Monday, February 5, 2024

CANH BẠC CỦA TẬP CẬN BÌNH

Lời người dịch: Thể chế toàn trị với lãnh đạo độc tài tưởng vô địch nhưng hóa ra không. Đây là lý giải không mới,  nhưng đáng quan tâm, khi mọi đường lối phát triển đất nước VN đều dõi theo mô hình TQ -  một “Thiên Tử” của mấy ngàn năm trước. Khai thác "vinh quang" quá khứ (đánh Nhật trong nước, đánh Mỹ ở Triều - chưa hẳn đã thắng) để khích động chủ nghĩa dân tộc cực đoan là hành động nguy hiểm nếu "người cầm lái vĩ đại" bị hoang tưởng chính trị.

Tập cận Bình đang mang trên mình một sứ mạng. Cầm quyền cuối năm 2012, ông nhanh chóng củng cố quyền lực chính trị, tiêu diệt tham nhũng tràn lan trong Đảng (CSTQ), loại trừ kẻ thù cá nhân, khống chế các tập đoàn công nghệ, tài chánh một thời lừng lẫy, trấn áp bất đồng nội bộ, hùng hổ khẳng định ảnh hưởng TQ trên trường quốc tế. Lấy danh nghĩa, “bảo vệ lợi ích cốt lõi” của TQ, Tập ra mặt đối nghịch với nhiều nước lân bang, khiêu chiến với cả những nước ở xa – đặc biệt là Hoa Kỳ. Trong khi các vị tiền nhiệm tin rằng TQ nên chờ đợi thời cơ, coi tăng trưởng kinh tế nhanh chóng, từ từ mở rộng ảnh hưởng của TQ thông qua hội nhập chiến thuật vào trật tự toàn cầu đang có, thì Tập lại nôn nóng với tình trang hiện hữu (status quo), chấp nhận nguy cơ, và có vẻ phải cần cấp bách, không giấu ý định thách thức trật tự thế giới.

Tại sao ông ta gấp rút như thế? Hầu hết các giới quan sát đều đi tới một trong hai giả thuyết căn bản trái ngược nhau. Có người cho rằng Tập đang nỗ lực với nhiều mưu kế sáng kiến không gì hơn là để sắp xếp lại trật tự nào có lợi cho đảng CS. Người khác thì khẳng định ông ta nôn nóng nhận thấy hệ thống chính trị Lê-nin-nít lạc hậu và lỗi thời đang cố bám víu quyền lực. Cả hai lối giải thích đều có điểm đúng nhưng chẳng cái nào giải thích thỏa mãn lý do tại sao Tập có cảm giác phải nôn nóng.

Lối giải thích chính xác hơn: Những toan tính của Tập không quyết định vì khát vọng hay lo sợ của ông nhưng là quỹ thời gian. Nói gọn lại, Tập củng cố mạnh mẽ quyền lực và quyết tâm thay đổi hiện trạng bởi vì ông ta thấy 10 đến 15 năm ngắn ngủi, Bắc Kinh có thể tận dụng một loạt những biến chuyển công nghệ, địa chính trị quan trọng, giúp TQ vượt qua những thách thức nội tại to lớn. Tập thấy ra sự tích tụ của lực cản khốc liệt về dân số, sự trì trệ do cấu trúc kinh tế, những tiến bộ thần tốc về công nghệ số, và sự dịch chuyển dễ thấy trong cán cân quyền lực tách khỏi Hoa Kỳ, theo như cách ông gọi, “những thay đổi sâu sắc chưa từng thấy trong một thế kỷ”, đòi hỏi cần những hành động tức thời và táo bạo.

Bằng cách rút ngắn tầm nhìn xuống 10 đến 15 năm, Tập truyền vào hệ thống chính trị quốc gia một cảm giác tập trung sự kiên quyết, có khả năng giúp TQ vượt qua nhiều thách thức dai dẳng trong nước, mong đạt đến đẳng cấp là tâm điểm thế giới. Nếu Tập thành công, TQ sẽ định cho họ vai trò kiến tạo một thời đại đa cực đang trỗi lên, nền kinh tế sẽ thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình, khả năng công nghệ trong ngành chế tạo và quân sự sẽ cạnh tranh được với những nước phát triển hơn họ.

Tuy nhiên, tham vọng và thực hiện không phải như nhau, Tập đưa TQ vào một quỹ đạo nhiều rủi ro, đe dọa những thành quả các vị tiền nhiệm đạt được từ thời sau Mao. Niềm xác tín của ông - đảng CS phải trực tiếp điều hành kinh tế, Bắc Kinh phải khống chế lãnh vực tư nhân – sẽ hạn chế tăng trưởng kinh tế đất nước trong tương lai. Ông bắt buộc các đảng viên phải kiên định ý thức hệ chính thống (CS), phải bày tỏ lòng trung thành với ông, điều đó sẽ làm hại sự mềm dẻo và tính năng động của hệ thống quản trị. Sự chú trọng quá mức của ông vào việc định hình nới rộng an ninh quốc gia sẽ đưa đất nước vào hướng co cụm và hoang tưởng. Chủ nghĩa dân tộc cực đoan “Lang chiến” (Wolf Warrior) do ông phát động sẽ làm cho TQ hiếu chiến hơn và cô lập hơn. Cuối cùng, vai trò ngày càng độc tôn của Tập trong hệ thống chính trị TQ sẽ ngăn trở những cải cách chính trị và điều chỉnh đường lối, vấn đề tồi tệ thêm khi ông loại bỏ giới hạn nhiệm kỳ và muốn nắm quyền vĩnh viễn.

Tập Cận Bình tin tưởng ông có thể nhào nặn (mold) tương lai TQ như các hoàng đế Trung Hoa trong quá khứ. Ông nhầm lẫn tự tôn với tự tin – không một ai dám nói trái ý. Tình huống trong đó một lãnh đạo toàn quyền với quyết tâm sắt đá không có thể lắng nghe những sự thật trái tai là mồi ngon cho tai họa, lịch sử cận đại Trung Hoa chứng minh rất rõ ràng.

CON NGƯỜI VỘI VÃ

Nhìn lại, thời điểm căng thẳng của Tập trông rất rõ từ buổi đầu nhiệm kỳ. TQ quen với nhịp bước của vị lãnh đạo tiền nhiệm, chậm rãi và đàn bệ Hồ Cẩm Đào, nhiều người kỳ vọng Tập cũng sẽ theo bước, nghĩa là đặt trọng tâm nhiều hơn vào cải cách kinh tế. Tuy nhiên, trong vài tháng cầm quyền năm 2012, Tập cho sắp xếp lại bối cảnh chính trị và kinh tế trong nước. Trước tiên là thanh lọc Đảng từ cao xuống thấp. Đảng nhiều lần có khả năng chống chọi các cơn bão tố nội bộ, nhưng ngày càng bị áp lực từ trong thể chế. Tham nhũng trở thành tràn lan, dẫn tới bất mãn trong quần chúng, phá vỡ kỷ luật tổ chức. Chức vị trong Đảng thì tùm lum nhưng ngày càng nhiều những quan chức không cùng niềm tin với Tập về sự ngoại lệ của đảng CSTQ. Các chi bộ đảng trong doanh nghiệp nhà nước, công ty tư nhân, tổ chức phi chính phủ đều tê liệt và loạn xà ngầu. Các quyết định của cán bộ cấp cao thiếu phối hợp và không thống nhất. Bộ máy tuyên truyền của Đảng khốn đốn phát đi thông điệp đến tầng lớp dân chúng ngày càng thạo tin học và hồ nghi.

Tập cùng lúc xử lý tất cả vấn đề trên. Nội trong năm 2013, ông đề ra chiến dịch chống tham nhũng quy mô, phát động phong trào đến “tận cơ sở”, loại bỏ tư tưởng đa nguyên, ý thức hệ tự do ra khỏi suy nghĩ của quần chúng, công bố hướng dẫn mới hạn chế phát triển Đảng, đưa ra nhiều quy định ý hệ mới trong kết nạp đảng viên. Ông ta tin rằng, quy mô đảng không quan trọng nếu đảng không gồm những đảng viên thật sự trung kiên. Ông nhấn mạnh, khi Liên Xô trên bờ vực sụp đổ những năm đầu 1990, “về quy mô”, đảng CSLX có nhiều đảng viên hơn (đảng CSTQ) nhưng chẳng có một ai đủ sức, đứng lên chống đỡ.

Bước đi tiếp của Tập là nhu cầu khẳng định lợi ích TQ trên trường quốc tế. Tập lập tức cho bồi đắp đảo nhân tạo ở Biển Đông, thiết lập vùng nhận diện phòng không trên vùng đất tranh chấp biển Hoa Đông, lập quỹ Phát triển mới (gọi là ngân hàng BRICS), hé lộ dự án kiến trúc hạ tầng, sau này có tên “Sáng kiến một vành đai, một con đường”, và đề xuất thành lập ngân hàng Đầu tư cơ sở hạ tầng châu Á.

Tập tiếp tục dấn bước trên cái hiện trạng ở nhiệm kỳ đầu, không cho thấy dấu hiệu chùng xuống khi chuẩn bị bước qua cuối nhiệm kỳ hai. Việc củng cố quyền lực không ngừng nghỉ: ông không có đối thủ chính trị thực sự, hủy bỏ giới hạn cầm quyền, cài cắm các người thân cận và trung thành vào các vị trí chủ chốt. Các trung tâm nghiên cứu mới được lập ra, hết lòng nghiền ngẫm các bài diễn văn, bài viết của Tập; các quan chức Đảng công khai ca ngợi óc sáng suốt và phẩm hạnh của ông ta, và các nghị quyết đảng, văn kiện của chính quyền luôn luôn công bố là dựa vào “Tư tưởng Tập Cận Bình”. Ông khẳng định sự chi phối của đảng CS vào mọi mặt đời sống kinh tế xã hội của tất cả nhân nhân TQ, thậm chí còn thúc ép các công ty công nghệ và kinh doanh có tầm ảnh hưởng khổng lồ phải khẩn cầu sự tha thứ vì họ tỏ ra thiếu trung thành với Đảng. Trong lúc đó, ông ta tiếp tục mở rộng tầm ảnh hưởng quốc tế TQ qua lối hành xử quyền lực cứng, o ép kinh tế, thâm nhập vào các tổ chức đa phương quốc tế.  

Nhiều người quan sát nước ngoài, kể cả tôi, ban đầu tin tưởng Đảng sẽ bất lực khống chế Covid-19, thể hiện rõ các yếu kém của thể chế TQ. Tuy nhiên, mùa hè năm 2020, Tập ca ngợi ưu thế tập quyền trong việc kiểm soát đại dịch lây lan trong nước (Thế giới thì…lãnh đủ! -ND). Khó có gì làm suy suyển quyền lực chính trị của ông ta; biện pháp “bàn tay sắt” của Bắc Kinh đánh bật vi rút bây giờ trở thành một điểm son đầy kiêu hãnh của quốc gia.

THỜI GIAN DUY NHẤT

Bước tiến của họ Tập bắt đầu vì sự tích tụ những đổi thay về địa chính trị, dân số học, kinh tế, môi trường, và công nghệ. Hiểm nguy chúng gây ra là đáng sợ, nhưng chưa phải hiện hữu; Bắc Kinh có cơ giải quyết trước khi chúng thành thảm họa. Và những lợi thế tiềm năng họ đưa ra rất đáng kể.

Thay đổi lớn đầu tiên là sự đánh giá của Bắc Kinh về sức mạnh và ảnh hưởng của phương Tây đang đến hồi suy thoái nhanh chóng,dẫn đến kết quả, một thời đại đa phương mới bắt đầu, thời đại mà TQ tự định hình theo ý muốn. Quan điểm này càng vững chãi khi cuộc chiến của Mỹ ở Afghanistan và Iraq đã sa lầy; nó càng được củng cố trước cuộc khủng hoảng tài chính 2008, các lãnh đạo TQ coi như hồi chuông báo tử cho uy thế quốc tế của Hoa Kỳ. Năm 2016, dân Anh bỏ phiếu rời khỏi EU và Donald Trump đắc cử tổng thống củng cố quan điểm đồng thuận là, Hoa Kỳ và phương Tây, nhìn tổng quát, đang đà đi xuống. Điều này ngụ ý cho TQ chọn lựa chiến lược: kiên nhẫn chờ đợi và đơn giản để cho quyền lực nước Mỹ dần dần héo hắt. Nhưng khả năng thay mới lãnh đạo Hoa Kỳ hồi sinh nhờ sự xuất hiện chính phủ Biden – và các quan ngại về tuổi già của Tập (sẽ là 82 tuổi vào năm 2035) – cho biết, Bắc Kinh không muốn chờ đợi để trông thấy giai đoạn suy tàn của phương Tây kéo dài thế nào.

Sức mạnh quan trọng thứ hai đối mặt Tập là triển vọng kinh tế và dân số đang ngày càng tệ hơn . Vào thời ông lên cầm quyền, dân số TQ đồng thời già đi và giảm sút, đất nước đối mặt đáng sợ quá đông người về hưu, làm sâu sắc thêm hệ thống vốn yếu kém an sinh và hưu bổng. Học viện khoa học xã hội TQ hiện nay cho thấy dân số TQ đạt đỉnh vào năm 2029, và một nghiên cứu mới đây của The Lancet dự báo dân số nước này sẽ suy giảm 50% vào cuối thế kỷ. Dù Bắc Kinh chấm dứt chế độ khủng khiếp một con năm 2016, đất nước này vẫn ghi nhận số sinh giảm 15% 12 tháng qua. Trong khi đó, chính phủ dự đoán vào năm 2033, gần 1/3 dân số sẽ bước qua tuổi 60.

Cộng thêm những khốn khó này là lực lượng lao động ít xuống và lương bổng tăng lên, trung bình 10% kể từ 2005. Lương cao có lợi cho người lao động nhưng các nhà sản xuất quốc tế ngày càng dời hoạt động của họ ra khỏi TQ đến những nước ít chi phí hơn, hậu quả, số lao động tay nghề thấp ở lục địa thất nghiệp hay khó tìm ra việc. Bởi lẽ, chỉ 12,5% lao động TQ có bằng đại học (trong khi Mỹ là 24%), sắp xếp lực lượng lao động khổng lồ trong nước, cạnh tranh công việc tay nghề cao trong tương lai sẽ là một trận tuyến cam go.

Liên quan trực tiếp tới bức tranh dân số đáng lo là sự suy thoái kinh tế ở TQ. Với tăng trưởng kinh tế từ điểm cao 14 % trong năm 2007 rơi xuống trung bình một con số ngày nay, rất nhiều vấn đề tồn tại từ lâu, Bắc Kinh có thể giải quyết trong hậu trường, cần sự chú ý và quyết tâm, chấp nhận đau đớn kinh tế và chính trị, từ việc thanh lý những công ty nợ như núi đến việc yêu cầu cá nhân và công ty phải trả nhiều vào kho thuế quốc gia. Trọng điểm khó khăn tăng trưởng của TQ là năng suất sụt giảm. Suốt các thập niên đầu sau thời Mao, thành quả tăng năng suất tương đối dễ thấy, lý do, nền kinh tế kế hoạch hóa bị giải thể, nghiêng về sức mạnh thị trường, và động lực cho người dân tự nguyện rời khỏi thôn xóm đi đến các vùng thành thị hay sát biển, với hy vọng tìm việc lương cao. Sau đó, khi các công ty ngoại quốc đem đến đất nước nào là đầu tư, kỹ thuật, và công nghệ, hiệu quả công nghiệp tiếp tục cải thiện. Sau cùng, hàng núi tiền đổ vào hạ tầng cơ sở, đặc biệt là đường bộ và đường sắt, đẩy mạnh sự nối kết, năng suất từ đó nâng cao. Tất cả những thứ này giúp nền kinh tế èo uột, chủ yếu dựa vào nông nghiệp, nhanh chóng bắt kịp các nền kinh tế phát triển hơn.

Tuy nhiên, vào thời Tập nắm quyền, các nhà hoạch định chính sách thấy ngày càng khó mà duy trì động lực nếu không tạo ra mức độ nợ nần nguy hiểm, như họ từng làm vào năm 2008 để đối phó với khủng hoảng tài chính. Còn nữa, đất nước đã bảo hòa cơ sở hạ tầng giao thông, do vậy, thêm một kilometre đường bộ hay đường sắt cũng không đem lại gì cho tăng trưởng. Bởi lẽ hầu hết lao động khỏe mạnh đều di chuyển từ thôn quê ra thị thành thị, định hình lại dân số cũng không ngăn cản sức giảm sút năng suất. Sau cùng, phí tổn xã hội, môi trường theo mô hình tăng trưởng trước đây của TQ trở thành, không những thiếu bền vững mà còn bất ổn, như ô nhiễm không khí khủng khiếp và sự tàn phá môi trường gây ra căm phẫn trong dân chúng.

Có lẽ những chuyển biến hiệu quả nhất trên lộ trình của Tập là những tiến bộ trong công nghệ mới, như là trí khôn nhân tạo, rô-bốt học, kỹ thuật y sinh, cùng những thứ khác. Tập tin rằng, thống lĩnh “đỉnh cao quyền uy” nhờ công cụ mới mẻ ấy sẽ đóng vai trò trọng yếu cho số mệnh kinh tế, quân sự, địa chính trị của TQ, và ông ta huy động toàn đảng chuyển hóa đất nước thành “cường quốc” công nghệ cao. Làm điều này là chi tiêu nhiều món tiền khổng lồ cho R&D (Nghiên cứu và phát triển) và năng lực sản xuất về công nghệ được coi rất quan trọng cho an ninh quốc gia, từ pin cho đến chất bán dẫn. Như Tập chỉ rõ hồi 2014, lợi thế dẫn đầu sẽ đến với “ai dắt được mũi con bò đổi mới khoa học và kỹ thuật”.

Tập Cận Bình cũng hy vọng công nghệ mới có thể giúp đảng CSTQ vượt qua, hay chí ít, tránh được gần hết những thách thức trong nước. Ông ta cho rằng, ảnh hưởng tiêu cực của lực lượng lao động thu hẹp có thể ngăn được nhờ sự thúc đẩy mạnh mẽ tự động hóa; mất việc làm trong các nền công nghiệp truyền thống có thể bù đắp bằng các cơ hội trong các ngành kỹ thuật cao tân tiến hơn. Năm 2014, ông ta tuyên bố: “Chúng ta có trụ vững trên diễn đàn quốc tế hay vượt qua ‘bẫy thu nhập trung bình’ hay không phần lớn đều dựa vào sự cải thiện khả năng sáng chế khoa học và kỹ thuật”.

Công nghệ mới cũng phục vụ nhiều mục đích nữa. Công cụ nhận diện gương mặt, trí tuệ nhân tạo, đem lại các cơ quan an ninh trong nước nhiều phương cách mới, giám sát người dân và đàn áp bất đồng chính kiến. Chủ trương kết hợp “quân sự- dân sự” của Đảng quyết sử dụng công nghệ mới này để nâng cao đáng kể khả năng tác chiến quân đội TQ. Sự tiến bộ trong công nghệ “xanh” đem lại triển vọng cùng một lúc theo đuổi tăng trưởng kinh tế và giảm nhẹ ô nhiễm, hai mục tiêu Bắc Kinh đang coi như là sự bức bách.

HOANG TƯỞNG CHÍNH TRỊ

Sự tích tụ nhiều đổi thay và diễn biến xảy ra không kể là ai nắm quyền ở TQ vào năm 2012. Có lẽ một lãnh đạo khác cũng phải tuân thủ bức đi táo bạo tương tự. Tuy thế, trong các nhân vật chính trị TQ đương đại, Tập chứng tỏ năng lực không ai bì trong việc đấu đá nội bộ. Và rõ ràng, ông ta tin mình là nhân vật quan trọng của lịch sử, số mệnh đảng CSTQ đặt lên vai ông.

Để thúc đẩy mạnh mẽ sự thay đổi quan trọng, Tập giám sát việc kiến tạo một trật tự chính trị mới, ở đó, bệ đỡ phải là tảng đá lớn cho sức mạnh và uy quyền trong Đảng. Tuy nhiên, xa hơn việc nâng cao quyền uy của Đảng, có lẽ thành quả quan trọng nhất của Tập là định nghĩa lại việc “mở rộng an ninh quốc gia”. Sự ủng hộ của ông về “khái niệm an ninh quốc gia toàn diện” xuất hiện vào đầu năm 2014, và trong một phát biểu hồi tháng 4, ông tuyên bố, TQ đang đối mặt “rất nhiều nhân tố quốc nội và quốc ngoại phức tạp nhất trong lịch sử đất nước”.  

Mặc dù rõ ràng đây là cách nói thậm xưng – chiến tranh với Hoa Kỳ ở Triều Tiên, nạn đói cuối thập niên 1950 phức tạp gấp mấy – thông điệp Tập gởi đến chế độ rất rõ: Một giai đoạn đầy hiểm nguy và bất trắc mà Đảng đang đối mặt.

Kinh nghiệm dài dài của đảng CSTQ về đào thoát, âm mưu đảo chính, lật đổ, bởi yếu tố bên ngoài mở đường cho Đảng đi tới hoang tưởng nặng, có cái gì như cao trào thời Mao. Tập dám thể chế hóa cái kiểu hoang tưởng này. Một kết quả làm mờ lằn ranh an ninh đối nội và đối ngoại là thổi phồng các mối đe dọa: Cán bộ đảng ở những vùng ít tội phạm, ít nguy hiểm, ngày nay phát đi cảnh báo nào là khủng bố, “cách mạng màu”, “sự thâm nhập của đạo Cơ đốc”.

Ở Tân Cương, nỗi sợ hãi ly khai được sử dụng để biện minh cho việc biến toàn khu vực này trở thành nhà tù thống khổ, giám sát bằng công nghệ cao. Ở Hong Kong, Tập dựng lên bộ máy “cai trị an ninh”, gạt bỏ luật lệ sở tại, điều hành hoàn toàn bí mật khi nó muốn tiệt nọc (weed out) các thách thức bàn tay sắt cai trị của Bắc Kinh. Ở cả hai nơi, Tập chứng tỏ mình sẵn sàng chấp nhận lời chê bai của thế giới một khi ông ta cảm thấy lợi ích cốt lõi của Đảng bị đe dọa.

Mặt đối nội, Tập khơi dậy tình cảm dân tộc cực đoan bằng cách dựng chuyện TQ đang bị kẻ thù bao vây, khai thác những tình cảm xúc động (đa phần là méo mó) về quá khứ, thần tượng hóa các cuộc chiến đấu của TQ chống người Nhật trong đệ nhị thế chiến, và “chiến thắng” Hoa Kỳ trong trận chiến Triều Tiên. Bằng cách cảnh báo TQ đang vào thời điểm hiểm nguy bởi “thế lực thù địch nước ngoài”, Tập đang cố rót vào đầu người dân TQ ý nghĩ về nhiều giai đoạn cam go phía trước, rồi bảo đảm rằng, Đảng và chính ông ta sẽ là sức mạnh đem lại ổn định.

Trong khi đó, để khai thác cơ hội thấy được khi Hoa Kỳ thoái lui dần sự can dự quốc tế, Bắc Kinh mạnh bạo tiến tới, trên nhiều mặt trận với nhiều đối sách đa dạng. Các mặt trận này bao gồm việc sử dụng chiến thuật “vùng xám” (không tranh chấp tạo thành tranh chấp -ND), như là triển khai các tàu đánh cá, nhằm khẳng định quyền lợi lãnh thổ ở Biển Đông và thiết lập một căn cứ quân sự đầu tiên ở nước ngoài, tại Djibouti.

Thị trường nội địa bao la của TQ cho phép Tập đe dọa nước nào không tỏ ra thuần phục về chính trị và ngoại giao, điển hình bằng chiến dịch mới đây của Bắc Kinh, cưỡng bách kinh tế nước Úc để đáp trả Canberra kêu gọi điều tra độc lập về nguồn gốc vi rút gây ra Covid-19. Tương tự, Tập khuyến khích các nhà ngoại giao “Lang chiến” (Wolf warrior) hù dọa và quấy rối nước chủ nhà nào phê phán hay khiêu khích TQ. Đầu năm nay, Bắc Kinh ra lịnh trừng phạt Jo Smith Finley, một nhà nhân chủng học, nhà khoa học chính trị, nghiên cứu về Tân Cương, và viện nghiên cứu TQ Mercator, một think tank của Đức; công việc của họ bị đảng CS tuyên bố là “phương hại trầm trọng chủ quyền và lợi ích TQ”.

Mao Trạch Đông và Đặng Tiểu Bình cho thấy sự kiên nhẫn chiến lược khi khẳng định quyền lợi của TQ trên trường quốc tế. Thật sự, Mao nói với tổng thống Nixon, TQ có thể đợi 100 nữa để thu hồi Đài Loan, và Đặng thương thảo việc trao trả Hong Kong với lời hứa (bị Tập nuốt lời) được tự trị 50 năm. Cả hai nhà lãnh đạo cảm nhận sâu sắc về sự mong manh tương đối và sự thiết yếu cẩn trọng trong điều hành đất nước TH. Tập không cùng quan điểm ẩn nhẫn hoặc tự tin như họ trong giải pháp lâu bền của cả hai ông.

Điều đó làm dấy lên quan ngại Tập sẽ cố đi một nước cờ hết sức nguy hiểm để chiếm Đài Loan bằng vũ lực vào năm 2027, kỷ niệm thứ 100 ngày thành lập Giải phóng quân TQ. Tuy nhiên, không chắc lắm, ông ta có thể lôi kéo xung đột quân sự với Hoa Kỳ đang ở cách xa bờ biển lục địa 110 dặm. Giả sử PLA thành công trong việc vượt qua hàng phòng thủ của Đài Loan, không nói gì tới khả năng qua mặt sự can thiệp của Mỹ, thì Tập phải thực thi sự chiếm đóng quân sự, chống lại một cuộc kháng chiến với một thời gian vô định. Cuốc chiếm đóng Đài Loan nếu có sẽ làm tiêu tan hầu như tất cả tham vọng khác, đối nội cũng như đối ngoại của Tập. Tuy nhiên, kịch bản nguy kịch vẫn chưa thể xảy ra vào lúc này, Tập sẽ tiếp tục cho TQ phô trương sức mạnh với các nước láng giềng, và dấn bước lên trước để theo đuổi quyền lợi của mình. Với nhiều vấn nạn, có vẻ ông ta muốn hoàn tất quyết tâm đã định của mình.

MƯỜI THỜI KHẮC HÌNH THÀNH ĐẢNG CHÍNH TRỊ ĐỘC TÀI QUYỀN LỰC NHẤT THẾ GIỚI

- 1921: NĂM ĐẢNG RA ĐỜI

Trung Hoa hỗn loạn những năm đầu thập niên 1920. Chính phủ cộng hòa đầu tiên tan rã sau 10 năm lật đổ triều đình nhà Thanh.

Các sứ quân xâu xé nhau, cát cứ lãnh địa riêng, có quân đội riêng. Trận đói khủng khiếp xảy ra phía bắc Trung Hoa cướp đi hàng trăm ngàn mạng người. Quốc Dân đảng của Tưởng Giới Thạch thất bại trong việc đoàn kết quốc gia dưới một chính phủ trung ương.

Bối cảnh đó dẫn tới các cuộc nổi dậy khắp lãnh thổ của nhiều nhóm nhỏ theo cộng sản. Lần đầu tiên, các nhóm này gặp nhau tại Thượng Hải ngày 23 tháng 7 năm 1921, vẻn vẹn chỉ có 50 người.

Nhiệm vụ của họ là gì? “Đánh đổ giai cấp phong kiến bằng cách lãnh đạo đội quân cách mạng vô sản”.

Chỉ còn hai người có mặt trong ngày thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 1949: Mao Trạch Đông và Lâm Bưu. Số còn lại người chết, người bỏ đảng, người thất sủng. Vào thời điểm đó, ý nghĩa của đại hội chưa rõ hẳn mục đích: Ngày nay, đảng CSTQ lấy 1 tháng 7 là ngày kỷ niệm thành lập đảng, bởi vì rất nhiều năm, người ta vẫn còn tranh cãi ngày chính thức tổ chức đại hội đảng đầu tiên.

- 1934: VẠN LÝ TRƯỜNG CHINH

Cuộc lui binh dài chưa từng: 10.000 cây số. Cuộc trường chinh này không những là thời khắc quan trọng của đảng CSTQ mà nó còn là thời khắc Mao Trạch Đông nghiễm nhiên làm lãnh tụ. Theo lịch sử, đây là giai đoạn oanh liệt nhất của đảng, vượt mọi gian khó, để trở thành đảng vô địch. Nhưng đây cũng là thảm họa quân sự: hàng chục ngàn người chết sau một năm “trường chinh”.

Thời gian này, Quốc Dân đảng của Tưởng Giới Thạch chiếm hầu hết lãnh thổ Trung Hoa. Họ cũng đánh nhau với lực lượng du kích của đảng CS đang rút chạy.

Cuối cùng, lực lượng không cân sức của đảng buộc rút lui vào cứ địa phía Bắc. Trên con đường trường chinh, các lãnh đạo cũ lần lượt bị loại trừ. Mao chỉ huy số quân còn lại, lẩn trốn vào 18 rặng núi và 24 con sông, liên tục bị quân Tưởng truy sát. Tham gia cuộc trường chinh có 100.000 người gồm 75 ngàn quân và hơn 20 ngàn không trực tiếp cầm súng. Chỉ còn có 7 ngàn người đến đích ở thành phố Diên An (Yan’an?).

Nhưng đảng vẫn sống sót. Đảng được củng cố lại ở Diên An và khởi đầu chủ nghĩa sùng bái cá nhân trong đảng, bây giờ hồi sinh với Tập Cận Bình.

- 1949: THÀNH LẬP CỘNG HÒA NHÂN DÂN TRUNG HOA

Cuộc xâm lăng vào TQ của người Nhật ngăn trở kế hoạch quét sạch phe cộng sản nổi dậy của chính quyền Quốc Dân đảng. Năm 1937, quân đội Mao và Tưởng ngừng đánh nhau, cam kết hợp tác chống Nhật. Nhưng sự hợp tác chấm hết khi Nhật đầu hàng năm 1945.

Khai thác quân đội Tưởng yếu kém vì sâu mọt, tham nhũng trong quan chức (Mao còn nhiều lần “bỏ mặc” quân Nhật đánh tan tác “đối thủ sau này" cho yếu đi-ND), dần dần Mao đánh thắng đối phương, nhờ sự ủng hộ rộng khắp của tầng lớp nông dân được ông hứa hẹn cấp cho ruộng đất sau này.

Sau khi thua cuộc chiến đẫm máu, Tưởng và đội quân còn lại chạy ra Đài Loan; cuộc đối đầu vẫn còn đến ngày nay giữa Bắc Kinh và Đài Bắc. Đảng CSTQ tuyên bố Đài Loan là lãnh thổ của ho.

Ngày 1 tháng 10 năm 1949, Mao Trạch Đông đứng trên lễ đài ở Thiên An Môn tuyên bố thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.

- 1958: ĐẠI NHẢY VỌT

Thây nhiều nước bùng nổ kinh tế sau đệ nhị thế chiến, Mao ưu tiên gấp rút phát triển kinh tế. Trong bài diễn văn đọc trước các nhà lãnh đạo Liên Xô, Mao tuyên bố trong vòng 15 năm nữa: “Chúng tôi sẽ đuổi kịp hoặc vượt mặt Anh quốc”.

Nhưng, kế hoạch Đại Nhảy Vọt của Mao biến Trung Quốc từ một nước nông nghiệp thành một cường quốc công nghiệp thất bại thảm hại.

Nông dân buộc phải rời thửa đất của mình để tham gia sản xuất sắt thép, nguyên liệu chính chế tạo máy móc cần cho công nghiệp hóa. Số người còn lại buộc phải vô hợp tác xã, theo đúng lý tưởng cộng sản, nhưng sản lượng tụt dốc thảm thiết.

Một nạn đói chưa từng thấy quét qua Trung Quốc, tàn phá đất nước. Người ta ước lượng 30.000.000 người chết đói.

Lịch sử của đảng quy nạn đói là do thiên tai, không phải vì Đại Nhảy Vọt.

- 1966: CÁCH MẠNG VĂN HÓA

Đại Nhảy Vọt làm suy yếu quyền uy của Mao. Vì thế, ông ta phát động chiến dịch tiêu diệt đối thủ chính trị và muốn tất cả phải trung thành tuyệt đối trong đảng.

Bất ngờ Mao tuyên bố có nhiều nhóm chống lại chủ nghĩa cộng sản len lỏi vào đảng, chúng cần bị quét sạch.

Ông ta kêu gọi phải loại trừ “phần tử phản cách mạng”, “phần tử hữu khuynh” đang ngày càng không thể kiểm soát. Đám sinh viên học sinh, gọi là “Hồng vệ binh”, tấn công kẻ nào bị coi là tiểu tư sản hay có lối sống đế quốc.

Học sinh, sinh viên khắp nước đấu tố cả thầy cô và những ai bị chúng quy là tư sản hay phản động. Trong cách mạng văn hóa, hễ người nào bị ghét bỏ, chúng sẽ tra tấn, nhục mạ, buộc thú tội trước công chúng. Số người khác thì bị chúng bắt nhốt trong những lều dựng tạm.

Có người bị đấu tố đến chết. Có người phải tự tử. Khi cách mạng lên cao trào, Hồng vệ binh quay ra đánh nhau, sử dụng vũ khí của Giải phóng quân nhân dân.

Sự hỗn loạn cuối cùng chấm hết nhờ cái chết của Mao Trạch Đông năm 1976. Người ta coi Cách mạng văn hóa là cuộc thảm sát hàng triệu nhân mạng.

Năm 1981, nghị quyết của đảng CSTQ nói rằng: “Cách mạng văn hóa phải chịu trách nhiệm về sự thụt lùi nghiêm trọng nhất, mất mát nặng nề nhất mà đảng, nhà nước, và nhân dân phải gánh chịu kể từ ngày thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa”.

- 1979: CẢI CÁCH MỞ CỬA

Một Trung Hoa nghèo đói nhất thế giới trở thành nước có nền kinh tế thứ nhì thế giới là nhờ con đường Cải cách và Mở cửa bắt đầu từ 1979.

Sau cái chết của Mao, Hoa Quốc Phong lên nắm quyền chủ tịch đảng. Ông ta sớm bị đồng chí đảng lão thành Đặng Tiểu Bình loại khỏi chức vụ. Hoa Quốc Phong có công phục hồi chức vụ cho Đặng Tiểu Bình bị thất sủng trong cuộc Cách mạng văn hóa. Nhưng Đặng, ủ mưu gầy dựng lực lượng riêng của mình trong đảng và năm 1980, hất cẳng Hoa.

Một trong chủ trương của Đặng là cải cách và mở cửa – biện pháp thử nghiệm: duy trì thể chế độc đảng đồng thời với nới lỏng kiểm soát của chính quyền về kinh tế và cho công dân một số quyền tự do. Chủ trương này đưa Trung Quốc từ nền kinh tế kế hoạch hóa đi đến nền kinh tế gần với tư bản.

Đầu tiên, nông dân được quyền bán sản phẩm thừa của mình, sau đó là doanh nhân có thể lập doanh nghiệp. Các đặc khu kinh tế thiết lập cho phép buôn bán tự do.

Nhưng chủ trương của Đặng dấy lên một vấn nạn đối với đảng: Có thể nào một nước cộng sản thừa hưởng lợi ích của tự do buôn bán và chủ nghĩa tư bản lại vẫn giữ vững quyền cai trị?

- 1989: THẢM SÁT THIÊN AN MÔN

Khi nền kinh tế TQ càng mở cửa, tham nhũng càng tràn lan, người dân bắt đầu đòi hỏi tự do hơn.

Kinh tế nới lỏng dần dần làm TQ giàu lên nhưng đảng vẫn kiểm soát nhiều mặt đời sống quần chúng như hạn chế ngôn luận tự do, du lịch quốc tế.

Năm 1989, cái chết của một lãnh đạo có đầu óc tự do khơi dậy nhiều cuộc biểu tình khắp nước, cuộc biểu tình lớn chưa từng thấy xảy ra tại Thiên An Môn.

Tranh luận cách đối phó biểu tình trong giới chóp bu chấm dứt ngày 20 tháng 5 khi lãnh đạo tuyên bố thiết quân lực. Hai tuần sau, ngày 4 tháng 6, quân đội nhân dân lại nổ súng vào nhân dân.

Chính quyền công bố 241 người bị chết, có cả binh sĩ; các nhà đấu tranh ước lượng có đến mấy ngàn người chết chỉ nội ở Bắc Kinh.

Cuộc đàn áp trở thành một bước ngoặt trong con đường đi của đảng CSTQ; ban đầu là quốc tế cấm vận rồi lên án, sau đó là cân nhắc kinh tế và TQ lại bắt đầu hội nhập kinh tế toàn cầu.

Sau cuộc thảm sát, tự do hóa kinh tế tăng tốc trong nước. Nhưng đảng vẫn câm lặng trước những kêu gọi dân chủ và tự do cho nhân dân.

- 2001: TRUNG QUỐC GIA NHẬP WTO.

TQ bắt đầu tăng trưởng nhanh nhưng tiềm năng bị hạn chế bởi một lẽ: Họ không là thành viên trong Tổ chức thương mại thế giới WTO.

WTO quy định, các nước thành viên được phép giao dịch sòng phẳng với nhau trong tổ chức. Nhưng vào thập niên 1990, mặc cho chủ trương mới, TQ vẫn chưa phải là một nền kinh tế thị trường. Họ bỏ ra 15 năm để thương lượng trước khi gia nhập WTO nhờ ưu ái của Mỹ. Đổi lại, họ phải đồng ý mở cửa kinh tế, gỡ bỏ một số thuế quan, cam kết bảo vệ sở hữu trí tuệ.

Sau khi chính thức gia nhập tháng 12 năm 2001, kinh tế TQ bắt đầu bùng nổ. Năm 2000, GDP của họ là 8,5% và năm 2007 vọt lên 15%.

- 2008: OLYMPIC BẮC KINH

Thế vận hội Olympic mùa hè năm 2008, TQ bước lên vũ đài thế giới với tư cách một cường quốc.

Một số nhà ngoại giao và hoạt động nhân quyền ra sức tẩy chay vì thành tích nhân quyền của TQ, nhất là cuộc đàn áp ở Tây Tạng và cưỡng bách trục xuất.

Số người khác lại hy vọng rằng, để TQ tổ chức Olympics sẽ lôi kéo họ vào trật tự dựa vào luật pháp quốc tế, khuyến khích họ mở rộng hơn chính trị và kinh tế.

Thế vận Olympics tiến hành như kế hoạch – và thành công ngoạn mục. Nhưng nó không như hy vọng của phương Tây. Trái lại, khả năng tổ chức một thế vận hội hoành tráng chưa từng thấy ở Bắc Kinh, trong khi phương Tây ngất ngư với khủng hoảng tài chánh toàn cầu, cho thấy họ có uy lực kinh tế vượt bậc, và có thể tự mình tiến bước.

Sự kiện trên là một thắng lợi cho đảng cộng sản; nó trả lời câu hỏi gây lo âu cho các nhà cai trị độc tài trên thế giới hàng mấy thập kỷ nay- có thể một chế độ chính trị phi dân chủ vẫn đạt được thành quả từ nền kinh tế tự do mà vẫn không mất quyền lãnh đạo?

Thế giới ngắm pháo hoa nổ trên bầu trời Bắc Kinh trong lễ khai mạc thế vận hội 2008, đáp án cho câu hỏi trên có vẻ hùng hồn: đúng.

TRUNG QUỐC PHỦ DÀI BÓNG LÊN ASEAN

(Southeast Asia: China’s Long Shadow)

“MỌI CHUYỆN ĐỀU ỔN” là mấy chữ in trên áo thun của cô gái 19 tuổi Ma Kyal Sin – dân chúng gọi là Thiên Thần – ngày 3 tháng 3 năm 2021, ở Mandalay, một thành phố của Myanmar, không xa mấy TQ. Hàng trăm ngàn thanh niên Miến Điện tràn xuống đường phố, tiếp tục phản đối quân đội tiếm quyền một tháng trước đó. Cô tham gia cùng họ ở tuyến đầu, mong muốn bảo vệ những người bạn trước đà tiến quân của cảnh sát. Cô bị bắn chết phía từ phía sau. Chôn không mấy ngày, tập đoàn quân sự quật xác cô mang đi, lấy xi măng lấp lại huyệt mộ. Sau đó, chính quyền tuyên bố kết quả mổ pháp y cho thấy, đạn trong hộp sọ có thể từ súng của các người biểu tình. Tuy nhiên, lúc bị bắn, lưng cô hướng về hướng cảnh sát đang tiến tới.

Mọi chuyện chẳng ổn, ở Miến, thời gian sẽ không lâu. Cho đến đầu tháng 4, quân đội – gọi là Tatmadaw- do tướng Min Aung Hlaing cầm đầu, đoạt mạng sống chừng 400 người dân thường, chẳng có tội gì ngoài việc phản đối ôn hòa chế độ tiếm quyền tàn nhẫn. Đến giữa tháng 4 số người chết vượt quá 700.

Mọi chuyện cũng chẳng ổn ở cửa ngỏ bên kia là Thái Lan, một quốc gia trong vùng Đông Nam Á. Bảy năm trôi qua từ cuộc đảo chính cuối năm 2014 – cuộc tiếm quyền thành công lần thứ 13 từ ngày lật đổ chế độ quân chủ chuyên chế ở nước này năm 1932. Dù tổ chức lần chót năm 2019, cuộc bầu cử bị quân đội thao túng để họ duy trì sự cai trị của mình. Những người trẻ Thái liên tục biểu tình chống chính phủ từ đầu năm 2020.

Phía đông Thái Lan là ba nước đối mặt với TQ nhiều hơn ở lục địa ASEAN: Miên, Lào, Việt Nam. Nhà độc tài Hun Sen cầm quyền hơn 36 năm, một kỷ lục ở châu Á, chỉ có thua Ayatollah Khomeini, Iran. Tháng 3 năm 2021, một tòa án Campuchia tạo thế cho Hun Sen bằng cách kết án 20 năm tù dành cho chín đảng viên cao cấp thuộc đảng đối lập từng bị cấm hoạt động, tước hoàn toàn cơ hội họ lưu vong trở về nước.

Trên thực tế, Lào là vương quốc của đảng Cách mạng Nhân dân Lào thống trị hà khắc, với các lãnh đạo chuyên dập tắt đối lập, hạn chế quyền tự do, mạnh tay đàn áp xã hội dân sự muốn độc lập khỏi chế độ độc đảng. Ở Việt Nam, luật an ninh mạng khắc nghiệt khép tội những ai “tổ chức, hoạt động, âm mưu, khích động, mua chuộc, lường gạt hoặc lừa dối, lôi kéo, đào tạo, hoặc huấn luyện” nhằm “chống phá nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam”, trong khi vẫn hình sự hóa những hành vi mơ hồ như “gây rối”, “xuyên tạc lịch sử”, và “phủ nhận những thành quả cách mạng”. Thế nên cũng chẳng ngạc nhiên, Lào và Việt Nam xếp tuần tự 172 và 175 theo bảng xếp hạng của tổ chức Tự do Báo chí Quốc tế.

TƯƠNG PHẢN GIỮA VÙNG BIỂN VÀ VÙNG LỤC ĐỊA

Miến Điện, Thái Lan, Campuchia, Lào và Việt Nam hình thành vùng cận lục địa Đông Nam Á. Lào và VN có chung biên giới với TQ. Các quốc gia còn lại – Philippines, Mã Lai, Indonesia, Singapore và Timor-Leste có tính chất bản đảo hay hải đảo, khá xa TQ. Theo thông lệ trong các nghiên cứu về Đông Nam Á, người ta phân biệt năm nước “đất liền” hay lục địa gần TQ khác với sáu nước “vùng biển” xa tít về phía Nam và phía Tây.

Địa lý và địa chất không giống nhau. Thuộc về 5 nước “lục địa”, chỉ 4 nước có bờ biển; riêng Lào không có. Tất cả quốc gia biển thì hoàn toàn là hải đảo hoặc một phần hải đảo. Chỉ có Mã Lai và Singapore là “tiểu lục địa” ở chỗ, họ ở vị trí cực nam của Đông Nam Á. Dự kiến, ba tuyến đường sắt trên bộ nối Malaysia và Singapore với Trung Quốc đại lục, nếu hoàn tất, sẽ nâng cao về mặt kinh tế, xã hội cái tính chất tiểu lục địa ấy. Đường sắt đi về phía nam từ Côn Minh, thủ phủ tỉnh Quảng Đông, qua Miến, Lào, VN, đến Bangkok, Thái Lan, tiếp tục qua Mã Lai đến Singapore. Hoàn thành đường nối bắc-nam này là “ưu tiên một” trong Sáng kiến Vành đai và Con đường (BRI) của Tập Cận Bình.

Nỗi sợ “lục địa hóa” – tức Trung Hoa hóa – dấy lên trong bối cảnh ấy. Sự có mặt của TQ hiện ra rất rõ trong các địa phương phía bắc Miến Điện và Lào, khi các khu kinh tế và văn hóa hình thành chung quanh, tràn ngập du khách và người nhập cư từ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Người Tàu bản địa và Hoa kiều thống lĩnh kinh tế thành phố lớn thứ nhì của Myanmar, Mandalay, nơi cô gái Thiên Thần bị giết chết. Tiếng Quan thoại sử dụng rộng rãi tại đây. Nếu kế hoạch Vành đai và Con đường thành công, nếu lộ trình nam-bắc thiết lập và duy trì, xe cộ nườm nượp qua lại, vì lợi ích “hai bên cùng có lợi” (win-win) cho TQ và tất cả 5 nền kinh tế của ASEAN dọc đường đi, thì Bắc Kinh sẽ bành trướng ảnh hưởng ra khắp vùng.

Không phải “muốn” là “được”. Kinh tế thế giới suy trầm hơn 4% trong năm 2020. Kiến thiết hạ tầng đắt đỏ, lợi ích mang lại xa vời. Với nội dung khác nhau bởi nhiều nước khác nhau, sự nối kết viễn tưởng trở thành tai ương mang đến Covid-19, khi các chính phủ đóng cửa biên giới, hạn chế sự xâm nhập của vi rút và biến thể của nó. Năm 2019-2020, nhịp độ vay vốn của nước ngoài từ các ngân hàng TQ chậm lại, và chi tiêu vào các đại công trình trong sáng kiến BRI chưa bao giờ xuống mức thấp như thế. Kế hoạch 5 năm của TQ kêu gọi “hai dòng tiền” để đáp ứng nhu cầu vay vốn trong nước và từ quốc tế nhưng chỉ có kinh tế trong nước được ưu tiên.

Điều đó nói lên, tăng trưởng kinh tế TQ năm 2021 có thể đạt 8%, do đó, sẽ hâm nóng chiến dịch tạo uy thế ở vùng “lục địa” ASEAN. Ví dụ, tại Lào, các ngân hàng cho vay táo bạo và nhóm chóp bu tham nhũng đã khiến đất nước này mắc nợ, đến mức độ, việc xuất khẩu điện sinh lợi dồi dào sớm bị TQ kiểm soát. Là một nước ASEAN nghèo nhất, Lào cần các khoản thu đó. Kiểm soát chi phối mạng lưới điện cao thế sẽ cho Bắc Kinh một đòn bẩy họ sử dụng, để chắc chắn biến Lào thành bạn “đồng sàng” với TQ.

Bằng minh họa trường hợp Lào đối mặt với TQ, sự phân chia quyền lực chuyên chế ở Đông Nam Á có chiều hướng gia tăng chia rẽ vùng lục địa-vùng biển. Một quan chức của tổ chức Theo dõi Nhân quyền nhận xét, năm 2015: “Người ta nói nhiều năm rồi, ASEAN là câu lạc bộ của các nhà chuyên chế”.

Nhận định đó không phải là nói vống lên. Theo Freedom House, 6 trong 10 nước thành viên ASEAN là “Thiếu tự do”:  Brunei, Campuchia, Lào, Myanmar, Thái Lan, và Việt Nam. Theo đánh giá đó, phân nửa ASEAN là chuyên chế, và 6 trong các thành viên toàn trị thì có 5 nằm ở phần lục địa. Chỉ có nước bé nhỏ chuyên chế Brunei thuộc biển, một chế độ quân chủ tuyệt đối bên bờ biển Borneo. Bốn nước ASEAN còn lại – Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore – tất cả đều sát biển, xếp hạng “Hơi tự do”. Nước lẻ loi “Tự do” Timor-Leste, tiếp cận lãnh thổ ba nước khác, đang muốn gia nhập ASEAN.

Mô tả thô thiển như sau: Một, Đông Nam Á “lục địa” thì chuyên chế. Hai, Đông Nam Á thuộc biển thì dân chủ một phần – nằm giữa hoặc hỗn hợp phản ảnh cân bằng giữa hai quốc gia nhỏ nhất liên quan tới biển, xét về số dân, là Brunei chuyên chế và Timor-Leste dân chủ. Ba, các thành viên ASEAN nghiêng về toàn trị là 6/10, 4/10 dân chủ một phần, 0/10 dân chủ. Tất cả theo xếp hạng của Freedom House.

MỤC TIÊU CỦA TRUNG QUỐC: ỔN ĐỊNH TRÊN HẾT

Làm thế nào TQ và ý muốn của họ được đưa vào so sánh sau đây? Vị trí địa lý là số mệnh? Tập Cận Bình và các cố vấn muốn đối tác của họ suy nghĩ như thế. Hãy xem xét đề xuất của Bắc Kinh cho một “Cộng đồng chung vận mệnh ASEAN-TQ (ASEAN-China Community of Common Destiny). ‘Cộng đồng chung vận mệnh” thể hiện sự đồng cảm, giả định, hay ý muốn thôn tính hoặc ở chiếu trên của TQ? Bắc Kinh muốn các nước láng giềng ASEAN coi ý tưởng chia sẻ một cộng đồng như là minh chứng bảo đảm TQ thực lòng quan tâm đến họ, đến khu vực, nhiều hay ít và như thế nào. Nhưng vận mệnh chung sẽ phá tan những viễn cảnh và những mục đích khác nhau. Nếu vận mệnh của TQ là duy trì chế độ độc tài độc đảng dưới một lãnh đạo trọn đời, Bắc Kinh có muốn lấy vận mệnh ấy áp lên phần còn lại là ASEAN? Họ có cố “lục địa hóa” toàn khu vực bằng cách củng cố sự cai trị từ trên áp xuống ở phần ASEAN “Thiếu tự do”, đồng thời buộc các nước “Tự do một phần” trở thành “Thiếu tự do”?

TQ không thể truyền cái chuyên chế lên các láng giềng theo ý nghĩa ý thức hệ. “Chủ nghĩa xã hội đặc sắc TQ” là mớ hổ lốn không xuất khẩu được- chỏi nhau trong lý thuyết, ngẫu nhiên (contingent) trong thực tiễn, và khu biệt (parochial) ngay trong tên gọi. Giống ứng viên muốn chu du khỏi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa mà chẳng có chân. TQ cũng không dựa vào việc biến con người ở Đông Nam Á trở thành những hâm mộ trung tín cho một mô hình TQ. Bắc Kinh đang nỗ lực mở rộng quyền lực mềm và khuyến khích các láng giềng của họ thừa nhận và tự nguyện tham dự vào vòng ảnh hưởng khu vực của họ. Các nước ASEAN, nói chung, đã là đối tác thương mại lớn nhất của TQ và ASEAN sẽ là đối tác hàng đầu khi chuỗi cung ứng phát triển và ngược lại. Nhưng nếu ngoại giao cộng đồng và gắn kết kinh tế thất bại thì chính cái chủ nghĩa định mệnh, chứ không phải chủ nghĩa cộng sản, là cái mà Bắc Kinh đặt cược.

Nói trắng ra, hy vọng của Tập Cận Bình là các nước láng giềng sẽ nhìn vào bản đồ mà chùn bước. Vì sao? Tại vì, như nhà ngoại giao hàng đầu hiện nay, ông Dương Trì, tuyên bố với các đồng cấp ở ASEAN năm 2010: “TQ là một nước lớn và các nước khác là những nước nhỏ, đó là sự thật”. Làm như nước lớn TQ đang phủ dụ các nước láng giềng bé nhỏ: vận mệnh chung của chúng ta là trải nghiệm và chấp nhận sự khác biệt với nhau, bởi vì chúng tôi và các anh, vận mệnh an bài không bình đẳng, dù các anh có muốn hay là không muốn. Lấy ví dụ Biển Đông. Chúng tôi – nước CHNDTH – luôn được định sẵn để thâu tóm tất cả nguồn nước biển, dựa trên chủ quyền của TQ “hình thành hơn hai ngàn năm trước”, theo lời họ Dương, năm 2016.

Biển Đông không phải là lãnh thổ “đệm” của quốc gia nào (lebensraum). Biển Đông được Bắc Kinh coi như kiểu nước Đức (quốc xã) xem Ba Lan hồi tháng 8 năm 1939. Thế mà, TQ của Tập Cận Bình liên tục chế tạo ra cái vận mệnh đặc sắc Trung Quốc trong cái trung tâm hàng hải ASEAN bằng cách chế tác ra “cái đương nhiên” trên vùng biển mà người vùng Đông Nam Á không thể đảo ngược. “Cái sự đương nhiên” ấy gồm việc cưỡng chiếm các thực thể đất đai các nước ở vùng biển ASEAN tuyên bố chủ quyền. Họ biến các thực thể này thành căn cứ quân sự, từ nơi này họ có thể răn đe cả khu vực. Việc gài bẫy xung đột trên biển, hay gần như xung đột, vây hãm, “lấy thịt đè người” nhằm ngăn người Đông Nam Á không đánh cá hay không khai thác được dầu khí dưới lòng biển, ngay cả trong vùng đặc quyền kinh tế của họ, tất cả đều vi phạm Công ước Liên Hiệp Quốc về luật biển.

Bắc Kinh kỳ vọng, một ngày nào đó, sự kiểm soát của mình lên Biển Đông và những thực thể đầy súng đạn ở đó, sẽ là “cái đương nhiên” mà các nước ASEAN phải chấp nhận; sức của họ không sánh nổi với sức của Tàu sẽ khiến cho họ, chẳng còn lựa chọn nào ngoài chuyện phải khấu đầu (kowtow). Thay vì cố cấy vào vùng ĐNA chủ nghĩa chuyên quyền qua hình ảnh TQ, Bắc Kinh chọn cách khuyến dụ chủ nghĩa định mệnh ở ASEAN, cùng với nó là sự cam chịu và thụ động tuân phục vì sự thiết thân mà ra.

Mặc dù mô hình chính trị TQ là toàn trị, Tập không phải là người truyền bá cái chế độ chuyên quyền ra Đông Nam Á. Nếu đã tuyên bố như thế, TQ của Tập sẽ phá sản về mặt ý thức hệ. Họ chẳng còn chút dự trữ ý tưởng nào dùng để thuyết phục thế giới rập theo học thuyết của mình. Nếu là lời khuyên xuất khẩu được, cái công thức mà Bắc Kinh thể hiện – hợp thức hóa chế độ bằng thành tích kinh tế - sẽ thực dụng hơn ý thức hệ. Tuy nhiên, có ba cách mà chính sách đối ngoại của Trung Quốc ở Đông Nam Á ảnh hưởng, và bị ảnh hưởng, bởi tính cách chuyên chế hơn của đại lục ASEAN so với các quốc gia thành viên ven biển.

Ba tác động phản dân chủ gồm: xu hướng ổn định  từ trên xuống dưới của TQ; chuộng khoa trương ra ngoài với các đối tác trọng nể hàm ơn mà không bị chống đối bên trong cản trở; và hiệu quả của việc hợp tác từ trên xuống với người quyền uy duy nhất thay vì phải đối phó với nhiều tác nhân từ dưới lên trong một đất nước dân chủ.

Thứ nhất, sự ổn định: Khi tìm cách ảnh hưởng láng giềng và thế giới bên ngoài, TQ của Tập có thể không minh định ý thức hệ. Nhưng Bắc Kinh thích ổn định. Khi Adam Przeworski mô tả dân chủ như là sự “bất định được thể chế hóa”, ông chú ý đến hiệu quả tiềm tàng của nó. Tính khó dự báo kết quả bầu cử trong một thể chế dân chủ tỏ ra ổn định, ở chừng mực, khi thúc đẩy một ứng viên thất cử không quay lưng với thể chế mà còn muốn tranh cử lần nữa. Cơ hội thắng cử - sự bất định tích cực – có thể bảo đảm thành công lần thử thách khác.

Sự bất định thể chế là “lời nguyền” đối với mô thức của Tập về đảng CSTQ. Ở đại hội đảng lần thứ 20 vào năm 2022, đương nhiên, ông ta sẽ thành lãnh tụ suốt đời. Và có thể không xảy ra điều đó. Nhưng nếu xảy ra và nền kinh tế TQ vẫn phát triển, quyền lực và thẩm quyền dự kiến của đảng CSTQ sẽ đem lại sự ổn định thể chế mà chế độ độc tài rất cần – hoặc cho là cần- cho sự sống còn. Cho đến nay, trong khi tăng trưởng kinh tế nhanh chóng và ngăn trở có hệ thống xã hội dân sự ở TQ chí ít ngăn cản việc viện đến một Thiên An Môn đẫm máu khác. So sánh một cách khái quát, sự đàn áp có hệ thống ở Lào, Campuchia, Việt Nam, đã giúp củng cố các chế độ độc tài cho đến bây giờ. Niềm tin của Bắc Kinh vào sức mạnh vững vàng của ổn định thể chế khiến việc đối phó với những kẻ bất đồng chính kiến không gặp trở ngại là một lựa chọn hợp lý cho mình.

Hãy xem xét Myanmar. Với lợi ích kinh tế và chiến lược của Bắc Kinh trong việc sử dụng quốc gia này làm trạm dừng để Trung Quốc tiếp cận nhiều hơn vùng Ấn Độ Dương, Tập có lẽ bực dọc khi tướng Min Aung Hlaing làm Myanmar trở nên bất ổn và khó lường. Chế độ của vị tướng này vốn không thân TQ. Nhưng có lẽ Bắc Kinh tính toán chọn lựa dân chủ thay cai trị quân sự sẽ gây nguy hiểm cho vị thế của TQ, thậm chí nhiều hơn. Trong những ngày liền sau quân đội tiếm quyền, Bắc Kinh thậm chí không thừa nhận xảy ra đảo chính và chỉ gọi đó là “sắp xếp nội các”, và ngăn cản Hội đồng Bảo an LHQ không được chỉ trích những gì đã xảy ra. Bên trong Myanmar, các cuộc nổi dậy chống TQ xảy ra liền sau đó lên án tin lan truyền TQ khuyến nghị đảo chánh do chính bản chất chuyên chế và đường hướng của họ. Những lời đồn đoán có vẻ không có cơ sở. Nhưng sự thật, đồn đoán lan truyền trong các đối thủ có đầu óc dân chủ của tập đoàn quân phiệt củng cố suy nghĩ rằng cai trị bằng quân đội theo ý thích Bắc Kinh.

Thứ hai: Sự nể vì. TQ của Tập ham mê ca tụng. Các nhà ngoại giao “chiến lang”  TQ ở Đông Nam Á không ngại ngùng thúc giục, và từ đó, ngầm yêu cầu những người hàm ân TQ, như vắc-xin cho nước sở tại dung chống Covid-19, công khai cám ơn lòng quảng đại của TQ – họ rất thích từ ngữ khen ngợi ngập tràn. Ở nước dân chủ, đề cao phẩm giá cá nhân hơn là tôn kính cấp bậc và sự biết ơn bắt buộc, việc “cúi đầu” không hề phổ biến. Ngược lại, dưới chế độ chuyên chế, việc xu nịnh bắt buộc có thể là bình thường và do đó dễ dàng thực hiện hơn để làm hài lòng nhà tài trợ nước ngoài cũng chuyên chế, những người có thể hoan nghênh và khuyến khích sự tôn vinh đó như là bằng chứng cho sự phục tùng cung cúc.

Việc Bắc Kinh thích giao thiệp với các nhà lãnh đạo quen trung thành và ca ngợi cho thấy rõ đường lối của TQ là lên án và trừng phạt những ai ở các nước dân chủ chỉ trích và từ chối sự kiểm duyệt của TQ. Giảm thiểu nguy cơ chọc giận Bắc Kinh có thể là một lý do để hạn chế tự do ngôn luận ở các nước sở tại. Nhìn lại quá khứ, nhìn tới tương lai, lịch sử TQ, một đế chế tự phụ, và sự đeo đuổi của Tập - “hồi sinh” hào quang quá khứ, trước “thế kỷ tủi nhục” vì đế quốc – chẳng có lợi cho việc so sánh một quốc gia phương Tây trên cơ sở bình đẳng với các quốc gia khác.

Thứ ba và cuối cùng: hiệu quả. Nếu TQ chuyên chế là một sản phẩm không cần nhiều tiến triển, trong lúc xã hội dân chủ đảo ngược các ưu tiên đó, thì cái lý đúng là, các nhà hoạch định chính sách TQ có thể, các thứ khác thì như nhau, ưa chuộng giao hảo với các lãnh đạo quốc gia chuyên chế, có thể làm được việc, chẳng bao giờ màng việc thế nào. Làm như vậy sẽ khiến ngoại giao của TQ đơn giản đi. Trong khi ở các nền dân chủ thì cần phải tính đến nhiều tác nhân hơn, cả chuyện nhiều người chỉ trích TQ mà thế mạnh của họ là ngôn luận được bảo vệ.

ĐÁNH LUI, NHÌN TỚI

Cách cắt nghĩa cấu trúc xác định về ảnh hưởng của TQ ở Đông Nam Á – về tầm vóc, cận kề, nền kinh tế “nam châm” – bỏ qua hành vi ngẫu nhiên của con người: khả năng của người dân, của các lãnh đạo, đặt vấn đề và từ chối lệ thuộc vào các điều kiện, hoàn cảnh có quá nhiều lợi thế của TQ. Có lẽ buồn cho Bắc Kinh là cái khả năng, thể hiện quá rõ trong tư duy ở những người tầng lớp ưu tú Đông Nam Á, những người dõi theo và có ảnh hưởng các vấn đề đối ngoại của quốc gia họ. Các quan điểm của các chuyên gia này được đưa ra hằng năm trong các cuộc khảo sát của viện ISEAS-Yusof Ishak, một Think-Tank ở Singapore. Bằng chứng ghi nhận số liệu cho thấy bất tín nhiệm gia tăng đối với TQ, trái lại, ngày càng tăng tín nhiệm cho Hoa Kỳ.

Theo khảo sát năm 2018, những người ưu tú này lại thiếu tín nhiệm cả Tàu lẫn Mỹ mức độ ngang nhau. Vào năm đó, 52% không tin rằng TQ sẽ “thực hiện đúng đắn” các sự vụ quốc tế, trong khi 51% cũng nói tương tự về Hoa Kỳ. Nhưng trong 2019 - 2020, với cả hai nước. các con số đều giữ như nhau và có phần bất lợi về phía TQ.

Qua năm 2020, 63% các người được hỏi ở Đông Nam Á không tín nhiệm TQ, so với 31% không tín nhiệm Hoa Kỳ. Nếu sự thay đổi ấy có vẻ kỳ quặc vì thái độ thất thường do tác động của Donald Trump, thì cần lưu ý rằng khảo sát 2020 thực hiện cuối nhiệm kỳ tổng thống, và câu hỏi về cái mà người ta kỳ vọng Hoa Kỳ và TQ có thể thực hiện trong tương lai. Hy vọng của TQ về các láng giềng trung thành nhận một đòn giáng mạnh trong các câu trả lời đối với câu hỏi liệu các nước ASEAN có buộc phải chọn bên giữa hai cường quốc đang cạnh tranh, thì họ sẽ ở về bên nào. Mặc dù có 39% người được hỏi chọn TQ thì có tới 62 % chọn Hoa Kỳ.

Ý kiến thì dễ thay đổi. Sự tín nhiệm đối với TQ và Hoa Kỳ sẽ biến động song song với biến động trong tương lai. Dù nghiên cứu khảo sát ở trên cho thấy TQ không đáng tin, nhưng các người theo chủ nghĩa bành trướng ở Bắc Kinh có thể thoải mái với với dữ liệu khảo sát về nhận thức của các quốc gia Đông Nam Á về quyền lực tương đối là chuyện đương nhiên, gạt qua bên sự bất tín. Được hỏi năm 2020, nước nào, tổ chức nào ở khu vực (như ASEAN hay EU) là siêu cường kinh tế ảnh hưởng nhất ở Đông Nam Á, 76% nói TQ. Chỉ có 7% nêu tên Hoa Kỳ. TQ lại thắng, dù chưa cách biệt áp đảo, khi cùng câu hỏi ấy đưa ra về ảnh hưởng chính trị và chiến lược. Việc TQ có ảnh hưởng nhất các mặt vừa kể thu về 49% đồng ý, so với 30% số người nghĩ Hoa Kỳ hợp với mô tả đó. Kết quả là, khảo sát vô tình hợp lý hóa việc TQ nuôi dưỡng chủ nghĩa định mệnh an bày (acquiescent) ở Đông Nam Á – vận mệnh hơn cơ hội, chính trị thực dụng hơn chính trị lý tưởng (destiny over opportunity, realpolitik over moralpolitik) – lợi thế nghiêng về Trung Quốc.

Với hoàn cảnh như thế, nước Mỹ phải làm gì? Thứ nhất, hoàn chỉnh thế trận an ninh Hoa Kỳ ở Đông Nam Á, chú ý phù hợp với thay đổi mạnh mẽ của TQ – hợp tác kinh tế. Thứ hai, mở rộng và làm sâu sắc thêm cam kết xã hội dân sự về các trọng điểm tương đối lợi thế của Hoa Kỳ là giáo dục chất lượng cao và dịch vụ y tế. Thứ ba, hợp tác với các cường quốc bậc trung, như Nhật Bản, giúp đáp ứng nhu cầu của Đông Nam Á về xây dựng hạ tầng thông qua mua sắm cạnh tranh, minh bạch tài chánh, phương sách chống tham nhũng. Thứ tư, với mức độ có thể và hữu ích, duy trì tiếp xúc, ủng hộ chính phủ đoàn kết quốc gia chống quân phiệt của Myanmar đang lưu vong, chí ít vì mục đích cứu trợ nhân đạo, và tiếp tục trừng phạt chính quyền Min Aung Hlaing. Thứ năm, xúc tiến thành lập liên minh các quốc gia sẵn sàng tuyên bố không một quốc gia nào có quyền kiểm soát Biển Đông.

TQ không hẳn tiếng tăm, ít hơn hay nhiều hơn, đáng kể hoặc liên tục, ở Đông Nam Á lục địa hơn là vị trí của họ ở các nước vùng biển trong khu vực. Lấy ví dụ, bất tín TQ nhiều nhất là ở VN “lục địa” và ở Philippines “biển đảo”, do nhiều lý do khác nhau. Việt Nam không quên lịch sử chống ách cai trị Trung Hoa và căm thù hành vi bắt nạt hiện nay ở Biển Đông. Hành động bắt nạt này cũng khiến người Phi phẫn nộ, lịch sử hậu thuộc địa của họ có xu thế, với những ngoại lệ, can dự việc “sống chung” với Mỹ. Nhưng sự hiện hữu “chiếc áo cơ chế” bó buộc (chữ tiếng Anh: straitjacket, loại áo dành cho tù để dễ trói tay họ- ND) với cách hiểu TQ, trung tâm của “vận mệnh chung”, hàm ý rõ ràng trong những nước sống gần TQ, từ đó, khó có khả năng phớt lờ cái ông hàng xóm khổng lồ, hống hách, và hay bắt bẻ.

Trung Quốc không cố tình truyền bá chế độ chuyên chế ở Đông Nam Á. Quan hệ của họ với láng giềng có động cơ lợi ích hơn là động cơ ý thức hệ. Tuy nhiên, với ngoại lệ rõ ràng về Việt Nam, người ta có thể hình dung ra một sự cộng sinh độc tài các thứ phát triển giữa TQ chuyên chế và các chế độ độc tài vệ tinh dọc theo biên giới phía nam TQ. Myanmar có thể thành một trường hợp thử nghiệm trong bối cảnh này. Nếu chính quyền quân sự đàn áp đối lập, nếu ASEAN chẳng cảnh cáo thành viên giết người, và nếu sự phẫn nộ của phương Tây đẩy tập đoàn quân phiệt vào vòng tay TQ, thì sự lớn mạnh phạm vi ảnh hưởng của TQ, dựa vào toa rập độc tài, ngày nào đó sẽ chặt nhỏ ASEAN ra từng mảnh tùy theo vị trí địa lý của họ.

TRẦN THIỆN KHIÊM QUA ĐỜI Ở TUỔI 95; NGƯỜI QUYỀN LỰC CỦA VNCH TRƯỚC NGÀY SỤP ĐỔ

Lời người dịch: Tổng thống Biden sẽ cho rút hết quân đội Mỹ khỏi Afghanistan cuối tháng 8. Nhiều quận lỵ đang rơi vào tay quân Taliban. Hoa Kỳ cho phép 2500 người nhập cư Mỹ; những ai từng làm việc với họ, kể cả thông dịch và phiên dịch. Sự kiện này nhắc đến ngày 30.4.1975 ở miền Nam Việt Nam. Hai mươi năm có mặt tại đất nước khốn khổ vì xung đột vũ trang quốc tế, Mỹ không mang lại hòa bình lâu dài cho đồng minh của mình. Tổng thống Mỹ tuyên bố: “Hãy để người dân Afghan tự quyết định tương lai của chính họ “. Đồng minh không có quyền trách cứ họ. Tôi thấy Mỹ là nước ít bị ràng buộc hay ám ảnh nhiều về quá khứ. Chia tay Nam VN rồi Afghanistan một cách “nhẹ tựa lông hồng”. Điều ấy không có nghĩa họ “chẳng có thủy có chung”. Nó nói lên một sự thật, các đồng minh Mỹ nên hiểu “hãy cứu mình là chính”. Nam Hàn thực hiện thành công tư duy này. Một Hàn Quốc vươn lên cường quốc kinh tế sau khi Mỹ rút quân không bao lâu. “Hãy tự cứu lấy mình” ở Nam VN như thế nào? Dưới đây là cái nhìn của một nhà báo Mỹ về nhân vật quyền lực ít ai để ý tới - cựu thủ tướng VNCH đại tướng Trần Thiện Khiêm. Không cứ, hễ báo Mỹ thì đều nói… thật. Bài báo có những chi tiết cho thấy nhiều thành kiến và không chính xác về chế độ VNCH và có thể về nhân vật từng được Mỹ quý trọng. Nhưng nó nói lên phần nào cái nhìn dư luận Mỹ về bối cảnh dẫn đến sự sụp đổ của VNCH. Nhắc đến nỗi đau này, tôi rất xót xa nhưng sự kiện là sự kiện, tôi cần can đảm nhìn về quá khứ và rất áy náy với một người đã khuất, bởi “nghĩa tử là nghĩa tận”.

(Tran Thien Khiem, 95, Dies; a Power in South Vietnam Before Its Fall). Bài của Robert D. McFadden đăng trên The New York Times.

Đại tướng Trần Thiện Khiêm, người đứng thứ hai sau tổng thống Nguyễn văn Thiệu của Nam Việt Nam trong sáu năm cuối chiến tranh, chạy sang Hoa Kỳ ngay trước giờ Sài Gòn rơi vào tay cộng sản năm 1975, và ông qua đời ngày 23 tháng 6 tại quận Cam, California, thọ 95 tuổi.

Cái chết của ông, trong trại dưỡng lão ở vùng Irvine, qua thời gian hồi phục sau cú ngã té, được đồng sự thân cận, thiếu tướng Nguyễn Khắc Bình xác nhận. Tướng Khiêm sống ở San Jose, hầu như không bao giờ xuất hiện trước công chúng từ sau cuộc chiến chấm dứt.

Một bậc thầy mưu đồ chính trị, tướng Khiêm làm thủ tướng Nam VN từ 1969 cho đến những ngày cuối cùng của chế độ, một nhân vật quân sự nhà nghề và là bàn tay quyền lực giấu mặt trong hơn hai thập kỷ người Mỹ can thiệp vào chiến trường VN. Ông tạo ra đảo chính và ngăn chặn đảo chính trong nước mình thập niên 1960.

Với sự chấp thuận ngấm ngầm của tổng thống John F. Kennedy và CIA Mỹ, tướng Khiêm miễn cưỡng giúp sắp xếp cuộc đảo chính quân sự, kết thúc bằng việc sát hại tổng thống Ngô Đình Diệm, một người chuyên quyền nhưng cũng là người gần gũi của ông, nhân vật mà ông và chính quyền Kennedy muốn lật đổ bằng một cuộc đảo chánh không đổ máu.

Tướng Khiêm, một con người với bề ngoài có vẻ khiêm tốn, làm đại sứ chính quyền Sài Gòn ở Hoa Kỳ và Đài Loan thời gian bốn năm. Ông từng nắm nhiều quyền hành đối với: cảnh sát; phụng sự xã hội; lực lượng quân cán chính 1,5 triệu người; “chương trình bình định nông thôn” phối hợp Mỹ-Việt nhằm thu hút “trái tim và khối óc” của nhân dân sống trong các làng mạc, người ta cho là du kích (Việt Cộng) kiểm soát.

Ảnh: Đại tướng Trần Thiện Khiêm lúc làm đại sứ tại Mỹ.

Là cánh tay mặt của tổng thống Thiệu, tướng Khiêm trấn áp đối lập, "chặt tay chặt chân" kẻ ủng hộ đối thủ không đội trời chung, phó tổng thống Nguyễn Cao Kỳ, cựu tư lệnh không quân. Tướng Khiêm là nhà hành pháp cứng rắn và là “con cưng” (darling) của tòa đại sứ Mỹ.

Năm 1969, ông được cựu trung tướng, bạn thân, là tổng thống Thiệu thăng thưởng hai chức – tháng ba, làm phó thủ tướng, tháng tám, lên thủ tướng.  Tướng bốn sao, ông cũng là sĩ quan quân sự cao nhất nước.

Việc đề bạt ông làm thủ tướng đã đưa quân đội vào chế độ tam đầu chế, một chế độ quân sự có vỏ bọc dân sự, củng cố sức đề kháng của chế độ Sài Gòn trước bất cứ cuộc đảo chánh hòa bình nào.

Trong vài năm sau đó, dưới sức ép phản chiến trong nước, Hoa Kỳ bắt đầu rút quân và cắt giảm viện trợ cho Nam Việt Nam. Bắc Việt tuyên bố họ sẽ không bao giờ nói chuyện với chế độ ông Thiệu, và Sài Gòn mất dần chỗ dựa trong chiến tranh. Nhưng đã có một ông Khiêm hớn hở bên cạnh ông Thiệu đón tiếp các nhân vật quan trọng như tổng thống Richard M. Nixon và nội các chính phủ Mỹ.

Khi nạn tham nhũng lớn mạnh ở Nam VN, ông Khiêm bổ nhiệm nhiều người thân vào chính quyền dân sự của mình. Theo các nhà điều tra và truyền thông Mỹ, ông giao hai người anh em giữ chức vụ ngành hải quan, giúp họ thu lợi vô kể từ buôn ma túy, hàng lậu ở phi trường Tân Sơn Nhất và hải cảng quốc gia; Một anh em cọc chèo làm đô trưởng Sài Gòn; một người bà con khác làm tư lệnh cảnh sát quốc gia.

Khi lạm phát tăng cao, ông Khiêm đưa ra các biện pháp thắt lưng buộc bụng và nỗ lực bình định lớn hơn. Năm 1971, ông khẳng định 90% dân chúng sống trong vùng tương đối an ninh. Nhưng cùng năm đó, đối mặt với sự chống đối tăng dần trong dân chúng, chính phủ bãi bỏ hầu hết các cuộc bầu cử, tuyên bố các quan chức từ tỉnh trưởng đến các xã sẽ được chính phủ bổ nhiệm.

Năm 1973, các vấn nạn lớn hơn xuất hiện. Hiệp định hòa bình ký ở Paris giữa Bắc Việt, Hoa Kỳ, và tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, một cách miễn cưỡng. Ông Thiệu coi hiệp định là sự phản bội của người Mỹ từng cam kết ủng hộ VN. Can thiệp trực tiếp của Mỹ vào chiến tranh chấm dứt. Nhưng sau ngừng bắn, chiến sự giữa Nam-Bắc vẫn tiếp diễn. Ông Thiệu bám chặt quyền lực mặc dù cũng giao bớt một số nhiệm vụ cho ông Khiêm năm 1974.