“Ông nội tự sướng đi. Bà nội tự sướng đi." Nếu cháu nội mà nói với ông bà như vậy chắc sẽ bị đánh đòn nếu ông bà nghĩ ngợi "lôi thôi", khi nghe câu đó. "Tự sướng", nguyên là từ diễn tả động tác "thủ dâm", handsex bên cạnh oral sex (khẩu dục), và sex qua đường tình dục.

Tiếng Việt rất tinh tế trong biểu đạt và rất dễ nhầm lẫn nếu không phải chính người Việt nói với nhau. "Thằng chó, mầy chui đi đâu bấy lâu mà bây giờ mới chường  mặt ra" hoàn toàn thân mật khi hai người bạn thân lâu ngày gặp nhau. Nhưng bạn nói câu đó với một người thanh niên mới quen e rằng sẽ không còn răng ăn cơm, nhai thịt, vì đó là câu nói hết sức xúc phạm.

Chúng ta là một đất nước lắm có lắm "kẻ ngoại xâm", từ Mông, Tàu, Nhựt, Pháp rồi Mỹ. Ngôn ngữ được làm giàu rất nhiều nhờ diễn đạt những khái niệm, những   tên gọi, trước đó mình không có, do nền văn hóa, văn minh của mấy "đứa xâm lược" mang lại.

Không kể từ có gốc Hán, đầy dẫy, chỉ kể sơ Tây thôi nha: xì-gà để chỉ cigare (thuốc lá quấn), ga để chỉ gare (nhà ga), tăng xông (lên máu, lên huyết áp) để chỉ tension...Mỹ nha: Ô kê (Okey, OK) là được, tốt; Năm-bờ-oanh (number one) là nhất; meo là mail (thư), pót là post (đăng), chát (tám) là chat ; tút là status; phây là facebook (hổng phải pha-tê-bốc" đâu nghe)...

Và ngôn ngữ ta đã Việt hóa rất nhiều từ ngữ phương Tây để làm giàu tiếng Việt.

Tại sao các bạn trẻ không nói seo-phi, selfie, hay "tự chụp" mà nói "tự sướng", lũ già chúng tôi đỏ mặt ngượng ngùng quá.

Tôi sẽ ví dụ từ tự sướng cụ thể trong đoạn văn sau: "Phụ nữ bây giờ rất xinh, rất nhiều, đàn ông bây giờ đẹp trai, khỏe mạnh không thiếu, hai giới cũng rất cởi mở chuyện luyến ái, hãy tìm nhau mà yêu, tội chi mà "tự sướng" cho dễ sinh thói quen không tốt, và có thể gây bệnh tật". Quý bạn thấy sao?

Thursday, October 23, 2025

CÔ GIÁO CỦA TÔI

Thực cũng đại ngôn một chút. Tôi không phải là học trò duy nhất được cô yêu mến lúc còn đi học tiếng Anh thời trung học, Trần Quý Cáp Hội An từ năm 1969.
Tôi chỉ đáng là học trò của học trò cô. Sau này vào Sài Gòn cô giảng dạy tiếng Anh cho các vị sư bằng cấp đầy mình.

Cô viết sách tiếng Anh như cuốn Buddhism through English reading, Phật giáo qua bài đọc tiếng Anh, và dịch nhiều sách Phật từ tiếng Anh sang tiếng Việt. Nhưng tôi vẫn coi là cô giáo của tôi vì tôi luôn kính trọng, yêu quý cô: cô đã cho tôi những bước chân vững chãi chuẩn bị vào đời.

 Hình ảnh của cô đối với học sinh chúng tôi đều ấn tượng như nhau. Cô xinh đẹp, cao ráo, quý phái, thông minh, đặc biệt là nghiêm nghị. Cô rất ít cười khi vào lớp nhưng khi cô cười chắc phải có cái gì đó vui lắm, cả lớp cũng phải cười. Nghiêm nghị nhưng không hề khắt khe. Chẳng bao giờ chúng tôi nghe cô to tiếng chứ đừng nói quát tháo học sinh dù không thiếu những thằng quậy phá. Giờ học của cô trôi qua rất nhanh, cô dạy rất hay. Mỗi tuần ba bận, chúng tôi luôn mong đến giờ dạy của cô.

Tại cô đẹp, quý phái nên bọn con trai vừa qua tuổi dậy thì luôn mong muốn được nhìn thấy một hình mẫu phụ nữ tuyệt vời như cô chúng tôi chăng? Suy nghĩ đường đột nhưng e có phần tha thứ được. Cạnh tôi có một bạn, tôi không tiện nêu tên, trên vở hắn toàn ghi tên Phương Lan, Phương Lan chi chít, đến nỗi tôi ái ngại nhắc nó chớ để cô thấy và đừng có nhìn cô chằm chặp như một kẻ si tình, cô biết thì chết. Mà nó chẳng chịu nghe. Trò yêu thầy, học sinh yêu cô giáo là có nhưng đối với đa phần chúng tôi, tình cảm " mông lung" đó chắc không có với cô, một con người cao quý chúng tôi luôn quý trọng.

 Chúng tôi yêu mến cô còn vì cô có hoàn cảnh mà lúc đó chúng tôi nghe phong thanh chứ không nghe đích thân cô kể. Cuộc sống tình cảm của cô chỉ còn dành cho mỗi cô con gái, nghe đâu cô ly thân, thỉnh thoảng cô dắt đến trường, tung tăng với bím tóc cài hoa vải đỏ, trong bộ đầm màu hồng nhạt, xinh xắn. Chồng cô là một bác sĩ giám đốc bệnh viện, tài năng bậc nhất về y tế lúc đó tại tỉnh Quảng Nam.

Nghĩ cô chúng tôi và vị bác sĩ đẹp trai, hào hoa kia sống ly thân, nên chúng tôi thấy...ghét ổng quá, "dám" làm cô chúng tôi đau khổ. Đến nỗi, mỗi lần có pháo kích ban đêm vào thành phố, người ta thấy ông bác sĩ " đáng ghét" kia lái xe jeep chạy khắp ngả đường chở người bị chết, bị thương về bệnh viện cấp cứu. Chúng tôi nghĩ: à, ông ta chắc theo...Việt cộng ( lúc đó chúng tôi rất sợ), chạy xe để chỉ điểm cho họ pháo kích đây. Yêu quý cô mà đâm ra ghét chồng cô, thiệt là suy nghĩ trẻ con. Ai mà đi dưới làn pháo đang nã bao giờ, chỉ vì lòng nhân đạo, muốn cứu người bị nạn kịp đến bệnh viện trong khi mọi cư dân thành phố đã yên vị dưới những bao cát chất thành hầm tránh đạn. Một hành động nghĩa hiệp hiếm có của một bác sĩ thời chiến tranh.

Lòng yêu mến cô càng sâu đậm khi sau này, chúng tôi biết thêm người con gái duy nhất của cô, đã về cùng cát bụi khi tuổi còn quá đỗi thanh xuân , nắm tro cốt gởi về một ngôi chùa xa xôi, vắng vẻ.

 Tôi áy náy đã nói đến đời tư của cô nhưng không thể không thương cảm khi nghĩ đến những nghịch cảnh cô phải trải qua.  Riêng tôi, tôi yêu mến cô còn một lẽ hoàn toàn cá nhân. Cô khuyên tôi trong 1 dịp, rất may được cô nói chuyện, vì cô hầu như không tiếp xúc với ai. Khi thấy tôi và một bạn học khá môn tiếng Anh, cô đã dặn tôi mấy điều, có lẽ cô nghĩ tôi và bạn ấy có thể theo nghiệp của cô sau này: sư phạm.  Và đúng là như vậy. Bạn tôi ra Huế còn tôi vào Sài Gòn, cả 2 đều đậu sư phạm " ngành huấn luyện giáo sư trung học đệ nhị cấp" (giáo viên cấp 3, dạy cấp nầy gọi là " giáo sư", lương tương đương phó quận trưởng thời đó).

Cô bảo tôi cố gắng tập nghe radio tiếng Anh( chương trình VOA Special English), và tập đọc sách tiếng Anh. Trời, tôi than thầm, mới lớp 10 mà nghe đài, đọc sách sao nổi. Radio thì có sẵn, (máy cassette rất hiếm, không dễ gì mua để luyện nghe) tôi lõm bõm tập nghe, rất mệt mỏi nhưng nghe cô khuyên cũng cố, dù tốc độ phát thanh chậm, và câu cú ngắn.

 Cô còn chỉ cho tôi cuốn The old man and the sea, (Ngư ông và biển cả) trong thư viện của trường. Tôi nghiền ngẫm cả tháng chưa xong, vì vừa đọc vừa đối chiếu bản dịch tiếng Việt chỗ nào không hiểu.

Mà thật, lúc vào đại học Sài Gòn, một học sinh tỉnh như tôi thi đậu vào cái lớp tiếng Anh duy nhất, non 40 người, toàn sinh viên ưu tú miền Nam thời đó, đa phần xuất thân từ trường Pháp, nói tiếng Anh cũng như gió như tiếng Pháp.

 Nhờ cô định hướng mà tôi có chút vốn vào lớp học, cả ngày không được nói tiếng Việt, học với các thầy tốt nghiệp tiến sĩ ở Mỹ, ở Anh, và ngay cả thầy người nước ngoài.  Các bạn tha thứ cho tôi hơi khoác lác chỗ này vì tôi muốn ghi nhớ một cô giáo mấy chục năm trước, đã dạy tôi một điều quý giá: tự học, làm một cái việc không hề dễ dàng cho 1 học sinh lớp 10" nghe đài, đọc sách" trong một thành phố " nhà quê" so với " đô thành Sài Gòn" dù bây giờ học sinh mẫu giáo cũng nghe và nói tiếng Anh trôi chảy, một việc rất hiếm thời đó, học sinh, thầy giáo chỉ "học chay", "dạy chay" vì chiến tranh.

Tôi không thành công như một số bạn, có đứa tiến sĩ, đứa hiệu phó đại học, đứa làm giám đốc sở, tỉnh ủy viên...Tôi thành công ở chỗ dù không phải "phó tiến sĩ" chỉ là "phó thường dân", luôn luôn tự học, suốt mấy chục năm rời trường, già vẫn học, đến con cháu cũng ngạc nhiên, cái môn mà cô giáo của tôi cô Trần Phương Lan đã động viên hơn nửa thế kỷ trước.

Đôi khi tôi tự hỏi: có phải vì yêu mến cô mà tôi yêu mến môn tiếng Anh hay không?  Chắc là cả hai.

LẠI PHẬN ĐÀN BÀ

("Đau đớn thay phận đàn bà", Nguyễn Du)

“Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”.



Cụ Tú Xương thương cảm nói về nỗi cơ cực của vợ mình nhưng cũng là nói về nỗi cơ cực của người phụ nữ Việt Nam.

Sinh ra một bé gái có khi không phải niềm vui mà là nỗi thất vọng của những gia đình đang muốn có một đứa trai để nối dõi tông đường.

Phụ nữ đã gắn vào mình số phận bất bình đẳng khi cất tiếng khóc chào đời. Phong kiến ngàn năm đã hằn sâu trong đầu óc con người Á đông, phụ nữ chỉ là cái máy đẻ, một ô shin cần mẫn không tốn tiền thuê.

“Lại con gái, lại một vịt giời, ”. Chắc có người buồn bã pha bực tức thở ra khi đón một sinh linh nữ không mong muốn sắp bước vào đời.

Khổng Tử học vấn uyên bác nhưng thật bất công, ông ta nhận xét: “phụ nhân nan hóa” (đàn bà khó giáo dục lắm). Ngài cũng bị cho là tác giả mấy câu phân biệt giới tính: "Bất hiếu hữu tam vô hậu vi đại" (trong ba tội bất hiếu, không người nối dõi là lớn nhất). Hay “nhất nam viết hữu thập nữ viết vô” ( một trai kể là có mười gái kể như không. Câu này chắc mấy đồ nho bịa ra chưa hẳn của Khổng Tử).

Truyền thống thì như thế nhưng ngôn ngữ, một bộ phận văn hóa, đâu thua, trong vấn đề trọng nam khinh nữ. Chê ai hẹp hòi ích kỷ thì gọi “tính như…đàn bà”. Đi làm việc gì mà gặp thất bại thì la lối “sáng ra đã gặp đàn bà, xui quá”. "Phụ nữ đái không qua ngọn cỏ". Phụ nữ đến kỳ kinh nguyệt các cụ không cho lên nhà trên, nhất là cấm bước qua bàn thờ.

Đừng nói ở Á đông ảnh hưởng Nho giáo nghe. Hồi Giáo có biết Nho giáo là chi. Phụ nữ vừa rồi ở Ả rập Saudi mừng tí tửng, như thắng cá độ đá banh, khi được cho phép…lái xe hơi, sau mười năm tranh đấu với chính phủ trong khi thế giới có ai cấm phụ nữ lái xe đâu. Đó là chuyện nhỏ.

 Chuyện lớn hơn. Có nước còn cấm trẻ em gái đến trường. Ra đường phải che mặt, có giám hộ là đàn ông đi kèm. Không được mở tài khoản ngân hàng. Không được ra nước ngoài khi người giám hộ (cha, chồng) không cho phép. Ngoại tình (như không chồng, quan nghệ người có vợ) có nơi còn bị ném đá đến chết, trong khi đàn ông, luật pháp cho phép cưới tới ba bà vợ. Có chỗ (rất ít) khi đến tuổi nào đó, trẻ em nữ bị đè ra cắt tiểu âm thần (chỗ nhạy cảm nhất ở bộ phận sinh dục), có trường hợp tử vong do ra máu quá nhiều, được thực hiện bởi người thân không am hiểu y tế.

Thôi, đó là chuyện do con người chứ chuyện ông trời mới đáng nói. Trong Sáng thế ký (sách cựu ước) Kitô giáo, Chúa Trời nặn đất rồi hà hơi tạo một người Nam. Sống trong vườn địa đàng vẫn cảm thấy buồn bã. Ngài chợt nhớ ra “a, chàng Nam này cần phụ nữ rồi”. Ngài bèn rút một cái xương sườn của người đàn ông và làm nên người nữ. Một lần dạo chơi thấy cây táo sum suê những quả đỏ mọng (đã được dặn cấm hái) người Nữ nghe lời sa tăng xúi dục “ăn trái nầy sẽ thông thái như Chúa” bèn hái xuống mời người Nam. Lúc bị quở phạt, chàng Nam kia chỉ người nữ và nói “tại cổ xúi tôi”.

Đó, mới xuống thế đã “ép” người (nữ) quá đáng. Thuở hồng hoang đã bất công rồi, huống hồ chi đến nay. Nhưng có phải chỉ mỗi ăn táo đâu, người nữ còn một nhiệm vụ nặng nề, đó là sinh đẻ. “Mang nặng đẻ đau” chín tháng mười ngày chứ phải đâu vài hôm thì chẳng nói làm chi. Đàn ông phải chi được tạo hóa cho thêm chức năng mang bầu để họ cảm thông nỗi đau của người phụ nữ.

Ngay cả chuyện nhà, những việc đàn ông ai làm không được, phụ nữ cũng “giành” làm hết. Không thiếu cảnh ăn xong, bận dọn dẹp thì ông chồng đã tót lên sô pha, xỉa răng, phì phèo điếu thuốc, có ông không quên bảo vợ rót ly nước trà, vô tư reo hò “cùng World cup”.

Một điều xót xa khi một số phụ nữ nghĩ họ sinh ra là để đẻ, để nuôi con, để làm việc nhà, để phụng dưỡng chồng con. Tôi thỉnh thoảng tham gia rửa chén. Gặp chị bạn đến chơi. Chị bảo “chớ bà xã đâu mà anh phải rửa chén”.

“Phụ thuộc” dường như là “căn tính” của phụ nữ sao? Có người bảo phụ nữa bây giờ không như tôi nói như vậy đâu. Họ có nhiều tự do lắm. Tự do lắm là tự do thế nào? Các cô có dám ngồi nguyên một ngày để uống bia, hút thuốc tán gẫu không? Các cô có dám đến những nơi nhạy cảm để "ăn phở", vì đã ngán "cơm" quá không? Các cô có dám ban đêm đi sớm, về trễ như các ông bù khú bên ngoài, hay là phải thức đến khuya, thấp thỏm chờ cửa đợi chồng về, còn không dám gọi điện hỏi chừng xem ổng đã về hay ngã xe đâu đó, còn e sợ làm thế “sẽ mất mặt chồng”?

Có những chị can đảm, nhưng tôi cam đoan rất ít. Nghĩ đến con, đến gia đình, họ cam chịu tất cả.

Những ngày kỷ niệm tôi thấy chỉ dành cho phụ nữ chứ không dành cho nam giới. Tuyên dương bà mẹ Việt Nam anh hùng, không có ông cha anh hùng. Như thế là vinh danh phụ nữ ư? Đúng nhưng trong 365 ngày, các đấng mày râu tặng hoa cho các chị phụ nữ được mấy lần? Ngày phụ nữ rửa chén cho họ tôi thấy ý nghĩa hơn tặng hoa. Tôi không phủ nhận sự vinh danh phụ nữ nhưng muốn nói nói rằng vinh danh như vậy chưa đủ, chưa đáng sự hy sinh của họ cho gia đình, cho xã hội.

Ngay cả những chuyện tế nhị, người phụ nữ cũng thiệt thòi. Xưa, đàn ông thì “năm thê bảy thiếp” (ác nỗi, “gái chính chuyên chỉ có một chồng”) nhưng, nay, có còn vậy không? Tôi cho là có nhưng dưới hình thái tinh vi hơn. Không kể một số quan chức biến thái nhờ tham nhũng, có những cô bồ đẹp hơn hoa hậu, thậm chí còn cất nhắc lên chức, làm những chức vụ béo bở. Phần đông đàn ông “đàng hoàng” còn lại có dám chắc mình trọn đời… “chung thủy” hay không? Nam giới có bồ nhí vỡ lỡ ra, xã hội còn châm chước (thậm chí được khen đào hoa) chứ nữ giới ngoại tình bị bắt được, xã hội lên án còn hơn lên án bọn khủng bố IS.

Tôi không cổ xúy ngoại tình. Tôi chỉ nhấn mạnh khía cạnh phán xét xã hội về một người nữ và một người nam trong tình cảnh đó. Có công bằng không?
Có rất nhiều trại giáo dưỡng nhốt những cô gái hành hề bán dâm.Tai sao cả nước tôi không thấy nơi nào nhốt mấy người mua dâm? Xã hội đã đối xử hết sức là phân biệt giới tính.

Chuyện bên ngoài là thế, chuyện thầm kín (như là phần thưởng của tạo hóa ban cho con người, tình yêu xác thịt) cũng không khá hơn. Liệu chúng ta có bình đẳng giới tính ngay trong chuyện thầm kín đó không? Tôi e là không vì không phải tất cả đàn ông đều biết điều đó. Có biết bao phụ nữ đã gọi đến radio trả lời chuyện thầm kín than vãn họ không được thỏa mãn chuyện chăn gối vì chồng chỉ lo cho xong phần mình còn phần kia, thây kệ . Tôi nghĩ không ít phụ nữ như vậy nhưng họ không dám nói ra vì nghĩ" chuyện đó" mà đòi hỏi là “tội lỗi". Nhảy lên giường ngủ như hổ đói, cắn xé con mồi, cho thỏa lòng ham hố, khát khao nhục dục, nhưng nếu hành động đó khởi đầu từ người vợ, chắc chắn trong đầu ông chồng xuất hiện câu “bà này điên rồi”.

Tôi muốn trao đổi với các bạn về vấn đề bình đẳng giới tính rốt ráo như thế để mong những đấng mày râu, ngoài những hoài bão vĩ đại như ngày nào đó sẽ sống trên một đất nước như Singapore, có những việc làm chỉ mong là nhỏ thôi, để thu hẹp khoảng cách bất bình đẳng nam nữ, giúp chúng ta cư xử yêu thương chân thật hơn với “phân nửa” cuộc đời mình.

Chừng nào khi sinh ra, trẻ con lấy họ mẹ, hoặc họ cha, tùy vợ chồng quyết định, nhà nước phải chấp nhận. Chừng nào đàn ông có thể sinh đẻ như đàn bà, cũng hành kinh mấy ngày một tháng. Chừng nào phụ nữ được đứng giữa đình mà làm chủ tế như bà Võ Tắc Thiên khi xưa bên Trung Hoa. Chừng nào biết rõ có bà Trời chứ không phải mỗi ông Trời. Chừng nào bà vợ đi xa, ông chồng ở nhà trông mong như trông mẹ đi chợ. Chừng nào người vợ đá được ông chồng té ngửa vì đã ôm sổ đỏ, xe hơi đi cá độ đá banh chứ không phải ngược lại. Chừng đó sẽ có chuyện bình đẳng nam nữ. Còn muôn đời thì không.

Nhưng nếu muốn giảm thiểu tình trạng bất bình đẳng giới tính, phụ nữ nên không cưới chồng, không “dây” cái của nợ kia làm chi. Còn đã lỡ yêu thì nên xét kỹ mới lấy, không vớ phải một ông “gia trưởng bẩm sinh” sẽ “héo cả đời hoa”. Trong từ điển tiếng Việt sẽ có thêm từ “phận đàn ông” chớ không phải “phận đàn bà” như đầu bài viết, lúc đó phụ nữ sẽ hoàn toàn được giải phóng.

TỰ DO NGÔN LUẬN

Nhà thơ Nguyễn Công Trứ:
"Thoạt sinh ra thời đà khóc chóe
Trần có vui sao chẳng cười khì"

Cụ nói về thế thái nhân tình, không nói về tự do ngôn luận. Mượn thơ cụ để diễn dịch thêm. Mở mắt chào đời là muốn ..."phát biểu", dù chỉ là oe oe mấy tiếng. Con người sinh ra đã có quyền "ngôn luận".

Thời đại internet tràn ngập, nói một tiếng, dù nói thầm, nói một mình, bên tây hay bên tàu, mấy giây là cả thế giới đều biết. Nó ảnh hưởng rất lớn, rất "khủng khiếp".
Nhiều người sợ hãi là đúng. Nhưng tôi thấy chẳng có chi phải sợ. Mà có lợi là khác nếu tiếng "thì thầm" kia là đúng, là chân lý.

Quốc gia, tôi nghĩ nôm na kiểu nhà quê, cũng như một gia đình. Tổng thống là ông chủ nhà, lãnh đạo một gia đình có con, có cháu, có dâu, có rể...đủ thành phần "giai cấp".

Ông chủ nhà vui vẻ, phóng đạt thì sẽ cho "bọn bay", tức những người dưới quyền thoải mái..."ý kiến", không có vùng cấm. Ông sai chỗ nào chỉ ngay chỗ đó. Dân chủ như rứa, chớ cũng có đứa, thằng rể chẳng hạn, muốn ly dị vợ, hay bất mãn chi đó, phê phán quá đà, vu cáo ông già vợ những việc bậy bạ, dùng những lời lẽ xúc phạm ( giống như nói xấu lãnh đạo), làm bẽ mặt ông chủ, không ra thể thống chi cả, "muốn nói gì cũng được, muốn chửi ai cũng được". Nếu ông chủ tức quá, lấy quyền cha vợ, tán nó mấy bợp tai. Chẳng có chi đáng trách. Ổng là "cha" mà. Muốn làm chi thì làm.

Nhưng nếu ông chủ không đánh, chỉ mang ông rể ra xử, lập một "tòa án gia đình" (không phải tòa án nhân dân đâu nghe), mọi người phán xét, lấy con gái lại, không cho làm vợ nó nữa, nếu thấy phạm tội quá nặng, (bị con bồ nhí bí mật kích động, phá hoại gia đình nhà vợ). Nếu có tội, anh ta sẽ tâm phục, khẩu phục.

Xin kể thêm câu chuyện tôi đọc đâu đó trong Sử ký Tư Mã Thiên (thì phải). Một tướng rất giỏi, nhiều công trạng, được Tần Thủy Hoàng cho làm vương một nước nhỏ. Nghĩ mình công trạng tày trời, ông tự sắm một cỗ xe ngựa, cờ phướn giống như thiên tử, một điều có thể là phạm húy, mất đầu như chơi. Chuyện đến tai vua. Vì là đại thần sủng ái, Tần Thủy Hoàng không nỡ giết, chỉ răn đe nhắc nhở.
Vị tướng nghĩ, trong đám tùy tùng của mình có kẻ mật báo, bèn ra lệnh cắt lưỡi tất cả, mọi người vẫn được cho hầu hạ nhưng đều câm lặng, phòng sau này chúng không tâu lén lên vua, vì ông biết phạm lần nữa, mình sẽ mất đầu.

 Lo xa không xuể, có quan tỵ hiềm với ông, sàm tấu với vua vị tướng sắp làm phản. Vua đích thân đem quân đến bắt. Ngoài sân dinh, quân sắp tràn vô, vị tướng giật mình, không kịp cầm vũ khí, dẫn một vài tùy tùng chạy trốn. Tức giận ông nạt bọn chúng tại sao không báo trước ông biếbiết. Họ lặng lẽ chỉ vào miệng, ý nói chiếc lưỡi đã bị cắt.

 Trước khi chết, ông ta hối hận, nếu không cắt lưỡi tùy tùng, biết đâu có thể chạy thoát vì ông ta rất giỏi võ.  "Cái lưỡi" quan trọng như thế nên cụ Hồ mới nói: "Dân chủ là mở mồm cho dân nói" (trong mồm có lưỡi).

 Nhưng dân chủ không hẳn muốn nói gì, muốn làm gì cũng được. "Mọi người đều có quyền tự do miễn quyền tự do đó không xâm phạm quyền tự do của người khác" (Tổng thống Mỹ Abraham Lincoln).