Trưa hè oi bức, mặt trời đứng bóng, không khí dính chặt, tiếng kêu của một loài chim, ai oán vang lên, “bắt con trói cột” (*). Ban đầu nghe rất rõ cái tiếng kêu thảng thốt, sau đó nhỏ dần, thưa dần nhưng không mất hẳn. Tiếng kêu văng vẳng rồi lặng vào những đám mây trắng xóa trên cao. Không gian ngột ngạt vẫn nấn ná âm thanh như nuối tiếc, như thở than của một loài chim chưa ai biết tên, và cũng chưa ai nhìn thấy nó tỏ tường.
Trên bầu trời
xanh vô tận, những đám mây trắng ngưng đọng, một điểm nhỏ như chấm mực di chuyển: con chim đang bay, kéo theo cái âm thanh não nuột “bắt con trói cột”, tiếng kêu này nối tiếp tiếng kêu kia, vang vọng một vùng quê tĩnh mịch. Dân làng thường nghe kể, con chim có tiếng kêu thê thiết ấy là oan hồn của một bé gái chết cháy trong một cơn hỏa hoạn khi cha mẹ đi vào núi đốt than; than đổi gạo, độ nhựt cho một gia đình nghèo khó thuở xưa.
Khi còn nhỏ chừng bảy tám tuổi, tôi đã nghe tiếng kêu của con chim vô danh này, cũng vào những buổi trưa hè nắng nóng. Bẵng đâu mấy chục năm rời xa quê hương, tôi không có dịp nghe tiếng kêu của loài chim, chỉ thấy bay, không thấy đậu. Và cũng vào những buổi trưa hè những năm gần đây, tiếng kêu “bắt con trói cột” lại hiện về. Tiếng chim nhắc tôi nhớ những kỷ niệm thời thơ ấu khi quê hương chưa chìm trong tiếng súng.
Quê tôi là vùng nông nghiệp, đất đai màu mỡ. Nhờ đất rộng người thưa, chưa bao giờ người nông dân biết đến cái đói và cũng chưa bao giờ họ lo lắng thiếu ăn. Gia đình tôi thuộc hạng khá giả. Nhưng có một năm, tôi không nhớ rõ năm nào, nhà tôi không có gạo ăn. Cha tôi bán tất cả số lúa dự trữ để đi về Hội An chữa bệnh liệt hai chân do thoái hóa cột sống. Lúa trong nhà không còn; cha tôi dự tính cả nhà gồm mẹ, chị, và tôi sẽ dựa vào số lúa sắp thu hoạch vào vụ xuân hè. Nhưng vụ lúa ấy mất trắng, không phải chỉ mỗi gia đình tôi, mà tất cả các hộ trong làng.
Những cánh đồng đỏ rực khi lúa đang làm đòng; đỏ như có ai đốt cháy. Chỉ có hộ không sống bằng nghề nông mới có thể không đói. Đó là nhà của hai đứa bạn tôi. Một buôn bán tạp hóa và một sống nghề cắt tóc, khá thư thả. Hồi ấy, hai ba làng mới có một tiệm hớt tóc.
Trong một lần ra sông tắm, chúng tôi ba đứa trông thấy một con gà nhỏ, mớm đuôi tôm, bằng nắm tay người lớn, đi lạc loài trên bãi cát rộng ven sông. Nó cất tiếng kêu gọi mẹ hay gọi bầy; tiếng kêu khẩn thiết không khác tiếng kêu của con chim “bắt con trói cột” nhưng nhặt hơn, gấp gáp hơn, van nài hơn. Ba chúng tôi vây nó lại. Chẳng mấy chốc, một trong ba đứa tóm được nó. Thay vì tắm, chúng tôi trở về nhà; tôi giữ con gà tội nghiệp ấy, nó không ngừng kêu chíp chíp trong đôi tay nhỏ bé của mình.
Hai đứa bạn “con nhà không làm nông” kia cung cấp “lương thực” cho tôi, người phụ trách nuôi con gà ấy. Nhà chúng nó không làm ruộng nên không góp thóc mà góp gạo. Lần đầu tiên, tôi thấy một loại gạo trắng hạt dài, mười hạt như chục, khác hẳn loại gạo nhà tôi xay ra từ lúa, bằng chiếc cối xay tay và giã cũng bằng tay trong một cối đá to tướng. Gạo màu đỏ nhìn thô ráp, không bóng sáng như gạo của hai thằng bạn mang tới để cho gà ăn.
Năm bảy ngày, khi thấy hết gạo, tôi thông báo cho hai đứa bạn. Thế là khạp đựng gạo của tôi độ đôi ba lít lại đầy. Khi hơn hai tháng, con gà của tôi trông lớn hẳn. Nó cao ráo với đôi chân vàng óng, bộ lông mượt đỏ, không ủ xù, xơ xác như hồi chúng tôi mới bắt về. Yêu gà như Cún, tôi đặt nó tên “Cúc Con”. Cúc Con rất thân thiện với tôi. Cứ mỗi lần đi học về, đang ở đâu đó trong vườn, bằng cách nào không rõ, nó luôn phát hiện ra tôi, và ba chân bốn cẳng, sải đôi cánh như chim, vừa bay vừa chạy về hướng tôi đang bước đến thềm nhà. Thế là nó đứng chờ trong sân. Một nắm gạo vãi ra trước mặt, Cúc Con kêu lên mấy tiếng như cám ơn tôi và cắm cúi mổ những hạt gạo trắng tinh.
Con gà ngày càng lớn, và do đó, số gạo góp của hai bạn tôi nhiều hơn, từ một lon dần dần tăng lên hai lon mỗi tuần mỗi đứa.
Còn bé, cứ đến bữa ăn, tôi ngồi vào bàn mà không hề để ý nồi cơm; mất mùa lúa, tôi vẫn không để ý nồi cơm của ba mẹ con ngày càng ít lại. Tôi đưa chén ra đế xin thêm lần thứ ba thì chị tôi, ngồi gần nồi cơm lắc đầu ái ngại: cơm hết. Các bữa cơm sau đó, số lượng chén giảm xuống. Mỗi người một chén. Chưa bao giờ tôi ăn đói lần nào trong ngôi nhà ngói to năm gian này; ngôi nhà hãnh diện của cha tôi đối với dân làng, đa phần còn ở nhà tranh, vách phên nứa trét cứt trâu. Trong tâm trí mình, tôi cứ nghĩ lý do nhà đói ăn chính là sự vắng mặt của cha tôi. Có ông, tôi nghĩ nhà tôi không bao giờ gặp thảm cảnh như thế.
Nhưng thảm cảnh không phải là cái thiếu ăn.
Số gạo hai bạn tôi góp hằng tuần, mẹ hay chị, tôi không rõ, đã lén lấy bớt bù vào chỗ gạo nấu ăn của gia đình mỗi bữa. Mẹ tôi không muốn tôi đưa chén ra về phía chị trong hai bữa ăn mỗi ngày, mọi khi là ba bữa? Người ăn nhiều hơn gà. Gạo hết nhẵn. Cúc Con của tôi có vẻ buồn bã. Nó không còn đón tôi mỗi lần đi học về. Còn thức ăn đâu mà tìm tới. Tôi lo lắng nó cũng sẽ đói như tôi. Trí óc non nớt hồi ấy không làm tôi an tâm. Gà có thể bươn chải trong vườn để sống nhưng tôi cứ nghĩ mỗi tối khi nhảy lên cây mít bên hè đi ngủ, bụng nó hẳn cũng sẽ cồn cào như bụng tôi, trằn trọc cả đêm vì đói.
Đứa bé như tôi không hiểu nỗi sĩ diện của người lớn ở nhà quê. Có tiếng là khá giả, mẹ tôi thà ăn đói, và không hề than thở với ai; đừng nói đến mượn gạo, mượn thóc của hàng xóm; mà họ cũng đứt bữa vì mất mùa như chúng tôi.
Đến bây giờ gần bước vào tuổi bảy mươi, tôi vẫn ân hận chuyện mình phải giấu chỗ gạo của hai bạn góp cho gà vào một nơi mà không bị mẹ tôi hay chị tôi hay biết sau lần gà hết thức ăn. Ai lại lấy gạo của người ta góp cho gà mà nấu ăn cho mình. Suy nghĩ như thế, chỗ gạo tôi giấu kỹ đã đủ cho Cúc Con mỗi ngày hai lần. Đi ngủ nó sẽ không còn cồn cào đói bụng.
Mất mùa lúa rất lâu mà cha tôi vẫn chưa về. Hai chị em tôi bèn ra bãi bồi ven sông: mót khoai lang rài. Khoai rài là khoai đứt một phần củ sau thu hoạch, nằm sót lại, nứt mầm khỏi mặt đất, có một hay hai lá non tim tím, rất dễ phát hiện.
Vì cả làng đều đói, ai cũng đi đào, khoai rài không dễ tìm. Từ sáng cho đến trưa đứng bóng, hai chị em tôi vất vả vác cuốc dò tìm, đi từ đầu bãi đến cuối bãi, chỉ đào được bốn củ khoai màu trắng, to hơn ngón chân cái người lớn.
Chừa hai củ đem về nhà ghế vào cơm, chị em tôi ăn sống hai củ, sau khi rửa sạch bằng nước sông. Nhai khoai sống có vị ngọt, ban đầu hơi hăng, nhai kỹ, nhai lâu, mùi hăng sẽ dịu, khi nuốt vào bụng, chúng tôi vẫn còn giữ cảm giác ngọt ngọt nơi miệng.
Ánh nắng mặt trời buổi đứng bóng qua trưa càng ngột ngạt. Chị em chúng tôi vác mỗi người một chiếc cuốc đi thơ thẩn thêm một lúc lâu mà vẫn chưa tìm ra một củ khoai rài nào. Trên bầu trời xanh ngút, lơ thơ một vài đám mây trắng, tiếng con chim “bắt con trói cột” vang lên.
Nhìn về hướng tiếng kêu trên bầu trời đầy nắng, chị em tôi thấy một chấm đen di chuyển chầm chậm. Tiếng kêu “bắt con trói cột” rõ dần, như ngập cả không gian. Tiếng kêu nối tiếng kêu trong bầu không khí ngột ngạt oi bức buổi trưa hè. Tôi nghe tiếng kêu có vẻ như não nùng, ai oán.
Khi Cúc Con giao cho hai bạn tôi thì tôi mới không còn lo lắng gạo của họ đóng cho gà ăn không còn bị “mất cắp”. Tôi được chia phần tiền nuôi gà. Nhà tôi có một tuần ăn mỗi người hai chén cơm đầy. Chị tôi không còn lắc đầu khi tôi đưa chén về phía chị để xin chén thứ ba. Rồi cha tôi trở về sau mấy tháng vắng nhà. Với tài xoay xở của ông, gia đình tôi không còn đứt bữa.
Lần đầu tiên về quê thăm chị vào mùa hè oi bức, đứng trầm ngâm trên bãi bồi ven sông trống vắng, tôi bồi hồi xúc động khi nghe lại tiếng kêu của con chim “bắt con trói cột” vang lên từ xa trên bầu trời xanh thẳm. Cha mẹ tôi không còn. Rời nơi chôn nhau cắt rốn mấy chục năm trời, tôi vẫn không quên câu chuyện về những hạt gạo trắng tôi giấu mẹ tôi, chị tôi.
Gió thổi nhẹ trên bãi bồi không còn khoai lang rài. Dòng sông trước mặt tôi, nước vẫn lững lờ trôi. Tiếng kêu của con chim nhỏ dần như nuối tiếc; tiếng kêu đượm vẻ u hoài có chút gì ai oán.
Ghi chú: (*) Có người còn gọi “các quan bó buộc “ để diễn dịch tiếng kêu của con chim này.