Thuở khai thiên lập địa, đàn ông chứ không phải đàn bà xuất hiện đầu tiên. Thượng Đế là đàn ông; không đàn ông, sao người ta gọi là Ông Trời, không gọi Bà Trời? Tôi nói theo Cựu ước của Ky-tô giáo, Adam, người đàn ông có mặt đầu tiên trong vườn Eden. Thấy anh chàng này buồn bã, Thượng Đế rủ lòng thương, bèn tạo thêm một người nữ tên Eva bằng cái xương sườn của người đàn ông kia.
Có lẽ, sự xuất hiện của đàn bà từ sự vay mượn của đàn ông, nên chi, đàn bà phải “trả” mút chỉ: cả ngàn đời nhân sinh, họ luôn phải “phụ thuộc” đàn ông?
Trong lịch sử con người, nói gần hơn, lịch sử con người châu Á, ảnh hưởng Nho giáo vẫn không dứt, phụ nữ luôn ở “chiếu dưới”. Khổng Tử: “Phụ nhân nan hóa” hoặc: “Người quân tử nên xa nơi bếp núc” (Ý chuyện nấu ăn của đàn bà!). Không rõ, nhận xét của vị vạn thế sư biểu này có đúng của ông, hay là, hậu thế nói, rồi gắn vào mồm ông, để cái gì cũng thành “Tử viết” cho nó thêm linh?
Người phụ nữ bị gọi là “đàn bà”, hai từ này tưởng bình đẳng như “đàn ông” nhưng không phải. Khi dùng để dè bĩu, khi dễ, đàn ông hay văng ra câu: “Đàn bà đái không qua ngọn cỏ”.
Ngày xưa, phụ nữ chịu lép không ít. Người chồng sẽ không để vợ nấu cơm nếu biết ngày đó vợ mình hành kinh. Đàn bà không được phép đi lên nhà “trên” nơi có bàn thờ gia tiên, dù “nhà trên” có lồng chim hoặc có chỗ con chó mực hay nằm.
Bây giờ, đàn bà hưởng rất nhiều quyền lợi ngày càng ngang ngửa với đàn ông. Nhưng họ có thật sự như đàn ông? Hẳn là không. Phụ nữ còn phải lo sinh đẻ. Gần như trăm phần trăm, các bữa ăn trong gia đình Việt Nam đều có bàn tay của người phụ nữ; không bà thì mẹ, không mẹ thì vợ, không vợ thì em, chị (gái), thậm chí là con gái, có em còn rất nhỏ tuổi.
Đàn ông ăn cơm xong thường nhảy lên sô pha ngồi xỉa răng, hút thuốc, xem thời sự, còn gọi nước trà nóng để uống, và những việc lỉnh kỉnh của chén bát, nồi niêu soong chảo, đàn bà đều quán xuyến. Người ta xem cái việc nhỏ nhặt nhưng hằng ngày này là chuyện thường tình. “Chuyện của đàn bà”.
Có phụ nữ nào muốn vùng lên không? Có rất nhiều. Nhưng khi muốn vùng lên, họ lo sợ sẽ bị đè xuống, bởi những đức chồng đàn ông vai u thịt bắp. Lo sợ một phần, phần khác là suy nghĩ của phụ nữ: làm mẹ, làm vợ thì phải hi sinh cho chồng, cho con, có khi còn cho cả “gia nương” nhà chồng. Nhiều người đàn ông hiểu thấu thì họ thường yêu thương phụ nữ. Đỡ đần cho người phụ nữ sẽ là việc làm thiết thực họ nghĩ tới. Có mấy ai như thế? Chưa có thống kê nhưng tôi chắc không nhiều.
An phận là thói quen lâu ngày trở thành thuộc tính của phụ nữ. Những việc tầm thường trong sinh hoạt hằng ngày, người phụ nữ cứ nghĩ đó là nhiệm vụ tự nhiên của họ. Bà nội, bà ngoại, mẹ, chị của họ từng làm những việc tầm thường như rửa chén, quét nhà, giặt giủ, đi chợ, cơm nước…từ bao đời nay. Tiếp tục “truyền thống” ấy là chuyện đương nhiên.
Khi yêu nhau, lời lẽ đường mật của đàn ông luôn luôn làm phụ nữ sung sướng đến nao lòng. Nhưng khi “em ơi” yêu thương trở thành “bà kia” gia trưởng, người phụ nữ vẫn cho mình là phận đàn bà. Họ cho hình ảnh quì gối tỏ tình của đàn ông như là một kỉ niệm. Họ không hề nghĩ tới cái quì gối đó báo hiệu viễn ảnh họ sẽ “quì gối” cả cuộc đời mình.
Có cần tuyên dương ngày 8 tháng 3 hay không? Tôi thấy không. Người mẹ, người vợ, người yêu trông mong đến ngày “phụ nữ” để được quí trọng. Họ quên rằng cả năm họ có được như vậy? Phụ nữ trông chờ vào đàn ông tuyên dương họ. Nếu đây là suy nghĩ của phụ nữ, tôi cho rằng: một suy nghĩ sai lầm.
Phụ nữ hãy tự “tuyên dương” lấy mình.
- Phụ nữ cần chú ý đến sức khỏe bên cạnh sắc đẹp. Để khi làm một việc gì đòi hỏi sức khỏe, họ không cần đến sức mạnh của đàn ông. Có sắc đẹp để giữ đàn ông không bằng có sức khỏe để thu hút họ. Ngoại trừ tật bệnh, không đàn ông nào thích thú có một phụ nữ gương mặt như hoa nhưng thân hình như cây sậy. Ngày xưa, phụ nữ phụ thuộc hoàn toàn đàn ông vì họ không đủ sức khỏe để làm những công việc nặng nhọc nơi đồng áng. Bây giờ khác rồi.
- Tuyên dương mình, người phụ nữ không phải tự mua hoa, mua quà cho mình, chỉ một ngày 8 tháng ba, không cần chi đàn ông. Tự tuyên dương bằng sự nỗ lực, bất cứ ngày nào muốn, phụ nữ cũng có thể sắm những gì mình yêu thích mà không phải ngửa tay chờ sự hào hiệp của đàn ông. Tôi muốn nói đến sự tự lập về tài chánh, nói to tát hơn, không phụ thuộc về kinh tế vào chồng. “Anh làm ra ba đồng, tôi cũng làm ra như anh, tuy tiền có thể ít hơn” là cơ sở để phụ nữ giải phóng lấy mình. Tất nhiên, điều này thực hiện khi đàn ông và đàn bà còn tuổi làm việc.
- Tự tuyên dương mình, phụ nữ hãy tuyên dương sự trí tuệ. Hãy đạp xuống đất, cái câu của đàn ông viện dẫn: “Đàn bà đái không qua ngọn cỏ”. Khi có hiểu biết nhất định, không phải mọi cái “đợi tôi hỏi ý ổng”, người phụ nữ mới có cơ hội tự giải thoát mình. Và, điều này rất rõ, bất cứ người đàn ông nào cũng yêu thích người phụ nữ có hiểu biết bằng họ hay cao hơn họ. Phụ nữ không nhất thiết phải đến trường mới có điều kiện nâng cao tri thức. Khi một đứa con tin tưởng mẹ cũng như cha về các vấn đề chúng cần giải thích thì khi ấy cái gia đình đó sẽ vô cùng hạnh phúc: sự hiểu biết là điều kiện để thật sự yêu thương.
- Phận gái “mười hai bến nước”. Câu này ngày nay còn đúng không? Vẫn còn giá trị nhưng chưa phải đúng. Nếu phụ nữ không tự tạo cho mình những kỹ năng sống, kiến thức làm mẹ, làm vợ, làm việc trong xã hội, thì không phải “mười hai bến nước” đâu; có khi là “hai mươi bến nước” không chừng: sự chọn lựa bến nào sẽ vô cùng bối rối.
- Có người nói “hôn nhân là sự may rủi”. Tôi thì nghĩ có may rủi thật nhưng chúng ta có quyền chọn lựa may hay chọn lựa rủi bằng sự cảm nhận đầu tiên khi tìm “nửa bên kia”. Ngày 8 tháng 3, có thể cô gái sẽ nhận một chiếc xe hơi làm quà tặng. Nhưng nếu ngoài ngày ấy, người tình lý tưởng kia không nhìn thấy, lúc nào đó, trên gương mặt của người anh sẽ cưới làm vợ, có cái gì đột ngột hiện lên, chỉ là lo lắng nho nhỏ, tôi cam đoan, người đàn ông này chỉ chú ý thân hình đẹp của người phụ nữ mà không để ý trái tim của nàng có thế nào hay không. Mười hai bến nước là có thật nhưng sự lựa chọn chỉ có một và tôi đoan chắc người phụ nữ chân thành sẽ tìm ra cho mình một bến trong mà không vướng vào bến đục nếu yêu nhau vừa bằng con mắt vừa bằng trái tim.
- Dù sao, ngày 8 tháng 3 người Việt Nam vẫn còn coi trọng dẫu biết rằng, người phụ nữ chưa phải bình đẳng hoàn toàn với nam giới do khác biệt cơ thể và nhiệm vụ truyền giống. Họ vẫn còn phải chịu đựng nhiều, không phải chỉ công việc nội trợ hằng ngày hay làm vợ, làm mẹ. Họ còn chịu đựng một nền luân lý cổ hủ: trọng nam khinh nữ, “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” (một nam kể như có, mười nữ cũng như không).
- Có phụ nữ nào không muốn sinh con? Có phụ nữ nào quyết định giới tính của đứa con sắp chào đời của mình? Tâm lý đè nặng nếu phụ nữ sinh con một bề, nhất là toàn bề nữ. Cái gọi là phục hung nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc có việc phát triển nhà thờ họ nhà thờ tộc. “Nhất nam” là niềm hãnh diện, “thập nữ” là nỗi lo âu. Sức ép “truyền thống” đè hết sức nặng lên vai người phụ nữ nếu chẳng may không có con “nối dõi tông đường”.
Các chị em phụ nữ có hoàn cảnh này, hãy mạnh mẽ lên. Đây là sự bất công có thể là lớn nhất trong cuộc đời người phụ nữ. Sự bất công này sẽ bớt bất công khi các chị nghĩ đến những người đi tu. Họ không sinh con, chưa nói trai gái, họ bất hạnh lắm hay sao? Cuộc sống rồi cũng trôi qua tháng ngày. Có con hay không có con, có con trai hay không có con trai, hãy là chuyện cuộc sống nhân gian. 60 năm cuộc đời (không kể thời gian chưa trưởng thành) là bao, tại sao chúng ta lại để cái truyền thống “trọng nam khinh nữ” ấy đè bẹp cuộc đời mình. Hãy xóa ngay cái quan niệm dốt nát “ bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại” (bất hiếu ba tội, không con lớn nhất).
- Và, cuối cùng, phụ nữ có quyền "bình đẳng" hưởng thụ cái mà đàn ông coi như đương nhiên “năm thê bảy thiếp”, biến tướng dưới hình thức bia ôm, karaoke, mát-xa tươi mát? Tôi xin không có thêm ý kiến.
Chỉ nêu ra ý kiến của học giả Phan Khôi nói về bà Võ Hậu.
“Tục An Nam ta, người đàn bà nào mà hanh hao, lang dâm trắc nết, thì thường bị người ta mắng là “đồ Võ hậu”….“Các ông vua nhốt trong cung đến những mấy ngàn đàn bà, hoang dâm vô độ, ấy là cái quyền của các ổng. Vậy thì bà vua Võ hậu chọn cung nhân bằng đàn ông để mua vui trong lúc “vạn cơ chi hạ”, cũng là cái quyền của bả. Như nói Võ hậu làm như vậy là thương luân bại lý, thì các ông vua làm như kia cũng như thương luân bại lý. Không trách thì thôi; đã trách thì nên trách hết thảy”.