Tuesday, January 23, 2024

GIÁO DỤC VNCH

Cảm nghĩ qua tác phẩm KÝ ỨC SƠ SÀI (KUSS ) của Nguyễn Anh Khiêm.

Đây là tùy bút của một thầy giáo gốc Quảng Nam, gắn bó nghiệp dạy học cả một đời người, nay đang bước vào ngưỡng 80. Khi rời ngôi trường Trần Quý Cáp, ở thành phố nhỏ Hội An, vào Sài Gòn theo học đại học sư phạm, Nguyễn Anh Khiêm mang theo mình một hoài bão: tiếp bước các trưởng bối đi trước, xây dựng con người tương lai cho xã hội (một nửa nước) trên nền tảng triết lý “nhân bản, dân tộc, khai phóng”.

Ngày lịch sử 30 tháng 4 năm 1975 đến với đất nước tan nát bởi bom đạn chiến tranh, nhuộm đầy máu hàng mấy triệu sinh linh người Việt. Một biến cố lịch sử chấn động. Mọi nếp sinh hoạt của một nửa nước theo chế độ cộng hòa bị đảo lộn, trong đó có giáo dục. Thầy giáo có dáng người mảnh khảnh, con trai của một "liệt sĩ”chết khi vừa ra khỏi tù, chứng kiến nhiều đổi thay của đất nước từ đau thương bước vào giai đoạn chữa lành vết thương chiến tranh sau ngày thống nhất hai miền. Những ngôi trường yêu dấu đi qua trong đời một thầy giáo.

Và “lịch sử” từ những câu chuyện “mắt thấy tai nghe” được kể lại với một giọng điệu ôn nhu, chân chất, dù đôi chỗ không giấu vẻ u hoài, xót xa, tiếc nuối, không phải là không chua chát của KÝ ỨC SƠ SÀI. Không dám nói to tát, tôi nghĩ thầy là một “chứng nhân thầm lặng nhưng cô đơn, lẻ loi” trước hai nền giáo dục “cộng hòa” và “cộng sản”.

Tôi không phải là người am hiểu giáo dục, tường minh nhận xét một tác phẩm, nhưng tôi rất trân quý sau khi tiếp cận “đứa con tinh thần” của một thầy giáo; một tác phẩm ghi chép những câu chuyện “nhớ đâu nói đó”về một xã hội thầy sống với “nghiệp” (tôi không muốn dùng “nghề”) giảng dạy trong một giai đoạn lịch sử đầy biến động khi nền giáo dục “cũ”(miền Nam) chuyển qua nền giáo dục “mới”(của cả nước hay của miền Bắc “bên thắng cuộc”).

Tuy không phân ra các chủ đề rõ rệt, theo nhận xét cá nhân tôi, cuốn KÝ ỨC SƠ SÀI chia ra ba phần: (1) quê hương - ở đây là ngôi làng nhỏ ở một vùng núi xa xôi và thành phố cổ Hội An nơi gia đình tác giả sinh sống, một bà mẹ và một em gái lấy chồng nhưng vẫn ở với mẹ; (2) thầy cô, học sinh, các sinh hoạt giáo dục, văn hóa, đời sống trong buổi giao thoa cũ mới, những người gần gũi với tác giả; (3) các nhận định về tiếng Việt (mới) của một thầy dạy văn và cảm nhận văn học đối với các thi sĩ nổi tiếng miền Nam, ưu ái nhất, tri âm nhất, là Tô Thùy Yên.

Tôi mạo muội nói về từng phần một. Tôi nhắc lại lần nữa, những nhận xét này của tôi xuất phát từ tình cảm của một đàn em trước một huynh trưởng cùng quê, cùng trường, từ Trần Quý Cáp đến đại học sư phạm Sài Gòn. Những nhận xét của tôi do đó có tính cách tình cảm nhiều hơn nhận xét văn học về một tác phẩm; tôi là chỉ là một học trò nhỏ về nhận định Văn học.

QUÊ HƯƠNG

Vì cùng quê với tác giả, chỉ bên kia dòng sông, các chi tiết nói về nơi chôn nhau cắt rốn của Nguyễn Anh Khiêm rất chân thật, và có thể nói, chưa tả hết cái thanh bình và nên thơ của một làng quê trước chiến tranh ở vùng rừng núi phía tây Quảng Nam. Nhưng rất đúng như tác giả viết về làng có tên Non Tiên của ông:

“Dòng sông trong veo lượn ngoằn ngoèo dưới chân núi, ngồi trên đò ngang có thể nhìn thấy con tôm bơi lững lờ trong lòng cát trắng. Con sông nhỏ tới nỗi không có tên riêng, chỉ gọi bằng danh từ chung, Sông Con”.

Lúc còn bé, có lẽ cũng như tôi, tác giả rất thích sắm cần đi câu cá bống sau mỗi cây lụt (cách quê tôi gọi trận lụt, trận lũ) nước rút hẳn, ẩn mình trong dòng nước trong như kính, nào bãi cát nối dài bãi cát “nước cạn trong mà chảy xiết, muốn qua làng bên chỉ cần xắn quần lội”. Cá bống, một loại cá hiền hòa nhưng dạn dĩ, không bao giờ bỏ mồi mà đi nếu lũ con nít chúng tôi câu hụt nhiều lần.

“Lũ cá bống cát mập tròn, thân trắng trong, kho tiêu ăn với cơm gạo mới thơm lừng”. Lúc còn nhỏ ở quê, chúng tôi thường ăn gạo lúa mới, mùi gạo “lúa mùa” thơm ngát ( gần 6 tháng, không như lúa ngắn ngày năng suất cao sau này), ít khi nào ăn gạo lúa cũ để qua nhiều vụ mùa.

Có lẽ ít người biết, vùng quê Thường Đức của chúng tôi, thịt rừng những năm trước 1960 còn dễ mua hơn thịt bò “nấu cháo cho người ốm” - quê tôi nuôi nhiều trâu hơn bò. Dọc bìa rừng, buổi sáng tinh mơ, người ta có thể thấy những con mang (mển) gặm cỏ, thảnh thơi trên các đồi cỏ non xanh nõn như trong truyện cổ tích.

“Thịt rừng gần như không ngớt, không thịt con này thì con kia, kể cả cọp, gấu… Chúng tôi đã sống trên chốn địa đàng mà bấy giờ đâu nhận biết”.

Vì sao rừng ngày xưa còn giữ được nét hoang sơ như từ khi có rừng, bao nhiêu thế hệ cha ông chúng tôi, ai sinh ra cũng thấy rừng như thế? Có lẽ dân số thưa thớt nhưng lẽ chính là ý thức bảo vệ thiên nhiên của người xưa; vùng chúng tôi sống, thiên nhiên đây là núi, là sông, là thú rừng sinh sống bên cạnh con người.

Quý vị sẽ nghe tác giả giải thích: “Từ làng đi khoảng một cây số là đến bìa rừng với ba ngọn đồi chắn ngang gọi là Núi Cấm, tức cấm chặt cây. Ai chặt phá sẽ bị phạt giam, tịch thu dao rựa (vì dân nghèo không có tiền), lệnh cấm rất nghiêm, hiếm có ai vi phạm”.

Bây giờ luật không nghiêm hơn sao? Rât nghiêm là đằng khác, nhưng ý thức người dân rất quan trọng: một bộ phận muốn “khai thác” rừng chứ không muốn “nuôi dưỡng” rừng. Quý vị thấy biết bao nhiêu là sản phẩm cây gỗ quý hiếm có mặt trong những ngôi nhà sang trọng ở thành phố; những chiếc bàn, chiếc ghế, như những ngai vàng thời vua chúa. Nhiều nhà có các bậc thang bộ, các tay vịn lên xuống, gỗ toàn lim xanh, gõ đỏ.

“Rừng xanh ngút, mỗi mùa một mùi hương hoa dại khác lạ, chim muông đông đủ, khe suối dồi dào, dòng chảy hiền hòa hiếm khi nổi giận, không nghe từ “lũ quét” bao giờ”.

Ngày nay thì sao? Có lẽ không chỉ có mỗi quê tôi mà thôi. Các nơi khác, tôi không được biết, nhưng chắc chắn không khác quê chúng tôi nhiều; và nói lên những nhận xét đúng sự thật về quê hương luôn là nỗi xót xa, không chỉ của mỗi mình tôi, hay của tác giả, mà của cả nhiều người cùng quê hương tôi.

Nhìn cảnh sạt lở gây chết người vừa qua ở miền Trung, sau các ngày mưa dầm dai dẳng, chúng ta không khỏi đau lòng; cảnh con người chôn vùi trong đất chuồi, cho đến nay vẫn không tìm ra thân xác.

Thiên nhiên trả lời tàn nhẫn cho con người rất gần, rất rõ, và rất xót xa. Với núi rừng, con người đối xử bạc bẽo như thế; còn với ruộng đồng, con người cư xử ra sao, khi người nông dân bao đời sống gắn bó với mảnh đất, cha ông họ không biết bao thế hệ đổ “mồ hôi nước mắt” gầy dựng nên một thửa vườn, mảnh ruộng?

“Tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội” những năm sau ngày “giải phóng” ở nông thôn là “hợp tác xã” nông nghiệp. Cha chung không ai khóc. Từ những thửa đất màu mỡ, nhờ nước mang phù sa theo các cây lụt đem đến ruộng đồng, người nông dân bao thế hệ, từ đời ông bà tổ tiên cho đến đời họ, sống yên lành không hề lo nghĩ đến cái ăn.

Quý vị nào chưa ở nông thôn những năm hơp tác xã, không ai tin người nông dân phải ăn đói quanh năm suốt tháng, năng suất lúa không có vì người ta chỉ mong “ăn công điểm” (cách tính công sức lao động) chứ không muốn “ăn lúa”: canh tác tập thể khiến con người nghĩ ra nhiều cách để có nhiều điểm (mục đích nhiều lúa- theo suy nghĩ nông cạn) bằng cách làm dối trong ruộng đồng, điều chưa từng xảy ra cả mấy trăm năm ngày ông bà chúng tôi từ Nghệ An, Hà Tĩnh, vào lập cư ở vùng quê mới Quảng Nam.

Một sào ruộng (500 mét vuông) cần cấy trong một buổi với hai hay ba “công cấy”, người ta chỉ hí hoáy, như nàng tiên Cóc truyện cổ tích, cấy trong 2 tiếng đồng hồ: ngoài bờ bụi lúa dày, bên trong bờ xa xa, các bụi lúa thưa dần, thưa dần – cho xong việc, mỗi sào 50 điểm công cấy (định mức cho 5 công lao động), chẳng hạn.

Năng suất cấy thưa như thế, thóc thu hoạch đào ở ở đâu ra? Cán bộ nghiệm thu làm sao bước vào giữa ruộng khi vừa mới cấy? Tôi đơn cử một ví dụ như thế. Và còn rất nhiều ví dụ “điển hình” để cho hợp tác xã mau “phá sản” vì chẳng ai có trách nhiệm gì cụ thể. “Chuột bầy đào chẳng nên hang”.

Khái quát một đôi chỗ, tác giả Ký ức sơ sài, nêu nhận xét của một nông dân thật thà, làm thì không đủ ăn, từ no chuyển sang đói, từ ăn cơm không với cá bống kho chuyển qua ăn sắn, ăn khoai với nước muối, chứ chưa nói tới “mắm cái”, món ăn truyền thống nhưng khá rẻ, khá phổ thông ở vùng đất Quảng Nam.

Thấy tình hình hợp tác ngày càng bệ rạc, dân chúng lẫn cán bộ (chỗ riêng tư) than thở, “quán triệt” chủ trương, “học tập” chính sách tiến nhanh tiến mạnh, đêm nào cũng diễn ra không thiếu – để đả thông tư tưởng xã viên uể oải và thất vọng về hợp tác xã; “tư tưởng không thông, mang bi-đông (bình đựng nước) cũng nặng”

“Lại một đêm hội họp, học tập gì đó tại trụ sở thôn, về khuya ai cũng mỏi mệt, ngủ gà ngủ gật mà viên cán bộ xã lại cao hứng chỉ ra nguồn gốc tổ tiên loài người là khỉ, bác (một xã viên HTX -tôi chú thích) giơ tay xin phát biểu ý kiến:

- Dạ, tôi thấy tổ tiên loài người là con khỉ hay con chi cũng được, xin cho chúng tôi về ngủ, mai còn đi mần sớm”.

Quê hương lẽ ra phải là chùm  khế ngọt như thi sĩ diễn tả. Quê hương lại là nỗi xót xa quá đỗi. Cũng may, nhờ “đổi mới” sau 1986, chứ “tiến nhanh, tiến mạnh”, bây giờ cả nước không biết “tiến” đi mô.

Quê hương chôn nơi nhau cắt rốn của tác giả như thế nhưng quê hương dưỡng sanh “thứ hai” của tác giả thì thế nào? Quê mới có khá hơn, nhờ ông bà tổ tiên ăn ở phước đức thế nào mà “Hội An ngày đó thu mình trong chiến tranh, buôn bán sơ sài, dân cư nghèo khó, hầu hết không có tiền sửa nhà. Đó là một bất hạnh đầy may mắn” (…) “thị xã trở thành khu du lịch phố cổ nổi tiếng khắp thế giới”.

                                           

NGƯỜI THẦY: NGUỒN ĐÀO TẠO, DẠY GÌ, SUY NGHĨ GÌ.

Phần lớn cuốn sách viết về người thầy, bối cảnh sống, điều kiện dạy học, và tâm tư của người “gieo” mầm, qua một giai đoạn lịch sử.

Có một sự khác biệt lớn, hết sức lớn, về vai trò một người thầy trong chế độ cũ (Sài Gòn) với người thầy trong chế độ mới. Có thời gian “chuột chạy cùng sào mới vào sư phạm” ở miền Bắc thì ở miền Nam, học sinh xuất sắc mới có thể thi đậu vào trường đại học sư phạm (mới đầu chỉ Sài Gòn, Huế, sau đó thêm các nơi như Đà Nẵng, Quy Nhơn, Cần Thơ…)

Đại học sư phạm hệ 2 năm (ngành huấn luyện giáo sư trung học đệ nhất cấp) và hệ 4 năm (ngành huấn luyện giáo sư trung học đệ nhị cấp). Tôi ngạc nhiên, ngày nay, sinh viên học đại học giáo dục (sư phạm) ra trường gọi là “giáo viên” trong khi sinh viên học kỹ thuật tốt nghiệp gọi là kỹ sư! Lương thầy dạy cấp 3 (chỉ số 470) cao hơn lương của phó quận trưởng (chỉ số 450) và cả kỹ sư Phú Thọ (Bách Khoa Sài Gòn ngày nay).

Dạy chừng hơn 6 tháng, thầy giáo có thể “sắm” một chiếc Honda dame cáu cạnh chừng 5 cây vàng. Học bổng sinh viên sư phạm (4 năm), mỗi tháng là 3000 đồng (1972) trong khi xăng có 19 đồng/lít. Gia đình có một người đi dạy cấp 2, cấp 3 không cần phải lo liệu gì khác. Tất nhiên, càng về sau, chiến tranh càng khốc liệt, đời sống càng khó khăn, vật giá leo thang, tiền lương trả cho “lính” ngày càng nhiều nhưng một giáo viên cấp 2,3 không phải lo lắng gì về kinh tế cho một gia đình vợ và 2 con.

Nhưng cái quan trọng hơn, không phải đãi ngộ vật chất, mà là phẩm chất của một “giáo sư” trung học. Khi tốt nghiệp, người thầy không phải lăn tăn chuyện trình độ chuyên môn. Khi đứng lớp, họ không cần ai phải dự giờ, dự lớp; họ chẳng cần thi đua khen thưởng, tham gia học tập bồi dưỡng kiến thức hay chính trị.

Lúc tôi đi học, có lẽ cả lúc tác giả nữa, hơn tôi gần một con giáp, đã có nhiều vị thầy đến lớp, chẳng lận lưng mảnh giáo án nào ngoài viên phấn trên tay. Chỉ viên phấn và vầng trán của người thầy, chúng tôi trở thành người học tập, hoàn toàn dựa vào nỗ lực bản thân; người thầy dạy cho học sinh chúng tôi thói quen tự học. Điểm có chấm chỉ để đo lường năng lực học tập học sinh và không bao giờ điểm trở thành tiêu chí thi đua cho trò, cho thầy, cho nhà trường, và cho cả ngành giáo dục. Không bao giờ có chuyện gần như cả một lớp đều học sinh “giỏi”.

Phẩm chất người thầy (tôi dị ứng “chất lượng giáo viên”) bảo đảm từ lúc học sinh thi vào ngành sư phạm và tốt nghiệp ra trường. Tác giả kể ra một số thầy học của ông, chúng ta sẽ thấy, cái phẩm chất tôi nói về người thầy-sinh viên sư phạm, không thể hoài nghi gì nữa.

Ngoài những vị thầy tiến sĩ ở Mỹ, Anh, Pháp về… (lúc đó làm tiến sĩ chưa có ở VN) những tác giả sách, những nhà nghiên cứu, đều có dạy đại học, tập trung nhiều cho đại học sư phạm, như các vị dạy sinh viên Nguyễn Anh Khiêm: Trần Văn Tấn, Lê Hữu Mục, Thanh Lãng, Giản Chi, Trần Trọng San, Phạm Văn Diêu…

Tôi chỉ là đàn em, học sau tác giả KUSS, các thầy của tôi cũng là những người nổi tiếng; dạy môn tâm lý học, tiến sĩ tâm bệnh học đầu tiên miền Nam Huỳnh Văn Quảng (Mỹ); dạy Pháp văn (sinh ngữ 2) tác giả “Bên dòng lịch sử”, linh mục Cao Văn Luận, viện trưởng đầu tiên viện Đại học Huế, thời TT Ngô Đình Diệm. (Lúc đi dự hội nghị Fontainebleau, cụ Hồ có gặp và mời ông về tham gia kháng chiến, nhưng ông từ chối khi ông là hội trưởng hội sinh viên VN tại Pháp). Dạy môn tâm lý giáo dục trẻ có thầy Lê Thanh Hoàng Dân. Thầy Nguyễn Văn Lương, với bộ sách Văn minh Anh, Mỹ, tùy viên văn hóa đại sứ VN tại Anh, dạy English composition (viết văn); tiến sĩ Lê Văn (hiện ở Mỹ), khoa trưởng khoa Anh, dạy The English civilization (Văn minh Anh)…

Sinh viên được hướng dẫn học tập, nghiên cứu các môn học là chính; các thầy chỉ đóng vai trò hướng dẫn, không phải “thầy đọc, trò chép”. Có vị thầy của tôi lúc nào vào tiết học 90 phút, ông đều dành 10 phút đầu tiên bàn luận truyện kiếm hiệp “thời thượng” của Kim Dung, hay nói chuyện thời sự chính trị nóng bỏng. Thư viện trường đại học sư phạm là thư viện có sách dành cho học tập có thể nói là tốt nhất và đầy đủ nhất. Vào thư viện, quý vị thấy sinh viên ngồi kín chỗ, họ lặng lẽ đọc sách hoặc học bài trong đó.

Tôi dài dòng như thế để nói với quý vị, đối với một người thầy tốt nghiệp bài bản (hệ 2 hay 4 năm), không ai có quyền nhận xét về cách dạy học của họ sau này, dẫu đó là hiệu trưởng hay trưởng ty giáo dục. Việc dự giờ của cấp trên hay kiểm tra chéo của đồng nghiệp không hề có và nếu có, điều đó sẽ làm sỉ nhục những người thầy tốt nghiệp đại học sư phạm.

Không ai có quyền xét “thi đua” hay “khen thưởng” người thầy bằng danh hiệu tiên tiến hay chiến sĩ thi đua. Ra sức dạy hết mình đó là chuẩn mực “thi đua” của mỗi người thầy. Học trò chín mười năm sau gặp thầy mừng rỡ mình học thế này, thế kia, làm việc này, việc kia trong xã hội – đó chính là kết quả giảng dạy tận tụy của một người thầy. Những điều như thế, trong KUSS đều có nói tới, cách này hay cách khác, cụ thể hơn, rõ ràng hơn.

Tóm tắt là, người thầy toàn quyền dạy dỗ mà không bị ai chi phối hay kiểm soát; họ tự chịu trách nhiệm giảng dạy học sinh mà không cần ông hiệu trưởng hay ông bí thư nào đó trong trường chỉ đạo họ.

Nếu tìm hiểu giáo dục Phần Lan, quý vị sẽ thấy cung cách dạy của người thầy (cấp 2, 3) của Sài Gòn cũ, phảng phất cung cách giảng dạy tiên tiến ở đất nước có nền giáo dục hiện nay được xếp vào hàng nhất thế giới. Tất nhiên không phải tất cả các vị thầy đều như thế nhưng đó là đa số các sinh viên tốt nghiệp 2, 4 năm từ trường đại học sư phạm.

Sinh hoạt của một sinh viên sư phạm như thế nào? Mời quý vị đọc một đoạn trong tùy bút: “Bọn tôi khác xa tuổi trẻ thời nay ở chỗ hầu như không ai biết nhậu, thậm chí café cũng chỉ vài người” (…). Chỉ giải trí bằng cinéma, mua máy thu băng nghe nhạc cổ điển, cứ nửa tháng một lần chờ báo VĂN (một tạp chí nổi tiếng miền Nam về học thuật -chú thích của tôi)…” “Chúa nhật (chúng tôi) hay kéo nhau ra vùng quê đi picnic, thích nhất là đi chơi vườn trái cây Lái Thiêu lúc bấy giờ còn xanh mịt ngút ngàn. Con đường nhựa nho nhỏ từ thị trấn Lái Thiêu đi Búng vắng tanh, lọc cọc mấy chiếc xe bò chở củi và nông sản lăn chầm chậm theo nhịp đời thong thả”.

Học trò của thầy dạy thế nào? Không có “con ngoan”, “trò giỏi” nhưng có những học sinh học tập chăm chỉ, lễ phép với người lớn, nhất là với thầy cô. Có học sinh nào gặp thầy dạy cấp 3 của mình mà dám “ngó” thẳng vào mặt thầy chứ đừng nói là mời thầy đi…nhậu bia.

Những người ở vào tuổi 60 trở lên, ở miền Nam (tôi nghĩ là cả ở miền Bắc), ai ai cũng cảm thấy yêu quý, sung sướng nếu có dịp gặp lại thầy, cô từng dạy mình khi 9, 10 tuổi. Lúc bé họ được thầy cô yêu thương, tận tình dạy dỗ, dù thời ấy, roi vọt phét vào mông, không phải là không có, nếu học sinh “quậy phá” hay “không chịu học bài”.

Tiếp tục làm “giáo viên”, ngoài câu chuyện lúc là hiệu phó “thể dục”, tác giả KUSS có “lợi dụng chức vụ” gởi bên căng-tin bán giúp thầy một ít mì (sắn) luộc để thêm đôi ba đồng, nhằm “nâng cao” mức sống giáo viên, ông còn nhắc câu chuyện, cháu ông làm vỡ chậu kiểng nhà trường, bị cô hiệu trưởng bắt ba mẹ đến đền tiền, và “người thầy” kia không đoái hoài chi tới vết thương chảy máu của học sinh yêu quý. Ông còn kể, vị hiệu trưởng đi ngang qua chỗ trẻ ném cầu lông bị quả cầu trúng vào người bà; thế là “cấm ném cầu lông” trong trường ban ra ngay tắp lự!

Quý vị lưu ý thời sinh viên của tác giả, (một nửa) đất nước dưới nền đệ nhất cộng hòa. Dạy và học như thế, làm sao giáo dục không đào tạo ra những người thầy phẩm giá? Mua điểm, chạy điểm, ở tù vì gian lận thi cử, những chuyện ấy chưa hề nghe thời VNCH, ngay cả những năm tháng chiến tranh khốc liệt nhất gần ngày ký hiệp định Ba Lê 1973.

Tầng lớp sinh viên hồi chiến tranh chỉ có lo học và thong thả học không thôi hay sao? Không, ngoài việc học, họ còn ấp ủ nhiều hoài bão, có khuynh hướng riêng cho mỗi cá nhân, và theo đuổi “lý tưởng” của mình khi ở vào tuổi đôi mươi, chuẩn bị bước vào đời.

“Đôi lúc nghĩ vơ vẩn không hiểu nổi chúng tôi có phải là “the lost generation” (“thế hệ đánh mất” -tôi dịch) như người ta thường nói về lứa tuổi mình không. Giống như người già cả lãnh đạm trước chuyện đời, bọn chúng tôi cứ vất vơ vất vưởng, kiểu như người ta nói mất phương hướng. Chủ nghĩa Hiện sinh của Jean Paul Sartre nhiều ít cũng ảnh hưởng lên tuổi trẻ có học. Chủ nghĩa Marx được giáo sư Nguyễn Văn Trung và Trần Văn Toàn giảng dạy công khai ở Đại học Văn khoa tác động không nhỏ đến khuynh hướng thiên tả trong đám sinh viên”.

Quý vị sẽ thấy tư tưởng giáo sư giảng dạy tự do và tư tưởng sinh viên học tập cũng tự do như thế nào. Giờ có ai đó phổ biến tài liệu gì của đảng chính trị Việt Tân ở VN, chắc chắn cửa tù sẽ rộng mở; trong khi thời tác giả đề cập, chiến tranh “Quốc-Cộng” bắt đầu nóng bỏng, chủ nghĩa cộng sản vẫn được đề cập tự do trong học đường.

“Nói phần đông sinh viên đều thiên tả thì cũng không đúng. Mỗi lớp chừng một vài người thật sự theo MTGP (Việt cộng- tôi chú thích), một số ít có thiện cảm nhưng kính nhi viễn chi. Đa phần còn lại thì không quan tâm tới chính trị, chỉ mong ra trường đi dạy yên thân; ít ai công khai bày tỏ “lập trường” thân Mỹ bao giờ, nhưng cảm phục và chịu ảnh hưởng văn hóa Mỹ, nhất là mê phim Mỹ thì có”.

Ông nhạc sĩ Trần Long Ẩn là một sinh viên tự do như thế. Nhưng sau này, quyền cao chức trọng, ông bảo văn hóa, văn nghệ của chế độ Sài Gòn là “nô dịch”, “ngoại lai” thật không thể thuyết phục. Bạn của ông, tác giả KUSS, có lẽ học cùng thời nhận xét thành thật: “ít ai công khai bày tỏ lập trường thân Mỹ bao giờ”.

Quá khứ đã qua thì quá khứ ấy không bao giờ sống lại. Nhắc lại chuyện quá khứ để mọi người dân Việt Nam hiểu nhau hơn, có lẽ đó mà thông điệp bàng bạc trong cuốn tùy bút KÝ ỨC SƠ SÀI của Nguyễn Anh Khiêm.

(Ghi chú: những đoạn trích từ tác phẩm đều có đóng ngoặc kép)

XIN MỜI QUÝ VỊ ĐỌC MỘT ĐOẠN VỀ CÁCH BỔ NHIỆM “GIÁO SƯ” TRUNG HỌC (trong KUSS)

“Cũng tự an ủi, thủ khoa, á khoa như Lê V Bảy, Lâm H Tài cũng phải đi tận Long An, Biên Hòa, ngày ngày cong lưng trên xe gắn máy…coi cũng không thọ mấy. Xem ra không ai uất ức điều gì. Nhiệm sở công bố minh bạch, ai đậu cao thì được microphone xướng danh lên chọn trước theo danh sách từ cao xuống thấp với sự chứng kiến của các quan chức cao cấp Bộ Giáo Dục, Viện Trưởng Viện Đại Học Sài Gòn kiêm Khoa Trường Đại Học Sư Phạm, Giám đốc Nha Nhân Viên, Giám Đốc Nha Trung Học v.v…

Sự Vụ Lệnh của mỗi tốt nghiệp sinh được viết sẵn đầy đủ chi tiết cá nhân cần thiết với tư cách là Giáo sư Trung học Đệ nhị cấp đến tham dự lễ chọn nhiệm sở. Tất cả nhiệm sở có nhu cầu tiếp nhận giáo sư về dạy học được Bộ Giáo dục qua Nha Nhân viên và Nha Trung học gởi về trường trước ngày quy định khoảng 2 tháng để mỗi tốt nghiệp sinh có thời gian và cơ hội tìm hiểu nhiệm sở nơi mình sắp chọn.

Thí dụ ban X có 10 tốt nghiệp sinh ra trường thì danh sách dành cho ban X có đến khoảng gấp đôi nhiệm sở được đề nghị để tạo sự thoải mái trong việc lựa chọn. Sau khi danh sách nhiệm sở được niêm yết, mọi người rủ nhau hợp lại để thảo luận, chọn lựa. Thủ khoa cho biết ý kiến trước và tuần tự từng người sau đó kế tiếp nhau lựa chọn, hoán đổi cho nhau theo mọi thỏa thuận riêng một cách công khai.

Thường có từ 2 đến 3 nhiệm sở cách Sài Gòn khoảng trên dưới 30km dành ưu tiên cho mấy người đậu hạng cao. Ngoài ra các nhiệm sở khác được phân bổ khắp các tỉnh thành, nhất là các tỉnh thành phía nam có trường trung học đệ nhị cấp.

Trước khi dự lễ bổ nhiệm, mọi người đua nhau đi khảo sát trước một số nhiệm sở mình sắp nhắm tới, sau đó về trường cho các bạn biết quyết định mới của mình để cùng nhau điều chỉnh lại cho khớp. Do đó mỗi người phải dự  phóng trước 2 hoặc 3 nhiệm sở để tùy cơ ứng biến.

Ra trường rồi thì cứ hai năm thăng trật một lần, vùng mất an ninh thì một năm rưỡi. Hiệu trưởng chịu trách nhiệm hoàn toàn về những chậm trễ hoặc sai sót về hồ sơ thăng trật của giáo sư. Từ bộ giáo dục, hồ sơ này phải chuyển sang Phủ Tổng Thống hoặc Phủ Thủ Tướng để ký nghị định bổ nhiệm hoặc thăng trật. Bộ giáo dục chỉ được ký nghị định bổ nhiệm và thăng trật cho giáo viên tiểu học và giáo sư trung học đệ nhất cấp”.

                                                   

Ê-KÍP CỦA BIDEN: NƯỚC MỸ TRỞ LẠI. LIỆU CHÂU Á CÓ ĐÓN CHÀO KHÔNG?

Lời người dịch: Bài rất hay. Vị nào quan tâm ngoại giao Mỹ ảnh hưởng thế nào thế giới, nhất là VN, thì hãy vào đọc. Bác nào tin tưởng “Nếu Trump còn làm tổng thống, đảng CSTQ sẽ sụp đổ” thì chớ đọc. Cuba như móng tay, sát nách, Mỹ mấy đời TT "diệt" nổi không? Venezuela quốc hữu hóa công ty dầu khí Mỹ, có ai lật đổ nổi Hugo Chavez không? Huống hồ Tàu với 1,44 tỷ dân, có Tập Cận Bình mưu sâu, kế hiểm, đời đời làm vua; 4 năm làm tổng thống, Trump “võ biền” làm sao chơi nổi Tập “thâm hiểm”, lại mong đảng CS bị tiêu vong?

Không nước nào điên đến mức gây chiến tranh với một nước năm nào cũng mua sắm vũ khí cực kỳ tối tân. (Chiến tranh kinh tế tăng ở ngưỡng nào đó sẽ khơi mào chiến tranh toàn diện). Và chỉ có tổng thống nào thần kinh mới khai mào chiến tranh với một nước có nhiều bom nguyên tử, có 1.600 tỷ Mỹ kim nước mình nợ.

Câu kết của bài viết này rất hay: “(Người của Biden) không phải là những kẻ cầm súng thời Chiến tranh lạnh”. ("[Biden's people] are not Cold War warriors,").

(Team Biden says America is back. But is Asia ready to welcome it?)

“Khi Hoa Kỳ trông chờ hàn gắn các đồng minh cũ thì nền dân chủ (Mỹ) đối mặt với khủng hoảng niềm tin” (As U.S. looks to repair old alliances, democracy faces a crisis of credibility)

NEW YORK/TOKYO -- “Nước Mỹ trở lại”, là câu Joe Biden xướng lên hôm 24 tháng 11, khi ông giới thiệu đội ngũ sẽ phụ trách ngành ngoại giao, trong cuộc họp báo ở Delaware. “Dẫn đầu thế giới, không thể lùi bước”

Đứng sắp hàng bên ông, cách nhau 2 mét, là tinh hoa của một thế hệ các nhà ngoại giao chuyên nghiệp. Ở bên trái, Antony Blinken, bộ trưởng ngoại giao sắp tới, một cố vấn lâu năm, từng sát cánh bên Biden khi còn là chủ tịch ủy ban đối ngoại thượng viện. Xa hơn một chút Jake Sullivan, cố vấn an ninh quốc gia, cựu phụ tá số một về an ninh của Biden và có bốn người nữa.

Biden nói rõ: sứ mệnh quốc tế của Hoa Kỳ, chắc chắn nằm trong tay của các “đầu não” (thinktank) tốt nghiệp đại học lừng danh Harvard và Yale, hàng chục năm kinh nghiệm làm việc cho chính quyền, ngấm sâu tinh thần quốc tế của các bậc tiền bối.

Biden quyết đảo ngược chính sách ngoại giao America First (Nước Mỹ trên hết) của thời đại Donald Trump mà ông gọi là America Alone (Nước Mỹ đơn độc). Phải chấm hết: trang bị vũ khí mạnh của các đồng minh, theo đuôi các nhà độc tài, khuyến khích các lãnh đạo dân túy, rút khỏi các cam kết quốc tế. Thay vào đó là một chính sách truyền thống sau Chiến tranh lạnh, chú trọng nhiều đồng minh, theo chủ nghĩa đa phương hóa, lấy dân chủ làm nguyên tắc tổ chức nòng cốt và căn bản.

“Trước hết và trên hết, chúng ta phải khắc phục và thúc đẩy nền dân chủ của chính nước Mỹ. Phải tăng cường sức mạnh phối hợp các nước có chế độ dân chủ, từng sát cánh với chúng ta trên thế giới”.

Nhưng, cũng như các chính quyền tiền nhiệm, lý tưởng cao đẹp sẽ gặp phải thực tế phũ phàng. Qua 4 năm Trump làm tổng thống, thế giới đi tới rất nhiều, và giờ đây, sức mạnh địa chính trị, chứ không phải là lý tưởng, ngày càng chi phối trật tự thế giới. Ba cột trụ chính của sứ mạng nước Mỹ - đa phương hóa, liên minh, và dân chủ - đã bị phá hủy tàn khốc đến nỗi không thể nào khôi phục.

Trên báo Foreign Affairs, Biden viết: "Không đâu đúng hơn ở châu Á, xu thế trước chính sách của Mỹ là chú trọng vào việc cạnh tranh với một siêu cường mới trỗi dậy. TQ “đang cướp đoạt công nghệ của công ty Mỹ, bắt nạt các nước láng giềng, mở rộng tầm ảnh hưởng ra thế giới. Câu trả lời là “thiết lập một mặt trận liên kết các đồng minh Mỹ và các đối tác đối phó các hành vi hung hãn của TQ”… thậm chí, chúng ta còn tìm cách hợp tác với Bắc Kinh về các vấn đề quyền lợi hỗ tương, như biến đổi khí hậu, ngăn ngừa phổ biến vũ khí hạt nhân, và bảo vệ sức khỏe nhân loại”.

Nhưng thiết lập một mặt trận liên kết như thế rất phức tạp. Nhà báo viết bình luận, Kavi Chongkittavorn, trên tờ Southeast Asian affairs viết, Hoa Kỳ dưới thời Biden “trở lại khu vực với chính “thân thể bầm dập” (a bruised ego). Nước Mỹ có khi quá nhún nhường, có khi quá cứng rắn. Cả hai thái độ đó đều tác động đến khu vực Ấn Độ- Thái Bình Dương.

Bước khởi đầu sẽ là dựa vào các tổ chức đa dạng, truyền thống, đã bị TQ gây tác động cản trở bằng sức ép lên chính các tổ chức đó. Giám đốc trung tâm về chính sách toàn cầu Thanh Hoa- Carnegie: “Chính quyền Biden sẽ phải lập một trận tuyến ngay ngày đầu nhậm chức”.

Chỉ trong tháng 11, TQ qua mặt Hoa Kỳ với ký kết RECEP (Hợp tác kinh tế toàn diện khu vực), một ký kết thương mại tự do đa phương toàn châu Á; nhiều người cho là TQ thay thế Mỹ trong vai trò của TPP trước đây (Hợp tác xuyên Thái bình dương), bị Trump sổ toẹt năm 2017.

Cột trụ thứ hai, các đồng minh, lại cũng “loạn cào cào”. Trump rút quân Mỹ khỏi Đức, công khai đặt lại câu hỏi, liệu Mỹ có nên cam kết bảo vệ đồng minh nếu chiến tranh xảy ra hay không. Nhiều nước phản ứng bằng cách bỏ trứng vào nhiều giỏ: ví dụ như Nhật Bản, đã đặt cọc bằng cách ngả về tăng cường hợp tác kinh tế với TQ. Cả hai nước đồng ý giao thương kinh tế vào cuối tháng 11, họ còn tiến tới với nhiều ký kết đa phương khác. Đại sứ Nhật tại Mỹ thời Obama phát biểu: “Đó là nghệ thuật ngoại giao theo đuổi nhiều mục tiêu có vẻ khác nhau ở cùng một thời điểm”.

Trong lúc đó, ước vọng cháy bỏng về dân chủ trên thế giới lại như thủy triều rút cạn (a low ebb). Khả năng của Mỹ là khuôn mẫu (dân chủ) bị làm cho tê liệt, cảnh sát đàn áp tàn nhẫn người biểu tình ôn hòa ở các thành phố nước Mỹ, và sự hỗn loạn bầu cử, nhưng nặng hơn hết, sự bất lực trước cách thức đối phó Covid-19.

Kilahari Kausikan, cựu thư ký thường trực Bộ Ngoại giao Singapore, cho biết: Sự đi xuống của nền dân chủ và thể chế của Hoa Kỳ là "minh định cho nỗi sợ hãi tồi tệ nhất của chúng tôi về những mặt trái của nền dân chủ kiểu Mỹ. Người am hiểu Mỹ đều biết rằng, nước Mỹ rất rộng lượng và rất khoan dung, cả hai đều đến cùng một chuỗi giá trị.

Mặc dù giảm sút danh tiếng về dân chủ, Mỹ vẫn là hạt nhân trong tầm nhìn quốc tế của Biden và Blinken. “Câu trả lời đầu tiên và quan trọng nhất đối với các thách thức đó, thật sự, là dân chủ. Bởi vì, một khi dân chủ khởi động, nó sẽ là chỗ dựa cho sức mạnh của chúng ta trong nước và quốc tế”. Đó là phần thảo luận của Blinken với Walter Russell Mead, một học giả nổi tiếng hôm tháng bảy.

Trong bài viết của Biden và cộng sự, cái ý tưởng ấy hiện ra to tát. Theo “Kế hoạch Biden lãnh đạo thế giới dân chủ đối phó thách thức thế kỷ 21”, ông cam kết sẽ tổ chức “một Hội nghị thượng đỉnh về Dân chủ, đổi mới (renew) tinh thần và mục đích chung đối với một Thế giới tự do”.

“Trong tương lai, muốn quyết tâm chống TQ hay bất kỳ ai khác, chúng ta phải mài sắc các thế mạnh của mình, kết nối sức mạnh kinh tế của các nước dân chủ toàn thế giới, đánh tan các hành vi bòn rút kinh tế”. Trong bài xã luận đồng tác giả với Robert Kagan, nhà tân bảo thủ hàng đầu, ở trang đầu tờ Washington Post, hai người đều ủng hộ quan điểm thiết lập một “liên minh các nước dân chủ” hay một “mạng lưới hợp tác dân chủ” để chống chọi sức mạnh đang tỏa rộng của TQ.

Blinken và Kagan viết: “Hoa Kỳ có các đồng minh châu Âu và châu Á, nhưng không có một định chế nào nối kết các nước dân chủ ấy lại”. Khi “Sáng kiến một vành đai và một con đường” lôi kéo châu Á, châu Âu, Trung Đông xích lại gần, dưới nhiều hình thức, mục đích phục vụ lợi ích Bắc Kinh, các nước dân chủ cũng phải cần một viễn kiến có tính toàn cầu – như một tổ chức hình thành tầm nhìn chung về chiến lược, kinh tế, và chính trị”. Hai người đang đề cập chính sách đối ngoại đặc trưng của chủ tịch Tập Cận Bình là đẩy mạnh xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông, cũng như sức mạnh ảnh hưởng của TQ khắp Âu, Á.

Dan Fried, cựu đại sứ Hoa Kỳ, nói với hội đồng Đại Tây Dương vào ngày 23 tháng 11 rằng, "về quan điểm cốt lõi, Tony [Blinken] có thể gần gũi hơn với (cựu Ngoại trưởng thời Bill Clinton), Madeleine Albright – người cho nước Mỹ là ngọn hải đăng duy nhất của tự do – khác rất nhiều tầm nhìn dễ dãi của Obama đối với mục đích đối ngoại nước Mỹ”

Trong bài phát biểu đầu tiên khi Biden chọn làm ngoại trưởng, Blinken nhắc lại câu chuyện, làm thế nào bố nuôi của ông, người sống sót sau Thảm sát (Đức quốc xã), được một chiến sĩ Mỹ gốc Phi cứu vớt về với tự do trong Thế chiến hai, làm thế nào nước Mỹ vẫn là biểu tượng của “hy vọng cuối cùng trên Trần gian” dù chưa phải là hoàn mỹ.

Ý tưởng về một đồng minh hay một “mặt trận” các quốc gia dân chủ còn mơ hồ - không khác mấy ý tưởng về “Một vành đai, một con đường” của Bắc Kinh. Tuy nhiên, đối với Bắc Kinh, không có một phép thử chính trị nào. Trái lại, đặt điều kiện cho quan hệ chính trị về dân chủ có thể xa lạ, chính xác là ở các quốc gia mà Hoa Kỳ muốn tập hợp dưới ngọn cờ đối đầu khu vực với TQ: Philippines, Việt Nam và Thái Lan.

Kausikan, người cho rằng Trump làm được nhiều việc hơn tiền nhiệm đảng dân chủ Obama muốn khôi phục niềm tin của cường quốc Hoa Kỳ ở châu Á, phát biểu: “Rất nhiều thứ còn tùy vào cái họ muốn có, với ‘cam kết hồi sinh bằng cách dân chủ hóa”. “Nếu đây chỉ là cách để thể hiện sự khác biệt với Trump thì không sao. Nhưng nếu đây là chính sách mà họ có ý định tích cực theo đuổi, họ nên hiểu rằng, không phải tất cả mọi người - ngay cả bạn bè và đồng minh của Mỹ - đều có chung định nghĩa của Mỹ về dân chủ, hoặc tất cả các giá trị của Mỹ. ... Trừ khi một chính sách như vậy được thực hiện với sự đánh giá cao về các mặt, nó không những sẽ thất bại mà còn có thể đẩy khu vực vào vòng tay của Trung Quốc ".

“Nếu Mỹ thực sự ưu tiên dân chủ hóa, tôi tự hỏi họ có nhận thức chiến lược nào hay không”.

Các nước trong khu vực thật sự nghiêng ngả, theo cái nhìn về dân chủ. VN theo chế độ cộng sản. Trong năm nay, Thái Lan chứng kiến các cuộc phản đối đòi dân chủ bị chính quyền đàn áp thẳng tay. Đại dịch còn tạo vỏ bọc cho các lãnh đạo như tổng thống Indonesia Joko Widodo, Rodrigo Duterte tổng thống Philippines tiến gần tới khuynh hướng cai trị độc tài.

Duterte khinh bỉ gọi Obama “hãy chết đi” sau khi bị chỉ trích về cuộc chiến khát máu chống ma túy của ông. Đến tháng 11 này, Duterte còn lu loa về việc kéo dài Hiệp ước trao đổi quân sự của Phi Luật Tân với Mỹ, một rào cản quan trọng đối với sự xâm lấn của TQ ở Biển Đông.

Chính quyền Trump hành động quá ít để ngăn chặn sự thụt lùi vùng Đông Nam Á về sự cai trị độc đoán, thậm chí còn mời Duterte và thủ tướng Thái Prayuth Chan-ocha, một cựu tướng lĩnh, đến thăm Washington năm 2017 (Duterte không đi). Trong lúc đó, Myanmar, từng chuyển qua dân chủ thời Obama, trở về đường lối cai trị độc tài thời Trump.

Chuyên gia về Đông Nam Á, Ann Marie Murphy của đại học Seton Hall, cho biết: “Khắp cả vùng, một việc được các nhà lãnh đạo tại chỗ hoan nghênh đó là Trump không đoái hoài đến việc thúc đẩy dân chủ”.

Blinken nêu rõ, ông ý thức được các mâu thuẫn phát sinh giữa việc tìm đối tác với duy trì lý tưởng dân chủ. Ông nói: “Có những quốc gia chúng ta cần cộng tác, rõ ràng, với các nước châu Á có thể không thật sự dân chủ lý tưởng như chúng ta. Hiển nhiên, chúng ta không phải chọn giữa hai cái ở vào thời điểm này. Nhưng khi quý vị củng cố được nền tảng dân chủ, điều đó tạo ra mộ cơ sở, dựa vào đó để lôi kéo các nước khác về nhiều vấn đề”.

Thành viên cao cấp nghiên cứu Đông Nam Á ở hội đồng quan hệ đối ngoại, Joshua Kurlantzick, cho biết: tập trung chống TQ đồng nghĩa ít nhiều thỏa hiệp với tiến trình tiến tới dân chủ bị hạn chế. Ông nói với Nikkei: “Việc cần tranh thủ nhiều sự ủng hộ ở Đông Nam Á … có khả năng đưa đẩy dân chủ và quyền con người đến chỗ phải bị hạn chế”.

KHÔNG THỂ NHƯ XƯA (Those days are over)

Tháng 4 năm 2015, 4 tháng sau khi nhận chức thứ trưởng bộ ngoại giao, Blinken họp với các đồng sự Nhật, Hàn ở Washington; buổi tiệc nhận chức trôi qua êm thắm, nối tiếp là thảo luận nào an ninh hàng hải nào biến đổi khí hậu. Một phóng viên hỏi sự khác biệt sâu sắc Nhật Bản, Hàn Quốc đối với việc bồi thường chiến tranh có gây trở ngại gì đến hợp tác ba bên giữa các đồng minh.

Đó là câu hỏi góc cạnh. Blinken khéo léo khỏa lấp. Và vào cuối năm đó, nhờ khuyến khích của Mỹ, một hiệp ước đạt được, trong đó Nhật Bản sẽ trao quỹ hỗ trợ phụ nữ bị cưỡng bách tình dục trong đệ nhị thế chiến. Đổi lại, Nam Hàn sẽ di dời bức tượng tưởng nhớ những phụ nữ gọi là mua vui khỏi tòa đại sứ Nhật Bản.

Nhưng ngay lúc Blinken rời khỏi chính quyền Obama, một bức tượng tương tự được dựng lên ở thành phố Busan, Nam Hàn. Để đáp trả, Nhật triệu hồi các nhà ngoại giao về, rút khỏi hiệp ước vừa ký.

Một giai đoạn minh họa một lịch sử rối ren, nhân lên trong nghị trình ở các nước mà Hoa Kỳ muốn trông cậy trên hết trong các quốc gia dân chủ châu Á. Ngày nay, khi Blinken trở lại bộ ngoai giao, quan hệ giữa Nhật Bản và Nam Hàn đang giảm thấp – như một điểm nhức nhối trong khu vực nổi lên nhiều bất bình. TQ ngày càng thẳng thừng (assertive) trong các tranh chấp biên giới với Ấn Độ, Nhật Bản, và đang o ép Đài Loan. Bắc Triều Tiên thì “sớm nắng chiều mưa”; lằn ranh phân định Hong Kong với lục địa lại còn mờ nhạt hơn.

Cựu thứ trưởng bộ ngoại giao phụ trách Đông Á Thái Bình Dương, Daniel Russel mô tả đồng nghiệp cũ Blinken là “người giải quyết vấn đề”. Trong các cuộc họp, Russel nói ông luôn ấn tượng trước tính rạch ròi của Blinken – năng lực của ông minh định rõ chủ trương và cơ sở lý luận của Hoa Kỳ, cũng như “gợi mở cho phía bên kia họ được ưu ái vấn đề gì, họ sẽ chuẩn bị những gì trước gợi ý của chúng ta, và làm thế nào dung hòa các quyền lợi “sát sườn” (narrowed).

Russel nhớ một sự kiện rất rõ. Trong các cuộc đàm phán về TPP, Blinken và các người khác đã đưa Việt Nam đến với hiệp định, bằng cách ràng buộc các cải cách thực dụng để nước này đáp ứng các chuẩn mực quốc tế - mặc cho chính phủ họ không có mấy dân chủ.

Đồng sự với ông là cố vấn an ninh quốc gia, Sullivan, cựu học giả viện Rhodes được xem là ngôi sao đang lên ở đảng Dân chủ. Ít nổi bật hơn Blinken trong các tạp chí về chính sách đối ngoại, Sullivan là nhà điều hành chính trị tài năng, nổi tiếng trong việc thương thuyết thỏa thuận hạt nhân Iran 2015, Trump rút khỏi vào năm 2018.

Nhưng linh hồn của "Nhóm phụ trách chính sách ngoại giao Biden" rõ ràng chính là Biden, người mang lại nhiều kinh nghiệm quốc tế cho công việc hơn ai hết kể từ George H.W. Bush (cha). Theo cựu đại sứ Nhật tại Mỹ Fujisaki, việc đề cử Blinken cho thấy Biden quyết tâm chú trọng chính sách ngoại giao của mình, so với Obama tương đối như người học việc khi đến với Nhà Trắng.

“Tôi cho rằng ông Biden quyết định nắm chặt chính sách ngoại giao bằng sự bổ nhiệm các đội ngũ, trợ lý cũ của mình. Khác với Obama khi bổ nhiệm Hillary Clinton và John Kerry làm ngoại trưởng.

Các vấn đề của khu vực thay đổi cấp số nhân từ khi Nhóm này không còn quyền hạn. Hiệp định TPP hình thành lê thê, Blinken khổ công vun đắp, vẫn đi qua mà không có Hoa Kỳ, điều này tước mất vai trò lãnh đạo của Mỹ trong khu vực khi Trump rút khỏi đột ngột. Và RECEP vừa mới ký không có Mỹ tham gia là một thức tỉnh cho Washington: Khu vực ấy hiện nay an bình đi tới một hiệp định mà không cần Mỹ.

Một báo cáo gần đây của Rand Corp., tổ chức tư vấn liên bang do Mỹ tài trợ cho biết, dựa trên các cuộc phỏng vấn với hơn 100 quan chức chính phủ Hoa Kỳ, đối tác và các chuyên gia: Trong những năm gần đây, các nước Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương có xu hướng dựa vào Hoa Kỳ về an ninh nhưng lại dựa vào Trung Quốc về thương mại. Nhưng giờ đây, họ ngày càng coi phát triển kinh tế được ưu tiên hơn những lo ngại về an ninh. Họ thường lo lắng về ảnh hưởng kinh tế của Trung Quốc hơn là các mối đe dọa quân sự của Bắc Kinh. Đối với một số người, sự tập trung đổi mới của Biden và Blinken vào nền dân chủ cần được coi trọng nhưng không nên hiểu quá hạn hẹp.

Phó chủ tịch viện Nghiên cứu chính sách xã hội châu Á, Russel cho rằng, trong khi các giá trị dân chủ là “cổ máy đẻ sức mạnh (a force multiplier) đối với Hoa Kỳ, đặc biệt dưới hình thái sức mạnh mềm”. Biden và Blinken “không phải là những người duy ý chí (ideologues). Đây không phải là cuộc thánh chiến dân chủ. Đây là biện pháp thực tiễn và dựa vào thực tế”.

Cựu cố vấn an ninh quốc gia Úc cho bộ trưởng ngoại giao Bishop, nay là thành viên cấp cao ở viện Think Tank (kho trí tuệ) Hudson (Mỹ), khi nhắc tới đồng minh lâu đời Nhật, Úc, hai nước cùng chung quan tâm chiến lược với Hoa Kỳ nhưng lại dựa vào buôn bán với TQ, ông nói về liên minh dân chủ “thật sự khiến Nhật, Úc ở vào thế khó xử”. Nhưng cuối cùng thì “hai nước này cũng phải đối mặt với thách thức từ TQ". Ông tiếp: “Điều ấy không đồng nghĩa họ phải đi quá xa như Hoa Kỳ về luận điệu hay về chính sách. Nhưng điều ấy có nghĩa là họ phải có sự chọn lựa theo lý lẽ nào đó để tồn tại trong tương lai”.

Là trụ cột trong hệ thống đồng minh của Hoa Kỳ, có lẽ Nhật Bản sẽ tham gia nhiệt tình trong một liên minh dân chủ. Nhật vẫn giữ chỗ nồng ấm với Hoa Kỳ, thúc đẩy TTP sớm hoàn tất trong lúc Trump lại rút khỏi hiệp định. Tuy nhiên, trong khi đó, Tokyo lại xích gần về Trung Quốc, vì các căng thẳng thương mại với Mỹ, và rất lo lắng về cam kết của Washington trong tương lai ở châu Á.

Trong khi đó, Ấn Độ là cột trụ quan trọng trong chiến lược Ấn Độ-

Thái Bình Dương, được chính quyền sắp mãn nhiệm tán thành, lại là nước tham gia lưỡng lự trong quá khứ. Nước này không những “bội ước” RECEP, một hiệp định TQ chi phối, mà còn gắn bó hợp tác trong Bộ Tứ (Quad) với Hoa Kỳ, Nhật Bản và Úc.

Cựu đại sứ Ấn Độ tại ASEAN, Gurjit Singh, nói với Nikkei: “Cảm tưởng Biden và nhóm của ông có thể tìm kiếm sự thay đổi có tính sắc thái, nhưng có lẽ họ không muốn kéo lui sự ủng hộ họ có được khi đối mặt với TQ”.

Tạp trung trở lại vấn đề dân chủ chắc sẽ gây hấn các nhà lãnh đạo TQ, họ luôn nghi ngờ Mỹ thường sử dụng (chiêu bài) dân chủ để gây bất ổn cho các chính quyền đối trọng. Ví dụ, Blinken nói với CBS, sự thất bại lớn nhất trong chính sách đối ngoại thời Obama là quyết định không can thiệp quy mô lớn vào Syria, nó như là “cái gì tôi mang theo cả cuộc đời tôi”.

Nhưng giám đốc Chương trình nước Mỹ và người Mỹ của Chatham House, Leslie Vinjamuri: Có lẽ Blinken và Biden không quay về “cách thức cũ” để xiển dương dân chủ. Vinjamuri còn thêm: “Chúng ta sẽ không còn quay lại việc sử dụng sức mạnh quân sự để thúc đẩy dân chủ trên thế giới. Tôi cho rằng những ngày tháng ấy đã qua.

Ở cuộc hội thảo qua mạng do Vinjamuri điều phối hôm tháng 4, Blinken chỉ trích biện pháp của Trump. Ông chỉ ra các nước theo chế độ dân chủ chiếm hơn phân nửa nền kinh tế thế giới, điều đó sẽ khiến cho Bắc Kinh phải e dè họ. Blinken phát biểu: “ Nước Mỹ xuất hiện trở lại và rất rõ ràng chúng ta phải đóng vai trò lãnh đạo – một sự khác biệt lớn, chứ không phải chơi kiểu TRÁNH TRỚ (instead of going AWOL). Nếu cộng tác với nhau, chúng ta sẽ đạt rất nhiều thứ hơn cái thứ tâm thần phân liệt, trộn tới trộn lui như mấy năm vừa qua” (Lão này ám chỉ thần tượng Trump của tôi đây chắc. We will get a lot further than this schizophrenia switching back and forth in the past few years).

Blinken còn đề cập đến chủ nghĩa dân túy, dân tộc cực đoan đang cao trào ở Mỹ; chính sách ngoại giao cần bao quát hơn, thực thi tốt hơn vì quyền lợi của mọi người dân mỗi ngày. Ông nói: “Nhân loại mòn mỏi trông mong những câu trả lời đơn giản, cũng như một sức mạnh họ chưa hiểu (trên) thế giới này, và sẽ làm họ giận dữ, bất mãn nếu không đem lại những cái ấy. Không có chuyện quay lui…Nếu chúng ta không chứng tỏ bằng hành xử đối ngoại, lấy ví dụ, thực sự mang đến cho nhân loại cái ý nghĩa thiết thân trong đời sống của họ, lúc đó, chúng ta đừng mong họ ủng hộ lâu dài”.

LOẠN TỪ TRỊ (Chaos from order - Lão Tử: "Trị lâu sinh loạn, loạn lâu sinh trị")

Có chuyên gia nhận xét, soi rọi kỹ hơn, kêu gọi của Blinken và Biden đoàn kết các nước dân chủ mang lại lợi ích nhiều hơn chính là sách đối ngoại. Lời kêu gọi ấy đáp lại sự khủng hoảng trong nước, nơi người Mỹ chưa từng bị chia rẽ trong quá khứ. Trên hết, dưới cái nhìn trong nước và thế giới, tập trung vào dân chủ, đối nghịch lại các chế độ độc tài, làm khác biệt chính quyền Biden với chính quyền Trump.

Thứ đến, tập trung của Blinken vào dân chủ còn nhằm mở rộng đồng thuận chính trị ở Washington, bằng cách tập họp lại, một nhóm gạo cội đảng viên Cộng hòa, các nhà “tân bảo thủ” (neoconservatives), các thành viên (gọi là) “Không bao giờ theo Trump” ("never Trumpers"), từng rời đảng (CH) trước bầu cử Trump, những người thường ủng dân chủ và can dự ra thế giới. Đồng tác giả với Blinken, Kagan, lấy ví dụ, là cựu đảng viên Cộng hòa bỏ đảng năm 2016. Kagan trước làm cố vấn cho các ứng viên tổng thống đảng Cộng hòa, Mitt Romney và John McCain.

Biden minh định ưu tiên số một của ông là chấm dứt đại dịch, khôi phục kinh tế, đem lại lòng tin vào chính phủ Hoa Kỳ. Hôm tháng 10, Nikkei có phúc trình có lẽ Biden sẽ không ký kết thương mại nào to lớn trong nửa đầu năm của nhiệm kỳ, bởi vì ông cần ưu tiên đầu tư trong nước.

Rất nhiều mục tiêu quốc nội, từ biến đổi khí hậu đến sức khỏe cộng đồng, đòi hỏi TQ hợp tác và cả hai lĩnh vực mà Biden muốn tìm tiếng nói chung.

Về phần mình, TQ cho biết họ hoan nghênh việc giải quyết vấn đề “có tính xây dựng”, dù thù ghét (họ) thời Trump còn dai dẳng. Người sáng lập, chủ tịch trung tâm TQ và toàn cầu hóa, một Think Tank của Bắc Kinh, ông Hoàng Huy Bảo nhận xét: “Trump thiết lập thành công mức độ đồng thuận hai đảng chống lại TQ. Đó là thách thức TQ sẽ gặp về mặt làm thế nào để nói chuyện với Hoa Kỳ. Với Biden, có khá hơn, vì chúng tôi cần nói chuyện gấp, nhưng chắc là, cơ bản các vấn đề vẫn còn như cũ”.

Giám đốc học viện về Hoa Kỳ- Trung Quốc, đại học Nam California, Clayton Dube ý kiến: “Mặc cho Blinken đưa ra thông điệp tán dương dân chủ, chính quyền Biden sẽ không sử dụng biện pháp chống quyết liệt Trung Quốc.

Ông Dube còn nói Biden “không phải mù” trước hành xử của TQ ngày nay, ông sẽ không cố kiềm hãm TQ bằng một cuộc thập tự chinh dân chủ hoặc là làm cho TQ có dân chủ hơn. Trái lại, biện pháp của Blinken có thể làm an tâm đồng minh có ý chí cùng Hoa Kỳ cộng tác bên nhau trong lúc Biden xử lý các lo âu trong nước trước nhất, như kinh tế và đại dịch.

Dube tiếp: “Blinken nhắm người trong nước, nhưng đồng thời, ông còn gởi đi tín hiệu đến các đồng minh từng hồ nghi cam kết của Mỹ về dân chủ, những đồng minh vừa qua đã thấy chủ nghĩa toàn toàn trị lững lờ theo kiểu Mỹ. Tôi cho rằng, lời ông viết cần được hiểu theo cách, đang nhắc nhở nước Mỹ về cái họ có thể và nên là (cũng như) thông điệp gởi cho các nước khác, ‘Chúng tôi biết chúng tôi cần quay lại theo hướng này, và khi quay lại, chúng tôi mong muốn cùng cộng tác với quý vị”.

Bà Vinjamuri, ở viện Chatham House, còn vạch rõ, Nhóm của Biden không coi TQ như kẻ thù ngay cả họ phải hành xử cứng rắn với Bắc Kinh vì các vấn đề nhân quyền. Chính phủ Biden sẽ không làm gì để khiến TQ xa lánh “một liên minh các nước dân chủ”.

“Tôi nghĩ ai cũng công nhận rất rõ ràng rằng, hợp tác Mỹ-Trung là chìa khóa mở ra giải pháp đối với tất cả thách thức lớn trên phạm vi toàn cầu. Không chỉ khí hậu, ngăn ngừa đại dịch, (mà còn) kinh tế thế giới, cần đi theo hướng tăng trưởng và quản lý sự lan tràn công nghệ”.

“(Người của Biden) không phải là những kẻ cầm súng thời Chiến Tranh Lạnh”, kết luận của bà Vinjamuri ("[Biden's people] are not Cold War warriors,").

Bài của ALEX FANG, MARRIAN ZHOU, FRANCESCA REGALADO, báo Nikkei (2.12.2020).