Sunday, October 19, 2025

Nhồi sọ. GS, TS cũng bị à?

Tôi có may mắn quen vài người trí thức khoa bảng vời vợi (so với tôi). Có vị là giáo sư luật ở Mỹ được các đại học tiếng tăm ở VN mời về thỉnh giảng. Có vị là giáo sư dạy về ngữ học ở Hoa Kỳ. Có vị cũng là giáo sư luật, từng là nữ thẩm phán người Việt đầu tiên tại Mỹ. Có vị là tiến sĩ, từng vận động tranh cử tổng thống cho Dukakis cùng với Bill Clinton (khi ấy là thống đốc) và từng là cố vấn về giáo dục cho một thủ tướng VN.

Tất nhiên họ là người quen  "ảo" trên facebook, dù có nói chuyện trực tiếp hay qua email. Và tất nhiên, ở VN tôi cũng có nhiều bạn học- không phải bạn ảo- là tiến sĩ, phó giáo sư, hiệu phó đại học...có thể đếm năm bảy người . Nhưng nhận thức của họ không giống nhau: Tôi muốn nói những người quen có nền giáo dục Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ  và những bạn học hấp thu nền giáo dục CHXHCNVN.

Điển hình nhất là về chiến tranh Ukraine. Tất cả- chứ không phải một số- bạn tiến sĩ, giáo sư ấy đều cho Putin và điện Cẩm Linh  thuộc chính nghĩa. Zelensky và Kiev thuộc "con rối" của phương Tây và NATO. Cãi văng nước miếng, tôi vẫn "thua" họ những trí thức XHCN. Chúng tôi tranh luận về vấn đề này. Ví dụ, họ lập luận Nga coi Ukraine là lãnh thổ từ xưa  của mình trong lịch sử, việc thu hồi lãnh thổ là lẽ đương nhiên. Tôi nêu cũng ví dụ lịch sử: Campuchia (nếu có người tài như Putin) có thể thôn tính một phần lãnh thổ VN (phía Nam) vì từ xưa đây là vương quốc của họ. Họ nói tôi sai vì so sánh khập khiễng. Nhưng tôi lại thấy đúng- nếu suy luận.

Khi đọc bài này (bên dưới), tôi mới ngộ ra, những người có bằng cấp cao trong hệ thống giáo dục XNCN đọc sách nhiều nhưng là sách chuyên môn. Còn đa số không đọc "hầm bà lằng" như...tôi nên tư duy mỗi "bên" mỗi khác. Tác giả bài viết, ông Dương Quốc Chính, một kiến trúc sư,  là người tôi rất hâm mộ. Suy nghĩ của ông là suy nghĩ của những người hiểu biết. Đọc bài ông viết, tôi mới thấy trí thức có nhiều loại. Theo tôi, những ai thức tỉnh được người khác, họ là trí thức. Những ai dùng trí tuệ của mình để ru ngủ người khác không phải là trí thức. Họ là trí...ngủ.

KHAI HÓA VĂN MINH

Đã khá nhiều người hỏi mình câu đại ý: "Anh cho em biết kinh nghiệm đọc sách, sao anh đọc được nhiều thế, giới thiệu cho em sách nọ sách kia...". Đại khái là hỏi về kinh nghiệm đọc sách. Nhân tiện có chuyện gây tranh cãi rất nhiều về bài báo "Tuyên giáo phải khai hóa văn minh" của ông Vũ Ngọc Hoàng (VNH), nên mình viết status này luôn, vì có liên quan. Đa số rất bức xúc khi thấy tác giả cho rằng TG phải có  nhiệm vụ khai hóa cho dân. Đọc câu đó đã phát rồ rồi nên chẳng quan tâm đến các nội dung khác của bài báo nữa! Đây chính là kinh nghiệm khi đọc, nhất là đọc cái gì dài dài, như là sách.

Nói thật là mình cũng chẳng dám khoe là đọc sách nhiều, vì đọc sách chẳng biết thế nào là nhiều, mình đọc vài trăm cuốn, lại có người đọc vài ngàn cuốn, núi cao lại có núi cao hơn. Mình chỉ dám nhận là đọc sách nhiều hơn mức trung bình của người VN. Vì người VN đa số là ít đọc! Các GS TS hàn lâm học nhiều, bằng cấp nhiều, mới đọc thiên kinh vạn quyển, vì đọc là nghề của họ, mình chỉ là nghiệp dư thôi.

Mình cũng không phải là người có trí nhớ tốt, vì ngày xưa học mấy môn thuộc lòng cùng chỉ trung bình. Có chăng là mình chỉ có trí nhớ logic, tức là nhớ các sự kiện là chuỗi nhân quả. Chính thế, để nhớ lâu, thì mình hay tự xâu chuỗi các sự kiện, con tằm nó đẻ ra tơ, tơ dùng để may áo, thế mới nhớ được về con tằm! Rất may là cách làm đó nó tốt cho việc đọc sách, nhất là sách lịch sử, chính trị. Vì các sự kiện thường xảy ra do các lý do biện chứng, ít khi là ngẫu nhiên.

Bí quyết để đọc được nhiều, nhanh và nhớ lâu là gì?

Bí quyết là chả có bí quyết gì cả. Tất cả những lò luyện đọc sách mà lật trang như đếm tiền theo mình là lừa đảo hết. Đọc sách  như tập chạy marathon. Chạy mãi thành quen, như người ta đi bộ, thấy nhẹ nhàng như không, thích nhanh thì nhanh, thích chậm thì chậm, tùy hoàn cảnh. Tất nhiên cũng có vài bí quyết để đọc nhanh, nhưng nó thiên về mẹo vặt, đọc nhanh để làm gì nếu không nhớ được, không móc nối được sự kiện, không phân biệt được đúng sai?

Mình đọc sách từ rất sớm, chắc tầm lớp 5 bắt đầu đọc tiểu thuyết và đủ các loại hầm bà lằng, cày hết. Chính vì kinh nghiệm đó nên mình vẫn khuyên nhiều người là nên cho trẻ con đọc sách sớm, từ khi chúng nó bắt đầu biết đọc. Bởi vì lứa tuổi ham hiểu biết của trẻ là từ khoảng 6 tuổi tới khoảng lớp 10. Giai đoạn này rất quan trọng, vì trẻ nó đọc sách không vụ lợi, có nghĩa là nó đọc chỉ vì nó cần hiểu biết cái mà nó thích, chứ nó không quan tâm kiến thức đó sau này để làm gì. Còn người lớn thì khi đọc sách thường hay thực dụng, hay tự hỏi "Đọc sách này để làm gì?". Chính vì sự vụ lợi đó nên dân VN không đọc hoặc chỉ hay đọc sách giáo trình, self-help, sách dạy làm giàu và sách thiên về giải trí. Người ta ít khi đọc sách vì kiến thức mà không ra tiền hoặc không ra 1 lợi ích trước mắt gì đó. Ví dụ cuốn Đắc nhân tâm bán rất chạy, vì nó dạy người ta cách quan hệ, cách mua chuộc lòng người. Sách của Tony buổi sáng cũng vậy. Đó là kiểu đọc sách thực dụng của người lớn, khi chúng ta đã có lý trí.

Nhưng mặt trái của cách đọc sách đó là chúng ta sẽ chỉ có kiến thức hạn hẹp ở những thứ mà chúng ta thấy cần, tiếc rằng đa số những kiến thức mà ta thấy cần là quá ít so với kho tàng kiến thức nhân loại. Chúng ta, con người XHCN, đã không được giáo dục khai phóng nhưng chúng ta lại lười đọc sách hoặc không bao giờ đọc sách, tức là chính ta cũng tự ngăn cản sự khai phóng bản thân. Bởi vì trước khi đọc, chúng ta thường đặt câu hỏi: "Đọc sách này để làm gì?" Và đa số câu trả lời là "Chả được tích sự gì". Vì thế mà chúng ta chẳng có nhu cầu đọc sách gì hết. Vì không đọc vẫn kiếm tiền tốt, vẫn quan hệ tốt.

Ví dụ nhỏ là con gái mình, hơn 1 năm nay nó nghiên cứu về các loài khủng long, thiên văn học, các nền văn minh Ai Cập, Hy Lạp và...các loài mèo, gần đây thêm sách dạy vẽ và gập giấy! Người lớn chúng ta sẽ thấy nó rảnh háng quá, đúng không? Mình thì chiều nó hết, miễn là nó thích đọc là mua cho nó sách, dù sách trẻ con rất đắt, vì màu mè. Bởi vì khi trẻ còn có đam mê tìm hiểu lĩnh vực gì đó thì ta phải tìm cách nuôi dưỡng đam mê đó cho nó. Chỉ cần lờ đi vài năm nữa, khi mà trẻ học được thói thực dụng của người lớn, thì nó sẽ không bao giờ đọc những thứ "vô bổ" đó nữa. Thay vào đó là nó chăm chỉ học Toán, học Văn...để học thật giỏi, điểm thật cao, đó là kiểu thực dụng của trẻ con theo định hướng thực dụng của bố mẹ chúng.

Chính vì mình đọc sách từ bé và hầm bà lằng thế, nên mình có nền tảng kiến thức rộng 1 cách tự nhiên, chẳng cần ai ép. Chính thế nên bây giờ mình hay bị chửi là cái quái gì cũng chõ mồm vào được, làm gì có chuyên môn mà chém?! Đấy là do cái não trạng của người Việt chúng ta, vốn được đào tạo chỉ để làm chuyên gia, hoặc culi, nên trong đầu tự nhiên có phản xạ là cứ phải được đào tạo chuyên sâu thì mới có thể hiểu được sâu về 1 lĩnh vực nào đó. Người ta không thể tin được ai đó không có bằng cấp chuyên ngành mà có thể hiểu được về lĩnh vực trái ngành. Đó là thứ tư duy ngụy biện, nó ăn sâu vào não người Việt rồi.

Từ thói quen đọc sách sớm, cộng với việc tự học cũng sớm tương tự, nên mình khá thoải mái khi tìm hiểu về 1 lĩnh vực hoàn toàn mới mà thấy cần biết. Chẳng hạn như khoa học chính trị và kinh tế vĩ mô mình mới tự đọc sách khoảng 5 năm nay. Lịch sử thì chắc cỡ 20 năm hoặc hơn, tất cả đều hoàn toàn trái ngành. Còn kỹ năng viết thì nó đến 1 cách tự nhiên, do...chửi nhau trên mạng nhiều! Viết kém trên mạng thì không bị điểm thấp, nhưng bị chửi ngu như chó, như bò, nên phải phấn đấu thôi!

Khi tự đọc, tự học được đủ nhiều và sớm thì tự nhiên sẽ được tự do tư tưởng, sẽ tự diễn biến thôi. Đa số bò đỏ là do ít đọc. Một số GS TS vẫn là bò đỏ là do bị nhồi sọ quá lâu, không có cơ hội đọc sách nhiều lề, tức là họ ít có cơ hội tự học, tự đọc từ bé, nên khi trưởng thành họ sẽ có xu hướng tự nhồi sọ chính mình thêm và lảng tránh sự thật. Mình không thể tin rằng ai đó đọc sách đủ rộng lại có thể thành bò đỏ, còn thiên tả thì không sao, đó là sự lựa chọn cá nhân.

Tất cả câu chuyện dài mình kể bên trên chính là quá trình tự khai hóa văn minh. Bất cứ ai, nhất những người giàu lòng tự ái như người Việt, mà nghe thấy ai đó nói là họ khai hóa văn minh cho mình là sẽ nổi điên ngay. Ngay như người Pháp hay Tàu ngày xưa rõ ràng là khai hóa cho người Việt trong quá trình xâm lược, nhưng vẫn bị người Việt chửi như thường! Thế nên 1 ông cựu phó Ban TG mà dám chém như vậy thì rõ ràng là sẽ bị chửi nặng.

Nhưng mình thì nghĩ khác, mình ít quan tâm đến cảm xúc như vậy, dù biết thừa câu nói đó khá là hoang tưởng! Mình quan tâm đến những ẩn ý phía sau câu đó hơn, vì thực sự nó nhạy cảm hơn nhiều, với chính quyền, với ngành tuyên giáo. Câu "TG phải khai hóa văn minh" chỉ là 1 câu mang tính mong muốn, nó không hề khẳng định rằng TG ĐÃ KHAI HÓA VĂN MINH, đại khái cũng như nói đảng CS VN quang vinh muôn năm, CT HCM sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta, nó thiên về hô khẩu hiệu, mà khẩu hiệu kiểu CS đa số là hoang tưởng. Vậy tại sao phải cay cú vì chuyện đó? Nhưng những câu ông Hoàng phê phán ngành TG, phê phán đảng thì hoàn toàn là thực tế, đó mới là điều đáng quan tâm, nhất là khi nó được đăng công khai tên 1 tờ báo đảng to như báo TN.

Tóm lại, nếu kỹ năng đọc sách của bạn đủ nhiều thì khả năng đọc hiểu sẽ nhanh và hiếm khi bị hiểu sai thông điệp của tác giả. Nói cách khác là rất khó bị lừa bởi câu chữ hay tin giả. Nếu kiềm chế cảm xúc tốt thì cũng sẽ thấy được các lớp ý nghĩa ẩn sau những con chữ.

Status này viết về đọc sách, nên mình cố tình viết dài để lọc bớt độc giả. Đọc không nổi  trang A4 thì chả thể nào đọc được sách. Kinh nghiệm riêng về đọc sách lịch sử, hồi ký chính trị...mình sẽ viết cụ thể trong status khác.

Tác giả: Dương Quốc Chính.

MŨI NÉ

Đặt tên mới cho đơn vị hành chánh mới đang là đề tài nóng của xã hội. Ông cha ta đặt tên đất mới khi Nam tiến như thế nào? Ngoài yếu tố lịch sử, truyền thống, văn hóa, tiền nhân  đặt tên mới rất …thực tế- Mũi Né chẳng hạn. Hay Hòn Rơm.

Nhìn ảnh, quý vị hình dung tại sao doi đất nhô ra biển lại có cái tên rơm rạ như thế. Chắc chắn vùng cát biển này không hề trồng được lúa. Không lúa, làm gì có rạ, có rơm. Rơm là vì cây lúa phơi khô khốc y như màu cái doi đất này. Hòn Rơm là dải đất cỏ không mọc nổi huống hồ gì cây. Hình thù hòn đất rất giống đống rơm. Đặt Rơm cho hòn đất, tiền bối vào khai phá vùng đất cằn cỗi này để nhớ cây lúa quê nhà (đương nhiên ở Bắc).

Còn tại sao là né, Mũi Né. Xem hình chụp bằng điện thoại, quý vị không thể hình dung cái “mũi” này lại chia vùng vịnh yên tĩnh ở đây ra làm hai: Bãi Trước và Bãi Sau. Tôi không nhắc hai bãi biển nổi tiếng Vũng Tàu đâu nha. Mùa gió bấc (hay gió Bắc?) tàu thuyền đánh cá vào neo đậu ở vùng vịnh Bãi Trước. Mùa gió Nờm (Nồm) thì thuyền ghe đánh cá sẽ lục tục kéo về vùng vịnh Bãi Sau. Sao vất vả thế? Để tránh gió mạnh, gió bão. Tránh tức là cách gọi lịch sự của né. Né là nép vào, tìm sự chở che. Thế là mũi (doi đất nhọn đâm ra đại dương) có tên Mũi Né.

THAY ĐỔI LÀ XU THẾ

Kẻ còn, người mất. Đà Nẵng chính thức là tên sau sáp nhập. Là người Quảng Nam, làm sao tôi không xót xa khi cái tên yêu dấu, 550 năm trường tồn, lại chìm vào quá khứ. Tôi có một bài viết về việc chọn tên Đà Nẵng thay Quảng Nam sau sáp nhập. Nhưng vì sao tôi lại xót xa. Xót xa là tình cảm. Con tôi phải ra khỏi gia đình để lấy vợ, theo chồng; chúng tách rời ruột thịt. Cha mẹ ai mà chẳng xót xa. Nhưng chúng có gia đình riêng, hạnh phúc riêng, xót xa biến thành niềm hạnh phúc. Quảng Nam ra đi để Đà Nẵng còn lại. Xót xa mà hạnh phúc. Thành phố Đà Nẵng hay thành phố Quảng Nam? Tôi chắc chắn sẽ nghe câu trả lời không lưỡng lự.

Nhưng ý chính của tôi không phải câu chuyện mất còn địa danh. Không bao giờ tôi xưng mình là người Đà Nẵng. Chiến là người Quảng Nam. Hàng trăm ngàn người Đà Nẵng sẽ nói họ là người Quảng Nam. Lịch sử và văn hóa không bao giờ mất. Nếu vì mất tên là mất lịch sử, mất văn hóa thì không ai gọi Sài Gòn thay Hồ Chí Minh hay quên VNDCCH là thể chế cụ Hồ Chí Minh đọc bản tuyên ngôn độc lập văn minh và dân chủ nhất.

Đà Nẵng là tên còn lại của Quảng Nam. Khi sáp nhập địa giới, nhà cầm quyền có thể đã nghĩ tới sự giao thoa: thành phố với thôn quê; bờ biển với núi rừng; văn minh và chậm văn minh. Tôi nghĩ là như thế. Và tôi khẳng định: tôi nghĩ đúng.

Luân chuyển cán bộ thật ra là khá hay. Cán bộ sẽ mở mắt rộng hơn và khác hơn. Nhưng tôi có cảm giác sự luân chuyển ấy chưa sòng phẳng. Số cán bộ sinh ở miền Nam luân chuyển công tác ra miền Bắc nhiều hay bằng hay ít hơn số cán bộ sinh ở miền Bắc vô Nam? Tôi không rõ. Nhưng nếu sự luân chuyển cán bộ có màu sắc cục bộ địa phương thì chủ trương đó chưa phải hoàn Mỹ.

Luân chuyển để đem cái mới đến nơi công tác mới, đó mới đúng ý nghĩa của luân chuyển cán bộ.

Ở chế độ VNCH, quan chức cấp quận không bao giờ là người địa phương. Không phải địa phương không có người. Người nơi khác đến làm việc sẽ tạo không khí mới nơi nơi công tác: không khí vô tư và sáng tạo. Vô tư vì viên chức ấy không có bà con ruột thịt nơi công tác. Sáng tạo nhờ mang nhãn quan mới đến nơi ở mới. Khi có luồng gió mới thổi vào một nơi nào đó, không khí cũ kỹ sẽ thay đổi, nó tươi hơn, nó mát hơn, và nó thoáng đạt hơn.

Khi những vùng quê Quảng Nam có không khí mà những cán bộ mang từ thành phố Đà Nẵng lên, không khí ấy sẽ khác rất xa. Hành chánh bây giờ chỉ còn tỉnh và xã thì sức mạnh hành chánh dễ tác động đến cơ sở nhiều hơn trước đây khi còn cấp huyện. Chính cái đi trước của Đà Nẵng giúp Quảng Nam đi nhanh. Ví dụ: Quảng Nam có chắc làm du lịch bằng Đà Nẵng? Và văn hóa nữa. Dù có trầm tích văn hóa sâu hơn Đà Nẵng, xiển dương văn hóa, chắc gì Quảng Nam qua Đà Nẵng. Bởi người Đà Nẵng là người Quảng Nam.

Nói cho rõ, tôi không muốn hai địa danh yêu thương của tôi phải đấu đá nhau để xem ai thua ai thắng. Tôi chỉ muốn nói: sự thay đổi sẽ làm cho xã hội tốt hơn khi cái mới luôn là  động lực. 50 năm và có lẽ 70 năm, nhà nước VN mới công nhận kinh tế tư nhân là động lực phát triển kinh tế đất nước. Mới đó chứ. Tuy rất cũ với người.

Mong muốn vươn lên của đất nước bắt đầu từ mong muốn đổi mới ở làng, ở xã, ở nơi thấp nhất. Hãy đặt những vị trí lãnh đạo địa phương là người không phải ở địa phương, nhà nước sẽ thổi hơi thở mới vào một đời sống mới. Không phải quản lý dân mà phục vụ dân thì cán bộ nào không được miễn là cán bộ tài đức. Luân chuyển cán bộ sẽ trở về ý nghĩa tốt đẹp nhất: vô tư và sáng tạo  trong vai trò công bộc thật sự của dân, chứ không phải là khẩu hiệu hô hào và sáo rỗng.

ĐIỆN ẢNH MIỀN NAM

(Lời người dịch: “Việt Nam không đòi xương máu, Việt Nam kêu gọi thương nhau”, câu hát của Phạm Duy, trong phim NGƯỜI TÌNH KHÔNG CHÂN DUNG. Một cuốn phim không ca ngợi chiến tranh. Một cuốn phim nói lên số phận con người trong chiến tranh. Số phận đau thương không chỉ của những người cầm súng. Số phận của người phụ nữ Việt Nam: người mẹ, người vợ, và người yêu. Xem phim mới thấy tài năng diễn xuất thiên bẩm của nữ tài tử Kiều Chinh, với dáng vẻ thướt tha của một cô gái Việt Nam thuần túy, khuôn mặt sắc nét quý phái dù ở góc quay nào, và đôi mắt, nhất là đôi mắt, luôn mở to nhân từ, tỏ rạng, ngời sáng như những vì sao trong đêm tối chiến tranh).

The Cinema Industry, bài của nữ tài tử điện ảnh Kiều Chinh, ở chương 14 trong cuốn The Republic of Vietnam, 1955–1975 (Việt Nam cộng hòa, 1955-1975).

Vài nét về tác giả (trong chương sách): Kiều Chinh là nữ diễn viên, nhà sản xuất phim, đóng góp trong sự phát triển nghệ thuật điện ảnh VNCH từ buổi phôi thai. Bà xuất hiện ngắn ngủi trong phim The quiet American (Người Mỹ trầm lặng) cuốn phim Mỹ quay đầu tiên ở VN năm 1956, và đóng vai chính trong phim Hồi chuông Thiên Mụ.

Đến năm 1975, Kiều Chinh là nữ diễn viên hàng đầu trong 20 bộ phim khác đóng ở Nam VN, Thái Lan, Ấn Độ, Phi Luật Tân, Singapore, Đài Loan, kể cả một số phim Mỹ quay ở châu Á, như A Yank in Vietnam (Chú lính Mỹ ở VN), The Devil Within (Quỷ ở trong),Operation CIA (Điệp vụ CIA) và Destination Vietnam (VN nơi đến). Bà định cư ở California sau tháng 4 năm 1975, và xuất hiện trong hơn một trăm show truyền hình và phim ảnh như M*A*S*H, The Letter (Bức thư), Vietnam-Texas (Texas-Việt Nam), The Joy Luck Club (Câu lạc bộ may mắn), và Journey from the Fall (Hành trình sau sụp đổ).

Bà nhận rất nhiều vinh dự và giải thưởng, như Nữ diễn viên hay nhất (Sài Gòn, 1969), Nữ diễn viên hàng đầu hay nhất (Đài Bắc, 1973), ba giải trong một năm Thành tựu trọn đời ở Liên hoan phim Việt (2003), Liên hoan phim San Diego (2003), Liên hoan phim Cinema Della Donne ở Ý (2003), và giải Liên hoan phim quốc tế ở San Francisco (2015). Cộng tác với Lewis P. Puller cựu chiến binh quá cố và nhà báo Terry Anderson, Kiều Chinh là người đồng sáng lập và đồng chủ tịch Quỹ trẻ em VN, một tổ chức phi chính phủ xây 51 ngôi trường học cho hơn 30 ngàn học sinh ở Việt Nam từ năm 1993.

Bài viết của bà:

Là một diễn viên điện ảnh, không phải một quan chức chính phủ, hay là nhà nghiên cứu, đóng góp của tôi cho cuốn sách chỉ là một nghệ sĩ kể một câu chuyện về những trải nghiệm cuộc đời mình trong một quãng thời gian có một không hai trong chế độ VNCH.

Tôi được may mắn góp phần vào nền điện ảnh Nam Việt Nam từ buổi ban đầu, tương tác với nền điện ảnh quốc tế từ sớm vào năm 1956. Tiếng “Action” (bắt đầu) – một hiệu lệnh diễn xuất – tôi nhận trong nghề của mình từ đạo diễn Joseph L. Mankiewicz, lúc tôi có một vai đóng ngắn trong phim Người Mỹ trầm lặng – cuốn phim Mỹ đầu tiên đóng tại Việt Nam. Sau đó vào năm 1957, tôi thật sự đi vào nền điện ảnh với vai chính trong phim Tiếng chuông Thiên Mụ, do Studio Tân Việt sản xuất, ông Bùi Diễm đảm trách.

Từ đó, tôi bắt đầu đóng vai nữ chính trong hai chục phim khác, không những sản xuất tại Việt Nam mà còn tại Thái Lan, Ấn Độ, Đài Loan, Singapore, và Phi Luật Tân, gồm cả các phim của người Mỹ được quay tại châu Á, như Một chú lính Mỹ ở VN, Điệp vụ CIA, Quỷ ở trong, và Việt Nam nơi đến. Phim sau cùng trong hai mươi năm hành nghề đóng phim ở Việt Nam là Full House (Ngôi nhà đầy đủ), quay tại Singapore. Phim quay xong ngày 15 tháng 4 năm 1975, và tôi quay về Sài Gòn ngay thời gian Nam Việt Nam đang sụp đổ.

Sau những tháng ngày trôi nổi làm người người tỵ nạn mất quê hương, cuối cùng tôi đến Mỹ, được giới thiệu vào Hollywood nhờ sự giúp đỡ của nữ diễn viên Tippi Hedren và nam diễn viên William Holden. Và cũng từ đây, tôi quyết định ở với “nghệ thuật thứ bảy” – nhận ra rằng tôi phải trở lại từ đầu. Và từ tháng 10 năm 1975, tôi xuất hiện trong hơn một trăm show diễn truyền hình và phim ảnh như M*A*S*H, đóng chung với Alan Alda, Bức thư, đóng chung với Lee Remick, và Về nhà (Welcome home) với Kris Kristofferson.

Tôi cũng đóng vai chính trong một số phim như Vietnam-Texas (Việt Nam -Texas), The Joy Luck Club (Câu lạc bộ vui may mắn), Face (Gương mặt), Tempted (Bị cám dỗ), và Journey from the Fall (Hành trình từ mùa thu). Gần đây nhất, tôi là người đồng sản xuất phim Ride the Thunder (Cưỡi trên sấm sét). Tôi nhận giải Thành tựu trọn đời tại Liên hoan Phim quốc tế 2015 ở San Francisco.

Trong bốn chục năm về sau tại Hoa Kỳ, tôi đã đóng khá nhiều “vai” (trò). Tôi làm phim. Tôi cũng làm việc với công ty Greater Talent Network ở Nữu Ước, với tư cách người phát ngôn chuyên nghiệp cho các sự kiện văn hóa hay đại học khắp nước Mỹ. Và, quan trọng hơn, cựu chiến binh quá cố Lewis P. Puller, nhà báo Terry Anderson, và tôi đồng sáng lập và đồng chủ tịch Quỹ trẻ em Việt nam, một tổ chức phi chính phủ bao gồm nhiều cựu chiến binh người Mỹ.

Tổ chức VCF tìm cách xây dựng mạng lưới trường tiểu học tại VN, ở những vùng từng bị tàn phá nhiều nhất trong chiến tranh – Quỹ trẻ em VN còn nhắm tới năm mươi tám ngàn chỗ ngồi ở trường lớp mỗi niên khóa – khớp với con số tên người trên bức tường Tưởng niệm cựu binh Mỹ chết trong chiến tranh VN. Chúng tôi đã xây dựng năm mươi mốt ngôi trường cho hơn ba chục ngàn học sinh.

CỘT MỐC QUAN TRỌNG TRONG LỊCH SỬ ĐIỆN ẢNH.

2016 là năm đánh dấu 120 năm ngày khai sinh điện ảnh thế giới. Đó cũng là ngày đánh dấu 120 năm lần đầu tiên người Việt biết tới máy ghi hình. Điều này cho thấy điện ảnh đến Việt Nam sớm hơn nhiều nước láng giềng. Tuy nhiên, hơn một thế kỷ sau, nền điện ảnh VN vẫn còn kém phát triển so với các nước châu Á khác.

Lý do giải thích kém phát triển thế này: điện ảnh, giống như nghề nghiệp hay công ty, luôn chung số phận với đất nước của nó. Vì thế, trước khi kể lại sự phát triển của kỹ nghệ phim ảnh trong thời VNCH, tôi muốn nhắc qua những cột mốc quan trọng trong nền điện ảnh thế giới.

Phim ảnh chính thức khởi đầu từ nước Pháp, khi anh em nhà Lumière sáng chế máy quay phim, tráng phim, và chiếu phim, thường được gọi là cinématographe (xi-nê-ma, sinh ra thuật ngữ cinema, điện ảnh). Ba ngày sau Năm mới 1896, Salon Indien (nhà nghỉ theo phong cách Ấn), ở vị trí tầng hầm nhà hàng Grand Café ở Ba Lê, biến thành nơi tổ chức chiếu phim lần đầu cho công chúng có bán vé. Từ đó, nghệ thuật thứ bảy được giới thiệu ra khắp thế giới.

Cũng trong năm 1896, Pathé Studio làm một cuốn phim nói về nước Pháp và các thuộc địa của mình, có một vài cảnh chiếu về An Nam (tên cũ của Việt Nam), lấy khung cảnh ở kinh đô Huế, trình chiếu ở các cuộc liên hoan khắp nước Pháp. Dân chúng được chỉ cho biết cách thức làm phim, và họ đổ xô đi xem miễn phí. Vào lúc đó, ông vua sáng chế dụng cụ điện Hoa Kỳ Thomas Edison, vừa trưng ra chiếc Kinetograph, máy ảnh chỉ có thể chiếu những hình ảnh chuyển động một cách thô sơ, người xem cần ánh sáng chiếu vào và nhìn qua một chiếc kính phóng đại.

Tuy nhiên, bá quyền người Pháp trong điện ảnh không kéo dài. Xi-nê-ma, phát minh kỳ lạ của anh em nhà Lumière, không có thời gian để phát triển. Mười tám năm sau, Chiến tranh thế giới lần thứ nhất bùng nổ, 1914. Dù chỉ kéo dài 4 năm nhưng Pháp và châu Âu bị tàn phá nặng nề. Trong khi đó, Hoa Kỳ nhanh chóng biến thành trung tâm khoa học và văn hóa thế giới.

Hollywood nhờ đó trở thành một người “chơi” đầu tiên với nhiều nghệ sĩ lừng lẫy trong những phim không lời như Charlie Chaplin và Buster Keaton.

Thời kỳ phim câm, khởi đầu ở nước Pháp, cũng chấm dứt năm 1927, thì một số hãng như Warner Bros và Fox Pictures sản xuất thành công những bộ phim lồng tiếng đầu tiên, The Jazz Singer and The Lights of New York (Ca sĩ nhạc jazz và ánh đèn Nữu Ước). Không lâu sau đệ nhất thế chiến, Pháp cố sức lấy lại sự thống trị điện ảnh nhưng thật ra đã muộn.

Tháng tám năm 1920, gần hồ Hoàn Kiếm ở trung tâm Hà Nội, một rạp chiếu phim đầu tiên – Pathé – được khánh thành. Hãng phim Pathé và Indochina Film (Phim Đông Dương) được thành lập. Từ 1923, hàng loạt phim được sản xuất, gồm cả phim chủ đề Kim Vân Kiều, ra mắt lần đầu ở rạp chiếu phim Cinema Palace, phố Tràng Tiền tháng ba năm 1924.

Mặc dù Kim Vân Kiều cơ bản dựa vào tác phẩm của thi hào Nguyễn Du, các diễn viên thủ vai lại là các ca sĩ hát cải lương của đoàn hát Quảng Lạc. Các cảnh quay thực hiện tại Hà Nội nhưng đoàn làm phim và đạo diễn lại đến từ nước Pháp.

Tuy nhiên, vào lúc chấm dứt thời kỳ phim câm, tài năng điện ảnh Việt Nam phát lộ khi Nguyễn Lan Hương thực hiện và công chiếu một số phim tài liệu như Đám tang vua Khải Định và Tấn tôn đức Bảo Đại (Bảo Đại lên ngôi).

Bước vào thời kỳ phim có lồng tiếng, bấy giờ đến lượt Sài Gòn chứng tỏ tài năng về kỹ thuật của người Việt Nam. Năm 1938, một công ty phim ở Hồng Kông, South China Motion Pictures Co. sản xuất bộ phim có tên Cánh đồng ma với sự cộng tác của Công đoàn nghệ sĩ An Nam (Annam Artist Union) phụ trách về kịch bản, đóng phim. Trong những diễn viên từ Hà Nội đi Hồng Công có nhà văn Nguyễn Tuân. Những mẩu chuyện về việc làm phim sau này được ông kể lại trong truyện Một chuyến đi. Và hậu quả, người ta nhầm lẫn Cánh đồng ma là phim nói đầu tiên ở Việt Nam.

Sự thật thì, không phải Hà Nội hoặc Hồng Kông, mà Sài Gòn mới là nơi “phim nói” 35 ly sản xuất đầu tiên tại Việt Nam. Đó là phim Trọn với tình, dài chín mươi phút, do Nguyễn Văn Định của Asia Film sản xuất năm 1938. Mọi thứ, từ kịch bản, đạo diễn đến máy móc, kỹ thuật hình ảnh, âm thanh, đều do người Việt Nam thể hiện. Thuở đó ở Sài Gòn, ngoài hãng Asia Film còn có hãng Vietnam Film. Nội trong năm 1939, hai hãng này cho ra đời bảy bộ phim chủ đề.

Thế rồi, năm 1939, Thế chiến thứ hai bùng nổ. Máy bay đồng minh liên tục dội bom Hà Nội và Sài Gòn sau khi quân Nhật tiến vào Đông Dương năm 1942. (Một quả bom rơi xuống phòng hộ sản nhà thương Phủ Doãn ở Hà Nội đã giết chết người mẹ sinh em kế tôi đang nằm ở đó). Sau chấm dứt đệ nhị thế chiến là phong trào kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp và sau đó là chiến tranh Việt Nam.

Cùng với số phận của đất nước, nền điện ảnh Việt Nam, dẫu nhiều nỗ lực vươn lên, vẫn tiếp tục chìm sâu vào sự mờ mịt của chiến tranh và lệ thuộc. Suốt thời gian u ám ấy, các rạp phim trên tất cả đô thị đều do người Pháp khống chế; họ chỉ chiếu những phim Pháp hoặc phim phụ đề tiếng Pháp. Tôi tận mắt chứng kiến điều đó, khi lớn lên những tháng ngày ở Hà Nội, cha tôi dắt đến rạp Philharmonique hay rạp Cầu Gỗ.

Tôi còn nhớ xem phim Limelight (Ánh đèn sân khấu) của Charlie Chaplin, The Best Years of Our Life (tiếng Pháp Les Plus Belles Anne de Notre Vie, Năm tháng đẹp trong đời chúng tôi) của đạo diễn Mỹ, William Wyler, bộ phim đoạt bảy giải Oscar năm 1947, và All about Eve (Tất cả về Eva) của đạo diễn Mỹ Joseph Leo Mankiewicz, trong năm 1950 được đề cử mười bốn lần giải Oscar.

Đọc tạp chí Ciné Revue với sự giải thích của cha mình, tôi hiểu rằng gần hết những bộ phim thời ấy được người Mỹ sản xuất, người Pháp chẳng qua là những nhà phân phối phim độc quyền trong thuộc địa của họ. Phim Pháp đúng nghĩa thật hiếm, nói chi đến phim Việt.

TỪ 1954 ĐẾN ĐỆ NHẤT NỀN CỘNG HÒA

Sau 15 năm tê liệt hoàn toàn vì chiến tranh, đầu 1954, Hà Nội cuối cùng sản xuất phim Kiếp hoa, kịch bản và diễn viên của đoàn hát Kim Chung, nhưng đạo diễn và dàn dựng phim lại từ Hồng Kông. Giống Cánh đồng ma trước đó, chỉ sản xuất mỗi một phim. Cùng lúc, ở Sài Gòn, hãng Việt Thanh Film chiếu Quan Âm Thị Kính, Tống Ngọc Hạp thì làm phim Lục Vân Tiên với nữ diễn viên Thu Trang thủ vai chính. Đáng kể nhất, Alpha Film sản xuất Bến cũ, phim màu đầu tiên tại Việt Nam, mặc dù được thu bằng máy quay phim 16 ly. Diễn viên nam chính là Hoàng Vĩnh Lộc, đạo diễn Thái Thúc Nha, chủ hãng Alpha Film. Hai nhân vật này tiếp tục đóng góp to lớn cho sự phát triển nền điện ảnh Việt Nam.

Ba tuần sau sự thất bại của Pháp tại Điện Biên Phủ, tháng năm năm 1954, một phái đoàn quân sự Mỹ do tướng Edward Lansdale dẫn đầu khởi sự các hoạt động tại Việt nam. Hai tháng sau, cuộc đình chiến giữa Việt Minh và Pháp ký kết tại Geneve. Việt Nam vì đó mà chia ra hai: Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (theo cộng sản) ở miền Bắc và Việt Nam Cộng Hòa (RVN) ở miền Nam. Máy bay và tàu thủy Hoa Kỳ mang gần một triệu người từ Bắc vào Nam theo chiến dịch có tên “Đường đến Tự Do” (Passage to Freedom). Tôi ở trong số người đó, trở thành một người tỵ nạn ngay trên quê hương mình.

Là nhà điều phối trong cuộc di cư này, ngay khi đến Việt Nam, tướng Lansdale, cùng với một số chuyên viên điện ảnh Phi Luật Tân, nhanh chóng hoàn tất bộ phim “Ánh sáng miền Nam” nhằm mục đích tuyên truyền. Theo sau đó, vẫn chủ đề về di cư, xuất hiện phim Chúng tôi muốn sống của nhà sản xuất Bùi Diễm, Vĩnh Noãn làm đạo diễn. Hơn một năm sau cuộc di cư, tháng mười 1955, VNCH chính thức trở thành một quốc gia độc lập. Đồng thời với người lính Pháp cuối cùng về nước, điện ảnh Việt Nam chấm dứt sáu chục năm lệ thuộc người Pháp.

Cùng lúc đó, câu chuyện về những người Mỹ giúp đánh bật các ảnh hưởng thực dân Anh và Pháp ở Nam Việt Nam thực sự là đề tài lôi cuốn, gây cảm hứng ra đời tiểu thuyết Người Mỹ trầm lặng của Graham Greene, xuất bản năm 1955. Nhân vật chính tên Phượng là cô gái Sài Gòn, “mắc kẹt” trong sự chèo kéo giữa một nhà văn người Anh và một nhân viên tình báo CIA người Mỹ. Chính Edward Lansdale dàn xếp phim Người Mỹ trầm lặng được quay tại Sài Gòn do Joseph Mankiewicz làm đạo diễn năm 1956, các diễn viên chính Michael Redgrave và Audie Murphy.

Tôi được mời viết kịch bản và đóng vai nữ chính của phim do Mankiewicz làm đạo diễn, nhưng vì gia đình phản đối, tôi chỉ đóng một vai xuất hiện rất ngắn trong phim. Người làm cố vấn cho Mankiewicz lúc đó là Bùi Diễm, sau này rời phim trường đi vào chính trị. (Chức vụ sau cùng của ông là đại sứ VNCH tại Hoa Kỳ).

Thấu hiểu tình huống ấy, sau này năm 1957, Bùi Diễm đích thân dàn xếp cho tôi chính thức bước vào nghề điện ảnh, với vai nữ chính, một ni cô trong phim Hồi chuông Thiên Mụ, chính ông làm giám đốc điều hành. Cả hai phim, trước ngày ra mắt là sự chào đón long trọng tại khách sạn Continental trên đường Tự Do, tên mới thay cho tên đường Catinat thời Pháp thuộc. Hai bộ phim Mỹ-Việt này đánh dấu sự tiến bộ đặc biệt trong kỹ nghệ điện ảnh Việt Nam, từ một thuộc địa của Pháp tới một nước cộng hòa độc lập. Xuất phát từ những hoàn cảnh lịch sử, Việt Nam chịu ảnh hưởng rất sâu xa văn hóa nước Pháp.

Khi người Pháp rời đi, Việt Nam Cộng Hòa được Hoa Kỳ hỗ trợ, phim Mỹ và phim nói tiếng Anh được Cosunam nhập khẩu bắt đầu có mặt tại Việt Nam. Ở miền Nam, gần một triệu dân mới di cư từ miền Bắc, di sản văn hóa dân tộc vẫn còn giữ bản sắc đồng nhất. Các tài năng đến từ mọi miền đất nước – ví dụ, trong Hồi chuông Thiên Mụ, nhà sản xuất phim Bùi Diễm, vai nam chính Lê Quỳnh, vai nữ chính Kiều Chinh, đến từ miền Bắc trong khi đạo diễn Lê Dân là người miền Nam, cuốn phim lai được quay tại Huế, cùng đoàn làm phim của cả Nam lẫn Trung!

Với những bước đi đầu tiên đúng hướng này, Nam Việt Nam trong nền đệ nhất cộng hòa rõ ràng ghi nét son trên trang đầu tiên của lịch sử điện ảnh nước nhà. Trong khi đó, phim ảnh và truyền thông miền Bắc nằm dưới sự kiểm soát của nhà nước, thì ở miền Nam, chính quyền chỉ hỗ trợ để giúp đỡ ngành điện ảnh phục hồi trở lại. Các hãng phim quốc tế được mời tới Việt nam để hợp tác, tạo động lực phát triển nền điện ảnh tư nhân.

Nội trong năm 1957, cùng với Hồi chuông Thiên Mụ của hãng Tân Việt, miền Nam có ba mươi bảy phim khác được các hãng phim tư nhân sản xuất. Trong số đó có Người đẹp Bình Dương của hãng Mỹ Vân với Thẩm Thúy hằng, Lòng nhân đạo, Ngọc Bồ Đề với Kim Cương. Cạnh các diễn viên như Thu Trang, Trang Thiên Kim, Khánh Ngọc, Mai Trâm, Lê Quỳnh, Nguyễn Long, Long Cương, các diễn viên Thẩm Thúy Hằng, Kim Cương, Kiều Chinh và Thanh Nga, một thế hệ tài tử tài năng xuất hiện như Đoàn Châu Mậu, Trần Quang, Minh Trường Sơn, Xuân Phát, La Thoại Tân, Huy Cường, Ngọc Phu, Hùng Cường, Vân Hùng, Thành Được, Túy Phượng, Nguyễn Chánh Tín, Túy Hồng, Kim Vui, Thanh Lan, và rất nhiều người nữa.

CHUYỆN BAO ĐỒNG.

Thi thoảng cũng nên "bao đồng" một tí. Tôi tự nghĩ như vậy khi đề cập những chuyện "trên trời, dưới đất" rồi " vĩ mô, vi mô".

"Bao đồng" hôm nay là chuyện bầu cử...Trung ương Đảng(viết hoa vì VN chỉ 1 đảng cầm quyền).

Có hơn 200 vị, đã được quy hoạch, sẽ thay mặt 95 triệu dân điều hành đất nước.

Sướng khổ chi dân ta cũng nhờ vào các vị. Chuyện nay nhớ chuyện xưa.

Thời Việt Minh, phong trào chống Pháp mạnh mẽ và lan khắp cả nước. Ở quê tôi, những người đầu tiên theo lời hiệu triệu của cụ Hồ là những thầy dạy học. Họ là thành phần "trí thức" thời đó ở nông thôn. Trí thức vì dân hầu hết mù chữ, họ đã có bằng đíp lôm, viết và nói tiếng Tây như gió.

Vùng quê chia nhiều huyện, các ông trưởng huyện đều là thầy giáo. Thầy giáo thường xuất thân từ những gia đình giàu có, có khi là địa chủ, vì nghèo thì ăn chưa no, lấy tiền đâu đi học, phải đi xa tít ra Hội An hay Huế (đi bộ).

Tại sao lãnh đạo không phải là bần cố nông, giai cấp cách mạng nhất, tôi hỏi cha tôi, cũng là đảng viên Việt Minh. "Họ có học đâu". Cha tôi trả lời. "Giỏi mới lãnh đạo chớ". Ý ông nói giỏi là "có học".

Ông giải thích thêm, hồi đó trí thức theo VM nhiều là nhờ lời kêu gọi của cụ Hồ "cầu người tài các làng xã ra giúp nước". Từ quần chúng nhân dân xuất phát ra những người ưu tú theo "cách mạng".

Năm 1954, Pháp thua nặng trận Điện Biên Phủ, rút về nước. Những người "ưu tú" trong hàng ngũ Việt Minh trở thành những lãnh đạo ưu tú ở Hà Nội. Tôi nói ưu tú là có cơ sở luận lý.

Chỉ một nhóm người như ông Lê Duẩn, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng...cũng làm cho đội quân hùng mạnh nhất thế giới, chưa hề thất bại ở bất cứ chiến trường nào trên trái đất này, phải "chào thua" sau 1969, bằng cách "Việt Nam hóa chiến tranh". Những nhân vật chính trị này vì sao tài ba như thế? Họ tài ba nhờ "ngoi lên" từ quần chúng nhân dân. Chính quần chúng nhân dân đã " cơ cấu", và "quy hoạch" họ.

Bây giờ ta có thể quay lại chuyện " bao đồng" nêu ra ở đầu bài. Hơn 200 vị ưu tú, xuất sắc, sắp dẫn dắt 95 triệu dân đi đến giàu mạnh, dân chủ, văn minh, được chọn lựa từ quần chúng nhân dân hay  từ mấy triệu đảng viên? Câu hỏi không cần trả lời. Do hoàn cảnh lịch sử, nước ta đi theo chủ thuyết không chấp nhận đa đảng, đa nguyên, vì sự "ổn định chính trị". Cũng có thể hiểu được.

VNCH có chế độ đa đảng. Tôi còn thanh niên nhưng cũng nhận thấy hoạt động chính trị lúc ấy ở Sài Gòn thật "rối bời" vì đa đảng. Có thể do chiến tranh, có thể do dân chúng chưa thật sự làm quen với quá nhiều đối lập, chống báng nhau ngay ở nghị trường (là hạ viện và thượng viện, tức quốc hội).

Ngay cả một linh mục, ông Nguyễn Hữu Thanh, nhà thờ Tân Sa Châu (không nhớ rõ lắm) bắt loa chửi ngày đêm tổng thống Nguyễn Văn Thiệu...tham nhũng, nhưng đố có cảnh sát đến bắt tù.

Còn học sinh, sinh viên ủng hộ Phật giáo đấu tranh ở miền Trung thì xuống đường liên tục đả đảo "Thiệu, Kỳ, Có" là ba ông lớn nhất VNCH năm 1966, chả ai bị bắt nhốt, trừ những thành phần Việt cộng trà trộn trong phong trào đấu tranh của họ.

Điều kiện hiện nay không cho phép "đối lập", nhưng người dân không đảng, họ không được quyền tham gia vào điều hành đất nước? Thời cụ Hồ có nhiều vị bộ trưởng không đảng mà.

Ở TQ, thời Chu Dung Cơ làm thủ tướng,  có 2 vị bộ trưởng không đảng (bộ y tế và khoa học, gì đó) một là Hoa kiều quốc tịch Đức, một cũng Hoa kiều quốc tịch Mỹ. Những vị ưu tú chỉ có trong đảng, trong nhân dân có không? Trong những Việt kiều (máu của máu VN, thịt của thịt VN, ý của thủ tướng Phan Văn Khải) có ai ưu tú không?

Chuyện "bao đồng" của tôi đi quá xa, thôi, xin ngưng tại đây, với câu hỏi:

Những vị tiền bối cộng sản có tên ở trên - tôi nêu giả sử -  được "cơ cấu", "qui hoạch" như bây giờ, liệu họ có tài ba, xuất sắc dẫn dắt quần chúng đánh bại Pháp, rồi Mỹ trong 2 cuộc chiến tranh đẫm máu vừa qua hay không?

Một nghiên cứu mới: THỜI GIAN SỬ DỤNG MÀN HÌNH VỪA LÀ NGUYÊN NHÂN VỪA LÀ TRIỆU CHỨNG CỦA HÀNH VI XẤU Ở TRẺ EM.

Không chỉ người lớn, trẻ con cũng gắn chặt cuộc sống của chúng vào màn hình:

Con cái không nghe lời phụ huynh? Chúng có giận dữ la hét đá bàn xô ghế? Bạn nên coi lại thời lượng xem màn hình của chúng.

Qua 117 cuộc  nghiên cứu trẻ em dưới mười tuổi rưỡi, người ta thấy,  càng chú mục nhiều vào màn hình, hành vi và cảm xúc của chúng càng không như mong đợi,  ở lứa tuổi phát tiển của trẻ.

Đó là những vấn đề về  biểu hiện như cảm xúc lo lắng, trầm cảm, tăng động (hyperactivity) và ngổ ngáo, đặc biệt đối với trẻ em gái.

Nghiên cứu theo nhiều cách khác nhau nhưng tựu trung, các vấn đề nảy sinh đối với : trẻ em dưới hai tuổi  có tiếp xúc màn hình (trừ nói chuyện qua video); trẻ hai đến 5 tuổi coi màn trên một giờ; và trẻ lớn hơn coi màn hình 2 giờ mỗi ngày. Đặc biệt nguy hiểm đối với trẻ chơi games quá nhiều. Trẻ từ 6 đến 10 tuổi gặp vấn đề cảm xúc giao tiếp (socio-emotional) nhiều hơn trẻ từ 5 tuổi trở xuống.

Hơn nữa, trẻ trải qua những thách thức này có khuynh hướng tìm đến màn hình để “giải quyết”, cái nầy làm trầm trọng thêm vấn đề.

Nhà nghiên cứu Roberta Pires Vasconcellos nêu đặc điểm nổi bật nhất trong nghiên cứu của mình: “Chú mục nhiều vào màn hình không chỉ là nguyên do của vấn đề - đôi khi, nó còn là triệu chứng”.

Trong nhiều trường hợp, trẻ em cố gắng kiềm  chế cảm xúc lại quay về màn hình, đặc biệt là chơi games, để “giải quyết” hoặc là để trốn thoát. Cái này có thể nhất thời giảm căng thẳng, nhưng về lâu về dài như một vòng tròn lẩn quẩn, nó sẽ làm trầm trọng thêm hành vi cảm xúc.

Dữ liệu nghiên cứu mới  về thời gian trẻ tiếp xúc với màn hình giúp cha mẹ biết cách để bảo vệ sức khỏe tinh thần của con cái.

Người lớn thường “thảy” chiếc điện thoại cho con để chúng giữ yên lặng, nhất là trong lúc làm việc hoặc vào  nhà ăn.  Có thể tạm thời yên ổn nhưng điều này về sau dẫn tới hệ lụy. Nó ngăn con cái học cách cư xử đúng phép, không học được cách kiềm chế cảm xúc.

Thay vì phát triển kỷ năng tự kiềm chế, trẻ lại tìm sự thoải mái và khuây khỏa qua màn hình. Về lâu về dài, điều này tạo ra vòng lẩn quẫn nguy hại hơn khi trẻ không thích nghi mỗi khi thiếu màn hình.

ĐỪNG ĐỂ TRẺ LẤY MÀN HÌNH (điện thoại, Ipad, laptop- ND) ĐỂ “CHE KHUẤT” CẢM XÚC.

Cha mẹ nên nhìn rộng hơn, hãy cố tìm những chỉ dấu  trẻ muốn tìm đến màn hình mỗi khi chúng gặp rắc rối, hơn là chỉ chú trọng đến chính cái màn hình.

Nếu bạn thấy trẻ quay qua tìm màn hình thường xuyên khi  buồn bã hoặc muốn thu mình lại, đó là lúc bạn nên coi lại cảm xúc của chúng. Có khi chúng muốn tìm sự gẫn gũi hay niềm an ủi mà mà chúng không tìm thấy trong các giao tiếp- ở nhà, ở trường hay ở các bối cảnh xã hội khác.

Đó là lúc con cái cần sự an ủi hay vấn an nơi bố mẹ nhất- giúp chúng được lắng nghe, được thấu hiểu và được cảm thấy bình an, cả trong lẫn ngoài mạng ảo.

Giáo viên hướng dẫn hay các nhà trị liệu tâm lý cũng  sẽ là sự hỗ trợ quý báu. Kết quả nghiên cứu còn cho thấy, chú ý xem thời lượng trẻ chơi games cũng quan trọng không kém.

Đặc biệt, chơi games trực tuyến còn tác hại chất chồng, bởi trò chơi trở thành (như)một nền tảng xã hội. Vì games vẫn tiếp tục dù trẻ không chơi nữa, chúng cảm thấy bị “cưỡng bách” phải kéo dài thời gian chơi; điều này dẫn đến việc bỏ bê các sinh hoạt thiết yếu hằng ngày như đi ngủ, đi học, hay đối mặt với người khác.

Vì lý do đó, chơi games cần được chú ý và phải có giới hạn rõ ràng- đặc biệt với trẻ em lớn tuổi- lứa tuổi thường có tự do quản lý giờ giấc của mình.

ĐẶT RA QUY ĐỊNH VÀ THỰC THI QUYỀN BỐ MẸ

Đặt ra quy định vê thời gian và theo dõi suýt sao là hết sức quan trọng. Luôn giữ quy định sẽ giúp trẻ biết phải làm gì và tạo ra những giới hạn tuân thủ.

Bố mẹ kiểm soát điện thoại hay các ứng dụng (apps) là rất hữu ích. Hầu hết các thiết bị đều có phần mềm cài sẵn, giúp bạn quản lý được thời gian và chọn lựa nội dung. Dùng những ứng dụng như thế để hạn định thời gian hợp lý, bảo đảm chắc chắn con trẻ chỉ có thể tiếp cận những dữ liệu thích hợp với lứa tuổi của chúng.

Để giúp trẻ không quá miệt mài vào những thiết bị ấy, nghiên cứu còn gợi ý, nên bỏ bớt những ứng dụng (apps) như những video trực tuyến đặc biệt cuốn hút (Tiktok là ví dụ- ND). . Thay vào đó là cho trẻ tiếp xúc những nội dung có tính giáo dục, hoặc mang  mục đích tốt đẹp.

NÓI “KHÔNG” VỚI TRẺ CŨNG TỐT THÔI.

Kết quả nghiên cứu này không làm tác giả ngạc nhiên. Các nhà trị liệu, các giáo viên, thường phàn nàn cha mẹ không muốn đặt ra giới hạn cũng như không dứt khoát khi con cái họ đòi xem màn hình (điện thoại, máy tính bảng, laptop...ND).

Khi tôi nói KHÔNG với con cái mình,  phản ứng của họ không hẳn là bằng lòng. Tôi (tác giả nghiên cứu) luôn tự nhủ, là người mẹ, việc của tôi là phải biết những gì tốt nhất cho con cái, và có những quyết định làm con mình lành mạnh về sau- ngay cả có lúc khó chịu cho cả mẹ con.

Hạn chế trẻ dùng điện thoại cũng là cách làm khôn ngoan. Một thông báo đồng thuận vừa được công bố, mà tôi là đồng tác giả với nhiều chuyên gia quốc tế cho thấy, sử dụng nhiều mạng xã hôi và điện thoại có liên quan tới các vấn đề về giấc ngủ, sự tập trung, sinh nghiện, và bất an thân thể (body dissatisfaction).

BẠN KHÔNG NHẤT THIẾT PHẢI “CÔNG BÌNH”.

Khi tôi nói chuyện với các bậc phụ huynh về cách quản lý việc sử dụng mạng xã hội của con cái, họ thường nói với tôi rằng cần phải cho con nhỏ của mình một chiếc điện thoại ở cùng độ tuổi mà anh chị lớn của chúng có một chiếc. Điều đó không đúng.

Thuyết phục với những đứa con trẻ hơn, rằng cha mẹ có kinh nghiệm nhiều và có thể chứng minh thời lượng xem điện thoại sẽ nguy hiểm thế nào.

Có thể là một chọn lựa khác cho chiếc phone. Một bà mẹ hứa  cho con gái 1600 đô la với điều kiện để mua một chiếc điện thoại khi nó lên 16 tuổi. Con của bà nhận tiền mặt ngay. Dù nhiều người chưa hẳn ai cũng có tiền như thế nhưng bạn vẫn có thể linh hoạt hơn, đưa ra những thứ mà con mình thích. Những chuyến đi nghỉ với bạn bè, du lịch cắm trại...là những ví dụ.

Bất kể là cái gì, điều quan trọng là suy nghĩ cho kỹ cách cho con cái tiếp xúc với công nghệ. Vì thời gian xem màn hình vừa là nguyên do cũng vừa là triệu chứng cho các vấn đề ứng xử và cảm xúc nơi trẻ; hãy cứ dứt khoát, nói KHÔNG khi cần. Có thể con bạn sẽ la lối, đá cái này đấm cái kia, nhưng về lâu về dài, điều đó tốt cho sự phát triển tinh thần của chúng.

Bài viết của Kara Alaimo trên CNN (9/6/2025), phó giáo sư truyền thông, đại học Fairleigh Dickinson. Nguyễn Long Chiến lược dịch.