Chú voi biểu tượng (hình) ở đất nước Kenya vừa mới qua đời, tuổi phỏng đoán từ 60 đến 65. Voi ở Việt Nam còn lại bao nhiêu con? Tôi không rõ. Nhưng ở vùng quê “cổ tích” của tôi (Tây Quảng Nam), chúng nhiều đến nỗi làm sợ hãi dân làng. Đi thành bầy, thường xuyên, chúng xuất hiện phá hại lúa ở những thửa ruộng sát bìa rừng (ruộng lúa gieo cấy bằng nước “trời” - nước mưa, nước khe suối). Đó là những năm tôi chưa sinh ra. Đầu thế kỷ 20 khi núi rừng còn là thế giới huyền ảo, cọp gọi là “ông Hổ”, voi gọi bằng “ông Bồ”.

Không sợ hãi chúng, một nông dân gan dạ - ông Bốn- rắp tâm “trả đũa”. Dựa vào thói quen voi đầu đàn hay cạ mình vào thân cây ‘dừng’ (lộc vừng) cổ thụ, gốc hai người ôm khi ‘đàn em’ say sưa quậy phá, ông Bốn leo lên cao, với một mo cau chứa đầy ‘dầu rái’ (lấy từ cây dầu dùng để trét ghe nan, thúng, mũng…) đang đốt cháy. Thấy lưng như tấm phản của con voi ở ngay bên dưới chỗ ngồi an toàn trên cao, ông đổ chất lỏng đang bốc cháy của dầu rái xuống, lửa cháy theo dầu lan ra, ngọn bốc lên cao. Voi đầu đàn rống lên nhiều tiếng thảm thiết vang động núi rừng tịch mịch trong đêm tối. Vốn thông minh, những con voi khác dung vòi nhổ những bụi lách (một loại lau sậy) có rễ dính bùn vất lên lưng vị đàn anh gặp nạn. Dầu không phải là xăng. Nó cháy dai dẳng rất lâu. Cả đàn voi bỏ chạy. Bẵng thời gian, đàn voi không xuất hiện nữa. Những thửa ruộng Ông Bốn và dân làng xanh tốt hơn xưa.
Dân làng mừng rỡ. Càng mừng rỡ hơn, có người kể đã từng thấy con voi cháy lưng đang ở một vùng rừng núi khác. Những cây lách vẫn ‘tươi tốt’ trên lưng nó. Đây là dấu hiệu chắc chắn cho biết ‘thành tích’ của vị nông dân gan dạ. Không rõ, lách sống trên lưng voi bao lâu nhưng câu chuyện con “Voi Lách” vẫn còn trong kho ‘cổ tích’ của những vị bô lão còn sống cho đến ngày nay.
Câu chuyện trên chỉ nghe kể lại nhưng câu chuyện này có thật. Nhân vật chính là ông nội tôi. Tuổi ông có lẽ ngang ngửa với thân sinh cụ Nguyễn Sinh Cung. Ông tôi có võ nghệ khá thuần. Sở thích là bẫy thú rừng. Nai, mang (mễnh), heo rừng… cứ năm bảy ngày hay lưng nửa tháng bắt một con. Có một lần - và cũng là lần duy nhất, ông bị buộc từ bỏ đam mê bẫy thú rừng- bẫy ông mắc một con…beo (hai ‘đòn khiêng’ – nghĩa là 4 người khiêng bằng 2 đòn cây).
Ngày xưa không có đồng hồ, đi ‘thăm bẫy’ dựa vào tiếng gà gáy. Không rõ ngứa miệng hay sao, hôm đó con gà gáy quá sớm. Ông tôi thức dậy, rút chiếc mác dài vác lên vai rồi một mình lặng lẽ vô rừng “làm nhiệm vụ”.
Dưới bóng trăng mờ bìa rừng, ông mừng rỡ ngỡ con beo là con cáo khổng lồ dính bẫy. Đến gần, con beo gầm to một tiếng chồm tới, ông tôi trụ người ở tư thế phản công, mũi mác chĩa tới trước; chiếc cần bẫy tre đực dẻo dai bật mạnh, sợi dây thừng cột trên đỉnh thít chặt chân trước quật ngược lại do trớn nhảy của con thú. Thú bật ngửa phơi bụng trắng nhờ trên đất. Đây là thời điểm mũi mác phóng vào ngực nó. Với phản xạ cực nhanh, con thú chụp lấy cán mác giật mạnh, mác gãy đôi, mũi mác văng ra, phần cán dài hơn 1 mét vẫn còn trên tay ông tôi nhờ nắm chặt. Thế là, mỗi lần nhứ, con thú chồm tới, sợi dây thừng giật ngược, thú té ngửa ra sau, miệng gầm dữ dội sau mỗi cú đánh vào ngưc của ông. Không rõ bao lâu thì con báo chết và ông tôi cũng ngất đi vì sợ và vì mệt: ông hiểu mình đang đánh một con… beo, điều ông không hề nghĩ tới vì cứ ngỡ là con cáo khổng lồ dưới ánh trăng nhờ nhờ mờ ảo.
Mặt trời lên ‘một sào’ (tầm 9 giờ, cách đo đếm thời gian hồi xưa ở quê tôi), cha tôi không thấy ông về. Biết là gặp nguy. Thời đó, cọp ra bắt người, bắt heo tha vào rừng là chuyện thường xuyên vì làng mạc ít người ở lại nằm gần bìa rừng thâm u. Bác tôi kêu thêm một vài thanh niên lực lưỡng, vũ trang rựa rìu, cùng vào rừng nơi ông nội thường đặt bẫy trong tâm trạng lo lắng sợ hãi.
Thấy ông nội và con beo nằm bất động, cả hai dính đầy máu, cha tôi sụp xuống ôm lấy ông, khóc nức nở. Con beo giết cha mình rồi sao. Ông tôi bỗng mở mắt. Nhìn mọi người chung quanh, ông mỉm cười, chắc thầm nghĩ ‘mình hãy còn sống sao’.
Thịt beo chia ra cho hàng xóm và bà con, ăn lấy lộc. Da beo phơi khô độn trấu, nhìn như con thú còn sống. Hiện nay, cháu đích tôn của dòng họ nhà tôi vẫn còn giữ được một chiếc vuốt khá to của con beo. Dân làng lầm lẫn beo (báo?) với cọp. Từ đó, ông tôi có biệt danh “ông Thắng đánh cọp”.
Tôi kể hai câu chuyện trên cho dài dòng để nối tiếp câu chuyện nữa: cũng là bẫy thú rừng.
Những năm sau 1954, quê tôi vẫn còn rất nhiều thú rừng. Cọp thi thoảng mới thấy ở rừng sâu; voi cũng vậy. Ông Phạm Hùng từng săn một con cọp ở tả ngạn sông Bung (giờ có thủy điện sông Bung). Voi cũng bị chết dưới tay ông vài con. Thời đó chưa thấy ai cấm bắn cọp bắn voi. Nhưng mang (mễnh) và heo rừng thì nhiều “vô kể”. Súng không dễ gì có; người ta sử dụng phương tiện khác để bắt thú rừng. ‘Hầm heo’ là phổ thông nhất.
NGười ta chọn một khoảng đất khá trống trải đầu bìa rừng để đào hầm bẫy heo rừng. Hầm dài 5 mét, rộng 1 mét, sâu 3 mét. Đáy hầm nhỏ lại ở dưới như hình tam giác, miệng hầm là đáy, đáy hầm là đỉnh của tam giác ấy. Đáy hầm hẹp có mục đích, heo rơi xuống đó không lấy được trớn để nhảy lên khỏi miệng hầm. Chung quanh hầm 1 mét có một hàng rào tre vót nhọn cao 1,5 m. Đầu hầm chừa khoảng trống làm cửa. Tại đây sẽ có một tấm ‘giá khổ’ chừng 3 mét cao 1,5 treo lên cao, cài bằng một then nối với một sợi dây. Khi vướng dây, giá khổ rớt xuống, heo rừng hốt hoảng nhảy tới theo hướng hầm đào sẵn, miệng hầm che bằng lá bật cật ngụy trang (giống lá kè miền Nam). Heo thích rau lang và nhất là sắn. Rau và sắn trồng quanh miệng hầm, giới hạn trong một hàng rào, để dẫn dụ heo vào. Giá khổ làm bằng cây tốt, rất nặng phải hai người hợp lực mới có thể nâng lên để ‘giăng bẫy’.
Khi rớt xuống hầm, chúng sẽ bị đâm chết nếu heo lớn, bắt trói nếu heo con. ‘Tiết canh’ heo rừng nghe đâu rất đặc biệt vì rất ngon.
Nhưng làm sao biết có heo sa vào hầm? Rất dễ. Người ta chừa một cành cây cao gần đó, nối giá khổ với một khung màu trắng (làm bằng lá bật cật) bằng một sợi dây rất mảnh. Khi giá khổ đóng, heo nhảy xuống hầm, chiếc dây nhỏ kia sẽ kéo theo khung màu trắng. Mỗi sáng, ‘chủ hầm’ đều đứng ở đầu làng căng mắt nhìn vào nơi có hình dáng chiếc khung. Không thấy nó, người ta chắc chắc hầm ‘sụp’ và heo đang ở bên dưới. Khi thăm hầm, ít nhất phải hai người, trang bị một hay hai lưỡi mác, phòng gặp heo ‘đực chiếc’ (lợn lòi) có con cực lớn, thịt móc hàm không kể xương có thể tới 1 tạ. Đông người mới có thể lôi heo lên khỏi miệng hầm sâu 3 mét. Có khi, chiếc hầm dài 5 mét ấy chứa cả một bầy heo, một con mẹ và hơn chục con con.
Ngày nay, quê tôi còn nhiều thú rừng không? Heo rừng cũng được. Không. Nói cho gọn. Không một thú nào tìm thấy nữa, kể cả: nhím, cheo, chồn, mang (mễnh), chứ chưa nói tới nai. Cọp, beo, voi…chỉ còn trong ký ức.
Những câu chuyện về thú rừng trở thành cổ tích dù chưa quá 100 năm. Ngày nay, còn heo rừng thiên nhiên không? Còn. Nghe đâu phải qua tận đất Lào để bẫy lén. Khi con thú dính bẫy, việc đầu tiên là chích phot môn rồi xẻ thịt. Trên các bàn tiệc dành cho các ‘’đại gia” ham đặc sản núi rừng, thịt rừng thật (không phải nuôi) và phot môn cũng rất thật. Thiên nhiên tạo ra cây rừng và thú rừng. Con người ngày nay tiệt diệt thú rừng và tàn phá cây rừng. Không hẳn chỉ ở quê hương tôi đâu. Có lẽ là quê hương của rất nhiều quí vị.
Quê hương có thú rừng và cây rừng chỉ còn là câu chuyện “hồi xưa”, một ngày nào đó không còn nghe ai kể nữa…
1E8AXGYYaU_Oi-NbXBXnynMGelZ4fUQIHNAFJEzXVEpo